Phần thứ hai
GIẤC MƠ
Một hôm loài người tìm ra rằng những triệu chứng bệnh hoạn của những người thần kinh không vững, chắc chắn có một ý nghĩa. Đó là điểm khởi đầu của phương pháp trị bệnh bằng phân tâm học. Trong lúc chữa chạy người ta thấy rằng các người bệnh thường coi những giấc mơ như những dấu hiệu chứng bệnh hoạn. Vì thế người ta đồn rằng những giấc mơ đó cũng có một ý nghĩa gì.
Đáng lẽ phải theo thứ tự lịch sử trong công việc khảo sát, chúng ta lại bắt đầu bằng cách đi từ dưới lên trên, từ sau ra trước. Để chuẩn bị cho việc khảo sát các bệnh thần kinh chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của những giấc mơ. Sở dĩ chúng ta có thể đảo lộn trật tự trước sau như thế là vì giấc mơ không những giúp nhiều trong công việc chuẩn bị khảo sát về bệnh thần kinh mà giấc mơ còn là một triệu chứng của bệnh thần kinh này. Đó là một triệu chứng rất tốt vì chúng ta có thể quan sát thấy gần như ở khắp mọi người kể cả những người sức khoẻ bình thường. Khảo sát những người khoẻ mạnh bình thường mà nằm mơ, chúng ta cũng thu lượm được những kết quả như khi khảo sát người mắc bệnh thần kinh.
Chính vì thế nên giấc mơ trở thành đối tượng khảo sát của môn phân tâm học. Giấc mơ là một hiện tượng tầm thường, một hiện tượng không được coi là quan trọng, bề ngoài có vẻ chẳng có giá trị thực tế gì, cũng như những người khoẻ mạnh bình thường, vì thế nên giấc mơ không hiến cho chúng ta những điều kiện khảo sát có giá trị. Những hành vi sai lạc không được khoa học để ý đến và mọi người chỉ hơi để ý đến thôi; nhưng dù sao khảo sát các hành vi sai lạc này chả có gì đáng xấu hổ, người ta có thể tự nhủ là những hành vi sai lạc cũng có thể hiến cho chúng ta những dữ kiện để khảo sát những công trình quan trọng hơn. Nhưng khảo sát các giấc mơ thường được coi như làm một công việc chẳng có ích lợi gì trong thực tế đã vô ích mà còn bị coi như một trò giải trí đáng xấu hổ nữa, một công việc phản khoa học chứng tỏ người muốn khảo sát là một người muốn làm một chuyện thần bí. Làm sao một bác sĩ lại có thể khảo sát về giấc mơ được trong khi môn bệnh lý thần kinh học và môn thần kinh học hiến cho chúng ta những hiện tượng đúng đắn hơn nhiều: những cái nhọt bọc trong cơ năng thần kinh hệ, những sự xuất huyết, những chứng viêm mạn v v...không được! Giấc mơ là một thứ vô nghĩa không đáng cho chúng ta khảo cứu.
Ngoài ra giấc mơ còn là một thứ gì phản trái hẳn với những đòi hỏi của khoa học, mà nhà khảo cứu không thể có một yếu tố gì chắc chắn. Ví dụ như một ý tưởng cố chấp cũng có những giới hạn rõ ràng. Một người bệnh tuyên bố rầm rĩ: “Tao là Hoàng đế nước Trung Hoa đây”. Chứ còn giấc mơ! Nhiều khi người ta không kể cho ta nghe giấc mơ nữa. Khi một người kể cho ta nghe giấc mơ của họ, có gì chứng tỏ rằng những điều anh ta kể là đúng, rằng trong khi kể anh ta lại không tìm cách phóng đại ra, có gì chứng tỏ anh ta lại không thêm thắt một vài điều tưởng tượng bởi vì anh ta không nhớ rõ. Đó là chưa nói đến chuyện nhiều khi người ta không nhớ lại cả giấc mơ nữa, chỉ nhớ được một vài mảnh vụn chả có nghĩa lý gì. Vậy mà, người ta tạo lập cả một khoa học tâm lý và một phương pháp trị bệnh trên những nền móng mỏng manh như thế?
Chúng ta bao giờ cũng nên ghi nhớ những lý luận hơi quá đáng. Quả là những điều đưa ra để bài bác giấc mơ có đi hơi quá xa.. Người ta bảo rằng những giấc mơ có một ý nghĩa chả có gì. Thì chúng ta chẳng có cơ hội để trả lời bài bác tương tự như thế rồi sau khi khảo cứu các hành vi sai lạc sao? Lúc đó chúng ta đã tự nhủ là những việc quan trọng nhiều khi cũng được phát hiện bằng những dấu hiệu rất tầm thường. Còn việc giấc mơ có tính cách mơ hồ thì đó cũng chỉ là một đặc tính như những đặc tính khác; chúng ta làm sao có thể bắt buộc sự việc phải có những đặc tính mà chúng ta muốn. Vả lại cũng có những giấc mơ rõ ràng và có giới hạn nhất định. Ngoài ra chính những nhà thần kinh học cũng khảo sát những hiện tượng cũng có tính chất mơ hồ như thí dụ những trường hợp có những ý tưởng cố chấp mà nhiều vị bác sĩ thần kinh học nổi tiếng thường khảo cứu. Tôi nhớ đến một trường hợp đã gặp trong thời kỳ chữa bệnh. Người bệnh bắt đầu kể chuyện cho tôi nghe: “ Tôi có cảm tưởng muốn làm hại một sinh vật nào đó.. Hại một đứa trẻ con! Không phải, hình như là hại một con chó thì phải. Tôi có cảm tưởng là vừa vứt một con chó xuống sông hay làm gì cho nó bị đau đớn lắm”. Để sửa chữa tính cách mơ hồ của những giấc mơ, chúng ta phải nói ngay là chúng ta chỉ coi là những giấc mơ những điều mà người nằm mơ kể lại cho chúng ta nghe thôi chứ không để ý đến việc người đó có thể nhớ không kỹ hay sửa đổi những điều anh ta nhớ lại. Sau cùng người ta không có quyền cho rằng giấc mơ là một hiện tượng không quan trọng. Ai cũng đều biết có những trường hợp trong đó căn bệnh bắt đầu bằng một giấc mơ và người bệnh cứ giữ mãi một ý tưởng bắt nguồn trong giấc mơ. Người ta kể rằng có nhiều nhân vật lịch sử đã tìm thấy trong giấc mơ động lực thúc đẩy mình làm nên những chuyện to tát. Vì thế chúng ta có thể tự hỏi xem sự coi khinh các giấc mơ trong giới khoa học bắt nguồn từ đâu?
Tôi cho rằng nó bắt nguồn ở chỗ ngày xưa người ta lại gán cho những giấc mơ một tầm quan trọng quá đáng. Ai cũng biết là chúng ta không thể dễ dàng quay trở lại quá khứ nhưng chúng ta có thể không ngần ngừ gì mà không cho rằng tổ tiên của chúng ta cách đây hai ngàn năm hay hơn nữa cũng nằm mơ như chúng ta vậy. Theo chỗ chúng ta biết thì tất cả những dân tộc cổ xưa đều gán cho các giấc mơ giá trị rất cao và coi những giấc mơ như một thứ gì có thể dùng được việc, ví dụ như dùng để đoán trước tương lai hay coi đó là một điềm báo trước một sự gì. Đối với người Hi lạp ngày xưa cũng như đối với một số người dân tộc Phương Đông, đi đánh trận mà không đem theo những người chuyên môn giải các giấc mơ là việc không thể có được, cũng như ngày nay chúng ta đi đánh trận mà không có máy bay trinh sát. Khi Đại đế Alexandre đi chinh phục mọi nơi, bao giờ ngài cũng đem theo những nhà chuyên môn giải các giấc mơ nổi tiếng nhất. Trong cuộc tấn công thành Tyr, trước sức chống giữ mãnh liệt của thành này, nhà vua định không bao vây nữa, nhưng đột nhiên nằm mơ thấy một con quỷ nhảy nhót điên cuồng. Người thầy bói đoán rằng đó là một điềm chiến thắng. Vua liền ra lệnh tiếp tục tấn công và hạ được thành. Dân tộc Etrusques và La Mã tuy có dùng những phương pháp khác nhau để dự đoán tương lai nhưng cũng dùng những giấc mơ trong suốt thời gian La Hy. Về vấn đề này chúng ta chỉ còn giữ lại được một cuốn Artémidore ở Ephesé từ thời Hoàng đế Adrien.
Tại sao nghệ thuật đoán mộng lại suy sụp và những giấc mơ không còn được tin cậy nữa? Tôi chịu không thể nói cho các bạn nghe được. Người ta có thể cho rằng học vấn chính là nguyên nhân của sự suy sụp và coi khinh nó vì Thời trung cổ hãy còn giữ lại được những điều khó hiểu gấp bội sự đoán mộng. Nhưng sự thực là giấc mơ dần dần trở thành một thứ mê tín dị đoan chỉ còn được những kẻ vô học để ý đến mà thôi. Mãi tận ngày nay người ta vẫn hay còn tin tưởng vào giấc mơ để mua vé số. Trái lại khoa học ngày nay lại càng để ý đến những giấc mơ, nhưng với ý định áp dụng vào đó những lý thuyết về tâm lý học. Các thầy thuốc coi giấc mơ không phải là một hoạt động tinh thần nhưng là một sự phát biểu của các sự kích thích về cơ thể có dính dáng đến tinh thần. Năm 1987, Binz tuyên bố rằng “giấc mơ là một sự hoạt động của thể xác, chẳng có ích lợi gì nhiều khi còn có tính cách bệnh hoạn nữa. Đối với linh hồn bao quát và sự bất tử , giấc mơ ở vào địa vị của một mảnh đất cát đầy cỏ dại , dưới một cái vực nào đó với bầu không khí trong xanh trên nền trời cao vút”. Maury coi giấc mơ như những sự nhảy nhót điên cuồng của vũ điệu Saint Guy, trái với những hành động có trật tự của những con người bình thường. Ngày xưa người ta còn so sánh những giấc mơ với những thanh âm do một người thông thạo về âm nhạc phát ra trên phím đàn.
Giải thích tức là tìm những ý nghĩa chưa rõ rệt: nhưng người ta không thể nói đến chuyện giải thích các giấc mơ khi người ta khinh chúng như thế. Các bạn hãy đọc trong tác phẩm của Wund, Jodt và các triết gia khác: tất cả đều chỉ liệt kê những điểm khác nhau giữa giấc mơ và tình trạng thức, hay chú ý đến những sự phân hoá của các liên tưởng, sự biến mất của trí óc phê bình, của mọi trí thức và những dấu hiệu tỏ ra rằng giấc mơ không có giá trị gì hết. Khoa học chỉ đóng góp vào việc tìm hiểu giấc mơ bằng mỗi một điểm, đó là việc xét ảnh hưởng của những sự kích động về cơ thể trong khi ngủ đối với nội dung giấc mơ. Một tác giả người Na uy đã để lại cho chúng ta hai cuốn sách về những thí nghiệm về giấc mơ liên quan đến các kết quả của sự chuyển động chân tay thôi. Người ta cho rằng những công trình khảo cứu đó là những công trình có giá trị về giấc ngủ. Nhưng khoa học sẽ nói thế nào nếu biết rằng chúng ta đang tìm hiểu ý nghĩa của những giấc mơ? ý kiến của khoa học ra sao thì mình đã biết rồi, nhưng tôi không hề thấy nản lòng trước ý kiến đó. Một khi các hành vi sai lạc cũng có một ý nghĩa thì chẳng có gì ngăn cản các giấc mơ cũng có một ý nghĩa và trong nhiều giấc mơ chúng ta đã thấy là quả thực là chúng có một ý nghĩa mà khoa học không tìm ra được. Vì vậy chúng ta hãy công nhận làm của riêng của chúng ta và cái quan niệm của người xưa về các giấc mơ, và chúng ta hãy đi lại con đường của họ về cách đoán mộng.
Trước hết, chúng ta phải tìm hướng đi cho công việc của chúng ta và duyệt lại phạm vi của giấc mơ. Vậy giấc mơ là gì? Thực khó trả lời câu hỏi đó bằng một định nghĩa. Vì thế nên chúng ta sẽ không cố gắng đưa ra một định nghĩa trong khi không ai là người không biết đến giấc mơ cả. Nhưng chúng ta phải đưa ra ánh sáng những đặc tính của giấc mơ. Nhưng tìm đâu ra bây giờ? Trong phạm vi các giấc mơ có biết bao nhiêu thứ. Những đặc tính cần thiết chúng ta nêu ra sẽ là những đặc tính chung cho mọi giấc mơ.
Đặc tính chung thứ nhất là chúng ta chỉ nằm mơ khi chúng ta ngủ thôi. Dĩ nhiên những giấc mơ chỉ là một sự hoạt động của tinh thần trong khi ngủ, và nếu đời sống tinh thần này có một vài điểm gì giống như đời sống trong trạng thái thức tỉnh thì trái lại cũng có những điểm khác với đời sống này. Đó là định nghĩa của Aristote. Giữa giấc ngủ và giấc mơ có thể có những liên quan chặt chẽ. Nhiều khi chúng ta bị giấc mơ đánh thức dậy, nhiều khi đang mơ chúng ta đột nhiên tỉnh dậy, hay bị đánh thức dậy một cách đột ngột. Như vậy tức là giấc mơ là một tình trạng trung gian giữa giấc ngủ và tình trạng thức tỉnh. Như thế tức là chúng ta lại quay về với giấc ngủ. Vậy giấc ngủ là gì?
Giấc ngủ là một vấn đề của sinh lý hay của đời sống, đến nay người ta hãy còn bàn cãi chưa dứt khoát. Chúng ta phải tìm những đặc tính của giấc ngủ về phương diện sinh lý.. Giấc ngủ là một trạng thái mà trong đó người ta ngủ không muốn biết gì về đời sống bên ngoài nữa, quyền lợi của người ngủ thoát hẳn ra thế giới bên ngoài , muốn thoát khỏi sự kích động của thế giới bên ngoài vào. Tôi đi ngủ khi mệt mỏi vì đời sống bên ngoài và vì sự kích động đó. Khi đi ngủ tôi bảo đời sống bên ngoài biết nên để cho tôi yên vì tôi muốn ngủ. Đứa bé con, trái lại lại nói: “tôi chưa muốn đi ngủ, tôi không mệt, tôi muốn thức nữa”. Vậy khuynh hướng đời sống của giấc ngủ là sự không thèm để ý đến đời sống bên ngoài nữa. Đối với thế giới mà chúng ta bị bắt buộc phải bước vào mà không hề muốn, chúng ta ở vào một trạng thái làm cho chúng ta không thể nào chịu đựng được một cuộc sống liên tục mãi mãi không ngừng. Vì thế cho nên thỉnh thoảng ta lại phải ru mình vào trạng thái của chúng ta trước khi ra đời trong lúc còn đang nằm trong dạ con. Ít nhất trong tình trạng đó chúng ta cũng tự tạo cho ta những điều kiện của đời sống: nào nhiệt độ, nào bóng tối, nào sự vắng mặt của mọi sự kích động. Nhiều người trong chúng ta nằm ngủ co quắp như khi đang còn nằm trong bụng mẹ. Người ta có thể cho rằng khi đã trưởng thành chúng ta chỉ sống hai phần ba đời người trong trạng thái trưởng thành thôi còn phần ba kia chúng ta sống như chưa ra đời. Trong những điều kiện đó, mỗi buổi sáng khi tỉnh dậy chúng ta có cảm tưởng như vừa mới sinh ra đời vậy. Chúng ta chẳng vẫn thường nói về trạng thái của chúng ta khi tỉnh dậy rằng chúng ta như một đứa trẻ sơ sinh sao? Nói như thế thực ra chúng ta có một ý niệm rất sai về đứa bé sơ sinh. Sự thực là ta phải đồ rằng đứa bé lúc mới ra đời chẳng có gì là dễ chịu cả. Nói về sự sinh ra đời chúng ta chẳng thường nói là ra ngoài ánh sáng đó sao?
Nếu giấc ngủ như chúng ta vừa nói thì giấc mơ không thể là một thành phần trong giấc ngủ mà lại còn là một cái gì rất khó chịu. Chúng ta thường cho rằng những giấc ngủ không mơ là những giấc ngủ tốt đẹp nhất, đó mới chính là một giấc ngủ độc nhất thực sự; không có một hoạt động tinh thần nào được có trong giấc ngủ. Nếu có một hoạt động tinh thần nào thì tức là chúng ta không thành công trong công việc quay lại trạng thái của bào thai, chưa rũ bỏ lại được những cái gì còn sót lại trong đời sống bên ngoài. Giấc mơ không gì khác hơn là những cái gì còn sót lại đó, và có vẻ như những giấc mơ không có ý nghĩa gì cả. Những hành vi sai lạc, những hoạt động của tình trạng tỉnh có tính chất khác hẳn. Nhưng khi tôi ngủ sau khi đã thành công trong việc chấm dứt mọi hoạt động tinh thần ngoài một dư âm còn sót lại, thì những dư âm này cần gì phải có ý nghĩa. Dù rằng có ý nghĩa thì tôi cũng chẳng thể dùng được vào việc gì cả, vì đời sống tinh thần của tôi đã ngừng lại khi tôi ngủ. Giấc mơ có thể chỉ là những phản ứng xuất hiện dưới hình thức những sự co quắp, những hiện tượng tinh thần do sự kích động cơ thể gây nên. Những giấc mơ có thể là những cái gì còn sót lại của đời sống tinh thần lúc đang thức, những cái còn sót lại có thể làm cho giấc ngủ không yên; và như thế chúng ta chỉ còn có việc bỏ rơi vấn đề coi như không thuộc môn phân tâm học.
Dù cho rằng những giấc mơ chẳng có ích lợi gì cả, đó vẫn là những sự gì có thực mà chúng ta cần cố gắng cắt nghĩa sự có thực này. Tại sao đời sống tinh thần lại không ngủ nhỉ? Chắc chắn là có một vài sự gì chống lại giấc ngủ đó. Có lẽ có những sự kích động làm cho đời sống tinh thần phản ứng lại.
Vậy giấc mơ chính là sự phản ứng của linh hồn chống lại những sự kích động phát sinh ra trong giấc ngủ. Đến đây chúng ta đã nhìn thấy một con đường bỏ ngỏ trong việc tìm kiếm giấc mơ. Chúng ta có thể tìm xem có những kích động nào đã làm cho giấc ngủ không yên và người ngủ phản ứng lại . Như thế chúng ta sẽ đưa ra được đặc tính chung thứ nhất cho các giấc mơ.
Ngoài ra còn đặc tính chung nào nữa không? Tất nhiên là có nhưng khó nắm được và mô tả được. Sự hoạt động tâm lý trong lúc ngủ khác hẳn trong khi thức. Trong lúc ngủ, người ta chứng kiến những biến cố mà người ta tin tưởng trong khi thực tế đó có thể chỉ là những sự kích động cơ thể làm cho giấc ngủ không yên. Người ta nhìn thấy các hình ảnh nhiều khi có kèm theo những tình cảm, ý kiến và cảm giác do các giác quan khác hơn là thị giác cung cấp, nhưng dù sao thì những hình ảnh bao giờ cũng trội hơn. Cho nên khi chúng ta kể lại một giấc mơ, điều khó cho chúng ta là làm sao diễn tả những hình ảnh đó thành lời nói. Có nhiều khi một người nằm mơ bảo là: tôi có thể vẽ lại cho ông xem giấc mơ của tôi chứ tôi không thể kể lại được. Đó không phải là một hoạt động tinh thần sút kém như trong trường hợp những người kém tinh thần bên cạnh những người có tài: hình như có một sự khác biệt về phẩm nhưng không ai biết khác biệt ra sao. G.Th.Fisher cho rằng sân khấu của giấc mơ khác hẳn sân khấu của tình trạng thức tỉnh. Đó là một điều chúng ta không hiểu, không biết nghĩ ra sao nhưng cũng biết diễn tả được cảm giác lạ lùng khi ta nằm mơ rồi thức dậy. Sự so sánh những hoạt động trong giấc mơ với những thanh âm phát ra từ các phím đàn do tay của một người không hiểu biết về âm nhạc đối với chúng ta chẳng có ích lợi gì hết, vì dù không thạo về âm nhạc đi chăng nữa thì trường hợp khi đặt tay lên phím đàn người ta cũng làm phát ra những thanh âm, và những thanh âm này không cần du dương cho lắm. Đó là đặc tính chung thứ hai của các giấc mơ, dù chưa được hiểu rõ.
Còn có những đặc tính chung nào khác nữa không? Tôi không tìm ra nữa, tôi chỉ thấy những sự khác biệt về mọi điểm: về điểm thời gian nằm mơ cũng như về tính cách rõ ràng hay không, về vai trò của các sự xúc động, về sự kéo dài ra.. Theo tôi thì sự việc xảy ra chẳng khác gì người ta phải chống lại một sự kích động dù là bị bó buộc, dù chỉ có tính chất chốc lát, giành giật. Có những giấc mơ rất ngắn, có khi chỉ có một hình ảnh, một tiếng nói; có những giấc mơ rất dài, rất dồi dào, kéo dài như một cuốn tiểu thuyết. Có những giấc mơ rất rõ ràng chẳng khác gì đời thực, rõ đến nỗi nhiều khi người ta tự hỏi không biết mình mê hay tỉnh; có những giấc mơ rất yếu, mơ hồ, mờ mịt, có khi lại rõ ràng lại vừa mờ mịt, có những giấc mơ có nhiều ý nghĩa, vui vẻ, đẹp đẽ; có những giấc mơ trái lại loạn xạ, ngớ ngẩn, khó hiểu, ly kỳ. Có khi chúng ta thờ ơ với giấc mơ nhưng có khi chúng ta thấy cảm động, đau đớn, có khi phát khóc, xúc động, ngạc nhiên, thích thú... Nhiều giấc mơ bị quên ngay sau khi thức dậy và nếu có còn được nhớ lại thì cũng mờ dần đi; trái lại có những giấc mơ mà người ta nhớ mãi, nhất là những giấc mơ trẻ con, đến nỗi ba mươi năm sau mà còn rõ ràng như vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Có những giấc mơ chỉ xảy ra có một lần; có những giấc mơ xảy đi xảy lại cho một người nhiều lần, hoặc y nguyên như lần trước, hoặc có thay đổi chút ít. Nói tóm lại, sự hoạt động của tinh thần này thực ra có rất nhiều hình thức, có khả năng diễn lại những gì đã xảy ra ban ngày nhưng không bao giờ giống nhau cả.
Chúng ta có thể cắt nghĩa những hình thức khác nhau này của những giấc mơ bằng cách cho rằng chúng tương ứng với những trạng thái trung gian giữa giấc ngủ và tình trạng thức tỉnh, hoặc với những giai đoạn khác nhau của giấc ngủ không hoàn toàn. Nhưng nếu thực như thế thì mỗi khi giấc mơ càng ngày càng có giá trị hơn, rõ ràng hơn, có nội dung dồi dào hơn, chúng ta phải cho rằng đó không phải là một tình trạng nửa thức nửa ngủ mà là một giấc mơ thực sự, bởi vì trong những giấc mơ loại này, đời sống tinh thần càng ngày càng gần với đời sống tinh thần lúc thức hơn. Điều cần là những giấc mơ đó phải thực rõ chứ không thể có lúc rõ lúc mờ hay có lúc hợp lý rồi có lúc lại ngớ ngẩn vô nghĩa. Nếu chúng ta chấp nhận điều giải thích nói trên tức là chúng ta đã gán cho đời sống tinh thần khả năng thay đổi tính chất say sưa của giấc ngủ theo một tốc độ và một cách rõ ràng không có trong thực tế. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng cách giải thích đó không đứng vững được. Thường thường sự việc không đơn giản như thế.
Bây giờ cho tới khi có quyết định mới, chúng ta sẽ không tìm hiểu ý nghĩa của những giấc mơ nữa, nhưng sẽ tìm cách hiểu rõ những giấc mơ bằng cách dựa vào những đặc tính của nó. Nói về liên quan giữa giấc mơ và giấc ngủ, chúng ta đã nói rằng giấc mơ là một phản ứng đối với một sự kích động trong giấc ngủ, làm cho giấc ngủ không yên. Đó chính là điểm độc nhất mà môn Tâm lý học thực nghiệm có thể giúp đỡ chúng ta bằng cách hiến cho chúng ta bằng chứng rằng những sự kích động xảy ra trong giấc ngủ cũng xuất hiện trong giấc mơ. Chúng ta có nhiều công trình khảo sát về vấn đề này kể cả công trình Maury Vold đã nói trong những dòng trên, và mỗi người chúng ta có thể xác nhận điều đó dựa vào những kinh nghiệm cá nhân. Tôi đơn cử những thí nghiệm chọn trong những thí nghiệm cũ nhất. Chính Maury đã thí nghiệm ngay trên bản thân mình. Trong lúc ông ta ngủ có người cho ông ta ngửi nước Cologne: ông ta mơ thấy mình ở Cario kinh đô xứ Ai cập, trong tiệm Jean Maria Farina, rồi từ đó phát sinh ra bao nhiêu chuyện ly kỳ. Người ta bấm nhẹ vào gáy ông: ông luôn mơ thấy một miếng thuốc dán và đến ông thầy thuốc săn sóc ông trong lúc ông còn nhỏ. Người ta nhỏ lên trán ông một giọt nước: ông mơ thấy mình ở bên Ý mồ hôi ra như tắm và uống rượu vang Orvieto.
Điều đáng chú ý trong những giấc mơ do những sự kích thích gây ra sẽ xuất hiện rõ ràng hơn trong một loại giấc mơ khác. Đó là ba giấc mơ gây ra do một tiếng động của một chiếc đồng hồ báo thức (thí nghiệm của Hildebrant).
“Một buổi sáng mùa xuân, tôi đi dạo qua một cánh đồng đến một làng bên cạnh, thấy dân làng kéo nhau đi nhà thờ, quần áo đẹp, tay cầm cuốn kinh. Hôm đó là chủ nhật và có dự thánh lễ bắt đầu rồi, tôi quyết định vào xem lễ nhưng vì trời nóng quá nên tôi ngồi nghỉ trong nghĩa địa chung quanh nhà thờ. Vừa chăm chú đọc những dòng chữ trên mộ tôi vừa nghe tiếng người kéo chuông nhỏ sắp gióng lên để báo hiệu là buổi cầu kinh sắp bắt đầu. Lúc đầu chuông còn đứng im, nhưng sau đó những tiếng chuông lanh lảnh làm tôi tỉnh giấc. Thì ra chính chiếc đồng hồ bắo thức đã vừa kêu lên”.
“Một chuyện nữa: Hôm đó là một ngày mùa đông trong sáng. Tuyết rơi đầy đường, tôi định đi xe trượt tuyết nhưng phải chờ xe. Trước khi lên xe, tôi phải sửa soạn lại áo ấm, đem lò sưởi theo. Rồi tôi ngồi vào xe, lại phải chờ nữa cho đến khi ngựa bắt đầu đi. Ngựa bắt đầu đi, tiếng nhạc vang lên nghe rất khó chịu làm tôi tỉnh giấc. Thì ra lần này cũng vẫn là cái đồng hồ báo thức lanh lảnh”.
“Thí dụ ba: tôi nhìn cô người làm mang một chồng đĩa từ bếp theo hành lang vào phòng ăn. Chồng đĩa quá cao, tôi chỉ sợ không giữ thăng bằng thì vỡ hết. Tôi bảo chị ta nên cẩn thận. Lần nào chị cũng trả lời là chị quen rồi. Nhưng tôi vẫn nhìn chị ta bằng con mắt e ngại. Quả nhiên chị vấp ngã, đĩa rơi xuống đất kêu nghe kinh khủng. Nhưng tôi có cảm tưởng như đó không phải là tiếng đĩa vỡ, nhưng là một tiếng gì kéo dài mãi như tiếng chuông. Lúc tỉnh dậy, tôi mới thấy đó là tiếng chuông đồng hồ báo thức”.
Những giấc mơ này thực đẹp, đầy ý nghĩa, có mạch lạc hẳn hoi. Vì thế nên chúng ta chả có gì trách chúng được. Chúng có đặc điểm chung là bao giờ cũng kết thúc bằng một tiếng chuông đồng hồ báo thức. Thế là chúng ta thấy rõ một giấc mơ đã phát sinh ra như thế nào. Nhưng chúng ta còn biết một vài điểm khác nữa. Người nằm mơ không nhận ra tiếng chuông đồng hồ báo thức (không có trong giấc mơ) nhưng mỗi lần hễ nghe tiếng chuông là ông ta thay tiếng chuông bằng một thứ tiếng khác và giải thích theo một lối khác. Tại sao? Không trả lời được. Người ta có thể cho rằng đó là một cái gì hết sức võ đoán. Nhưng tìm hiểu một giấc mơ tức là tìm hiểu xem tại sao người nằm mơ lại chọn tiếng động này chứ không chọn tiếng khác để giải thích sự kích động làm cho bừng tỉnh dậy. Người ta có thể hỏi Maury rằng nếu trong giấc mơ người ta thấy rõ ràng sự kích động là sự nào thì người ta không thể hiểu tại sao sự kích động này lại xuất hiện dưới một hình thức không liên can gì đến tính chất sự kích động cả? Vả lại trong những giấc mơ của Maury người ta thấy nhiều biến cố kỳ lạ gắn liền vào sự kích động như trong trường hợp ngửi nước Cologne, những biến cố này không thể cắt nghĩa được.
Các bạn cần để ý rằng chính trong các giấc mơ có sự bừng tỉnh dậy di theo mà chúng ta có thể nhìn thấy ảnh hưởng của những kích động làm tan giấc mơ. Trong nhiều trường hợp khác sự việc khó khăn hơn nhiều. Không phải lúc nào nằm mơ người ta cũng tỉnh dậy ngay, và khi sáng dậy nhớ lại giấc mơ làm sao người ta biết được sự kích động nào đã gây ra giấc mơ? Có một lần nhờ một trường hợp đặc biệt tôi tìm ra được một sự kích động âm vang thuộc loại này. Một buổi sáng tại Tyrol tôi tỉnh dậy sau khi nằm mơ rằng Đức giáo hoàng vừa từ trần. Tôi đang tìm hiểu ý nghĩa của giấc mơ đó thì bà vợ tôi đột nhiên hỏi: “ Sáng nay anh có nghe tiếng chuông ở khắp các nhà thờ không?” “Không, tôi không nghe thấy gì hết, tôi ngủ rất say”. Nhưng sự kích động làm cho mình nằm mơ có tần số nào mà sau đó người nằm mơ tỉnh dậy không hề hay biết gì về sự kích động đó? Tần số này có thể rất cao mà cũng có thể không cao. Khi không có cách nào để biết được có kích động hay không thì không làm sao biết được tần số đó. Vả lại chúng ta chẳng cần thảo luận về giá trị của các sự kích động bên ngoài, bởi vì những sự kích động này chỉ có thể cắt nghĩa được một phần nào trong giấc mơ thôi chứ không cắt nghĩa toàn thể giấc mơ.
Nhưng không thể vì thế mà chúng ta có quyền bỏ rơi thuyết này, một thuyết có phát triển sâu rộng. Vấn đề tự hỏi xem nguyên nhân nào làm cho giấc ngủ không yên và làm cho người ta nằm mơ không phải là vấn đề quan trọng. Nếu nguyên nhân không phải là một sự kích động từ bên ngoài thì có lẽ là một sự kích động từ bên trong do giác quan gây nên. Quan niệm này được người dân thành phố tin tưởng rất nhiều. Chúng ta chẳng thường nghe nói rằng những giấc mơ thường do bao tử gây nên hay sao? Nhưng khổ nỗi là trong trường hợp này nữa có thể rằng có một sự kích động nội tâm xảy ra trong ban đêm nhưng sáng ra không còn để lại dấu vết gì nữa và do đó không chứng minh được. Tuy vậy chúng ta không muốn tỏ vẻ lơ là vối những thí nghiệm cho rằng những giấc mơ thường gắn liền với những sự kích động bên ngoài. Không ai phủ nhận rằng trạng thái của các cơ quan nội tâm có ảnh hưởng đến các giấc mơ. Người ta không thể bỏ qua sự liên quan giữa một vài giấc mơ với việc nước tiểu chất đầy trong bàng quang hay sự kích động các cơ quan sinh dục của phụ nữ. Từ những trường hợp rõ ràng này người ta qua những trường hợp khác chứng tỏ rằng những sự kích động bắt nguồn từ các cơ quan nội thể quả có ảnh hưởng tới các giấc mơ và những sự xảy ra trong giấc mơ chính là sự phác hoạ, sự thành hình, sự giải thích những sự kích động đó.
Scherner đã khảo cứu nhiều về các giấc mơ, đặc biệt nhấn mạnh đến sự liên quan giữa những sự kích động nội thể này và những giấc mơ. Ông đã cho chúng ta nhiều thí dụ rất hay để chứng minh ý kiến của mình. Ví dụ như khi ông ta nằm mơ thấy hai hàng em bé xinh trai tóc nâu, đứng trước mặt nhau trong thái độ đấu tranh, nhảy xổ vào đánh nhau, ông nghĩ rằng đó là hai hàm răng. Sự giải thích này được xác nhận sau đó vì khi tỉnh dậy ông đã phải đi nhổ một cái răng dài hơn những cái khác. Khi người ta nằm mơ thấy một hành lang dài, ngoằn nghèo chật hẹp thì người ta nghĩ ngay đến một sự kích động trong ruột. Cách cắt nghĩa này không phải là không có lý. Chúng ta có thể chấp nhận ý kiến của Scherner cho rằng giấc mơ thường hình dung cơ quan gây ra sự kích động bằng những đồ vật giống cơ quan đó.
Vì thế chúng ta không công nhận rằng những sự kích động nội thể có thể ảnh hưởng tới các giấc mơ y như những sự kích động từ bên ngoài vào. Khổ một điều, sự giải thích đó cũng bị lý lẽ như đối với những sự kích động bên ngoài bài bác. Trong rất nhiều trường hợp sự giải thích bằng sự kích động bên trong không chứng minh được và không chắc chắn. Chỉ có một vài giấc mơ làm cho người ta nghi rằng có một sự kích động bên trong cũng như bên ngoài chỉ cắt nghĩa được một phần nào giấc mơ chứ không cắt nghĩa được toàn thể.
Tuy nhiên chúng ta cần để ý đến một điểm đặc biệt của những giấc mơ do sự kích động bên trong gây nên. Giấc mơ không gợi lại sự kích động nguyên vẹn mà thay đổi đi, bằng một sự ám chỉ xếp loại dưới một hình thức nào đó, thay thế bằng một sự kích động khác. Chúng ta phải để ý đến những sự biến dạng đó trong những giấc mơ tiếp diễn, bởi vì làm như thế chúng ta có nhiều hy vọng hiểu được tính chất thực sự của các giấc mơ. Khi chúng ta làm một hành động nào đó trong một trường hợp nào đó, đâu có phải khi trường hợp đó không có nữa thì hành động của chúng ta bị triệt tiêu luôn. Vở Macbeth chẳng hạn được viết trong trường hợp đăng quang của một ông vua đầu tiên quy tụ trên đầu mình ba vương miện của ba nước. Nhưng có phải trường hợp triệt tiêu hết nội dung của vở kịch đâu, có phải trường hợp đó đủ cắt nghĩa được giá trị cao cả của những bí ẩn của vở kịch không? Có thể là sự kích động bên trong và bên ngoài tác dụng đến người nằm ngủ chỉ dùng để mở đầu cho giấc mơ thôi chứ không hề cho chúng ta biết gì về tính chất thực sự của nó.
Tính chất chung kia của các giấc mơ, tính chất đặc biệt tinh thần của chúng rất khó hiểu và không đưa ra một chỗ dựa nào cho một cuộc khảo sát sau đó. Thường thường những biến cố trong giấc mơ hiện ra dưới hình thức thị giác. Những sự kích động có thể giải thích được sự kiện này không? Có đúng là chúng ta đã bị kích động trong mơ hay không? Nhưng tại sao giấc mơ lại xuất hiện dưới hình thức thị giác trong khi những sự kích động vào mắt lại rất ít khi gây nên giấc mơ? Hay là chúng ta nằm mơ thấy nói chuyện hay nghe diễn văn làm sao chứng minh được rằng trong khi ta ngủ những tiếng nói chuyện hay tiếng động đã đập vào tai ta? Tôi cương quyết gạt bỏ giả thuyết này.
Nếu đặc tính chung cho mọi giấc mơ không giúp gì cho chúng ta trong việc cắt nghĩa các giấc mơ thì biết đâu chúng ta lại chẳng may mắn hơn khi xét đến các sự khác biệt giữa các giấc mơ. Thường thường các giấc mơ lộn xộn, khó hiểu , không có ý nghĩ gì; nhưng cũng có những giấc mơ đầy đủ ý nghĩa, rõ ràng. Chúng ta thử xem xét những giấc mơ này có cắt nghĩa được giấc mơ kia không? Tôi kể cho các bạn nghe một giấc mơ hợp lý do một thanh niên kể lại cho tôi nghe: “Trong lúc đi dạo phố tôi gặp ông X và đi với ông một quãng đường, rồi sau đó tôi vào một tiệm để ăn cơm thấy có hai người đàn bà và một người đàn ông đến ngồi ngay vào bàn tôi. Tôi bực mình không thèm nhìn họ nhưng rồi sau cũng nhìn và thấy họ là những người rất lịch sự”. Sau đó người kể chuyện nói rằng chiều hôm đó anh ta quả có đi phố thực và có gặp ông X.. thực. Nhưng phần kia giấc mơ không do những điều nhớ lại trực tiếp nhưng gắn liền vói một biến cố xảy ra trước đó ít ngày. Và đây là một giấc mơ cùng loại của một bà. Chồng bà ta hỏi: “Mình có cần phải căng lại dây cho cái đàn dương cầm không?” Bà ta trả lời: “Vô ích, vì còn phải thay cả da bọc nữa”. “Giấc mơ này gợi lại một câu chuyện của hai vợ chồng buổi chiều hôm đó. Hai giấc mơ ngắn ngủi cho ta biết những gì? Chúng ta có thể tìm thấy trong giấc mơ những giai đoạn gắn liền vào các biến cố đó. Nếu đó là kết quả của tất cả các giấc mơ thì đó là điều đáng kể lắm rồi. Nhưng sự thực không phải như thế vì điều chúng ta vừa nói chỉ áp dụng cho rất ít giấc mơ. Trong đa số trường hợp chúng ta không thấy có ý nghĩa gì liên quan đến biến cố xảy ra trong khi thức và không hiểu những yếu tố nào gây nên những giấc mơ khó hiểu và vô nghĩa đó. Chúng ta chỉ thấy rằng chúng ta lại đứng trước một vấn đề mới. Không những chúng ta cần biết giấc mơ có những ý nghĩa gì, chúng ta còn cần biết là trong những trường hợp nào những giấc mơ rõ ràng đầy ý nghĩa, tại sao và vi mục đích nào mà chúng ta lại thấy trong giấc mơ những biến cố vừa xảy ra trong ngày”.
Chắc các bạn cũng như tôi thấy chán nản trong công việc khảo cứu như thế. Dù chúng ta có để hết tâm trí vào một vấn đề cũng chẳng có ích gì một khi chúng ta chưa biết hướng công cuộc khảo cứu của chúng ta về phía nào. Tâm lý học thực nghiệm chỉ hiến cho chúng ta một số rất ít những dữ kiện về vai trò của các sự kích động bên ngoài dù những dữ kiện đó rất quý báu đối với chúng ta. Triết học chẳng có thể cung cấp cho cái gì khác hơn là thái độ khinh thường vì công việc của chúng ta bị coi chẳng có lợi ích gì cho tri thức hết. Sau hết chúng ta không muốn vay mượn gì các khoa học thần bí. Lịch sử và sự không ngoan của các dân tộc dạy chúng ta rằng những giấc mơ có ý nghĩa, có tính chất quan trọng, báo trước được tương lai nhưng đó là điều rất khó chấp nhận vì không chứng minh được. Chính vì thế mà những cố gắng đầu tiên của chúng ta đã không đưa lại kết quả gì, như nước chảy qua cầu.
Nhưng trong khi không chờ đợi, chúng ta lại được giúp đỡ từ một hướng khác đến, một hướng chưa bao giờ ngờ tới. Tiếng nói, một thứ tiếng không bao giờ có tính cách ngẫu nhiên cả, như sự kết tinh của tất cả những điều hiểu biết của loài người, tiếng nói mà người ta phải dùng một cách rất thận trọng biết có “những giấc mơ trong khi thức”: đó là kết quả của trí tưởng tượng, những hiện tượng rất phổ thông, có thể xảy ra đối với những người đau ốm mà bất cứ ai cũng khảo sát được bằng chính bản thân mình. Điềm đặc biệt ở đây là tuy được gọi là “những giấc mơ trong khi thức”, những giấc mơ đặc biệt này lại không có tính chất nào chung cho những giấc mơ thực sự cả. Đúng như tên gọi, chúng không có liên quan gì đến giấc ngủ. Những giấc mơ trong khi thức này không có một chút gì liên quan đến tính chất chung thứ hai trong các giấc mơ thực sự vì không hề có những biến cố, không hề có những ảo tưởng mà chỉ có những hình dung thôi: người ta biết rằng mình tưởng tượng, người ta không hề trông thấy mà chỉ suy nghĩ thôi. Những giấc mơ này thường xảy ra ở tuổi dậy thì, trong thời niên thiếu, biến mất khi đứng tuổi, rồi lại xảy ra lúc tuổi già. Nội dung của những giấc mơ, kết quả của sự tưởng tượng này thường có những lý do rất rõ ràng. Đó là những khung cảnh về uy quyền, những ham muốn về tình ái của người mơ mộng được thoả mãn. Đối với những người trẻ tuổi thì đó là những giấc mơ về tham vọng; đối với những đàn bà thích có những thành công về tình ái thì đó là những giấc mơ về tình ái. Nhưng luôn luôn người ta gặp những nhu cầu về tình ái đằng sau những giấc mơ của đàn ông: những sự thành công và những hành vi anh hùng của những người mơ mộng đều tập trung vào những sự thành công về tình ái, có mục đích nhằm đạt được sự thán phục và lòng yêu của người đàn bà. Ngoài những tính chất đó ra những giấc mơ trong khi hình ảnh có nhiều hình thức khác nhau và chịu nhiều hậu quả khác nhau. Có những cơn mộng bị bỏ rơi và bị thay thế bằng những giấc mơ khác; có những cơn mơ được giữ lại, phát triển mạnh mẽ và trở thành những câu chuyện dài dằng dặc và biến đổi theo những biến cố của cuộc đời. Người ta có thể cho rằng chúng ta đi theo cùng với thời gian và in dấu vết của thời gian như là bằng chứng của những tình trạng mới. Chúng là đề tài cho các tác phẩm thi văn thường thay đổi, biến hoá các giấc mơ trong khi thức này thành những trạng thái rồi đặt vào trong các tiểu thuyết, truyện ngắn, hay kịch bản. Bao giờ người mơ mộng cũng là nhân vật chính trong tác phẩm đó dù xuất hiện dưới hình thức của chính mình hay dưới hình thức của một nhân vật tạo nên.
Những giấc mơ trong khi thức này sỡ dĩ được gọi như thế là vì những sự liên quan với đời thực chúng không có thực hơn gì những giấc mơ chính thức. Có thể rằng cả hai loại đều được gọi là những giấc mơ vì cả hai đều có căn bản trên một tính chất tinh thần nào đó mà chúng ta chưa biết và đang tìm kiếm. Cũng có thể là cái danh từ chung người ta dùng để gọi chúng chẳng có gì quan trọng đáng chú ý. Đó là tất cả những vấn đề chỉ được giải đáp trong những phần sau thôi.
6. Những điều kiện và kỹ thuật của sự giải thích
Như vậy, muốn cho công cuộc khảo sát về giấc mơ tiến triển, chúng ta phải có một con đường mới, một phương pháp mới. Tôi muốn đề nghị với các bạn một điều thực giản dị: chúng ta hãy coi những giấc mơ như những hiện tượng không có tính chất cơ thể mà chỉ có tính chất tinh thần. Bạn biết điều đó có nghĩa gì, nhưng cái gì đã cho phép chúng ta làm điều đó? Không có gì hết nhưng cũng chẳng có gì cấm chúng ta. Sự việc như thế này: nếu giấc mơ là hiện tượng cơ thể thì chúng ta chẳng cần để ý đến nữa, chúng ta chỉ để ý đến những giấc mơ vì đó là những hiện tượng tinh thần. Vì vậy chúng ta phải gán cho nó những tính chất tinh thần để xem công việc khảo cứu của chúng ta sẽ đi đến đâu trong điều kiện đó. Theo kết quả thu lượm chúng ta sẽ biết là có nên giữ giả thuyết của chúng ta không? Bởi vì chúng ta định đi tới đâu, mục đích của chúng ta là gì? Mục đích đó là mục đích của mọi khoa học nói chung: chúng ta muốn tìm hiểu các hiện tượng, ràng buộc chúng vào với nhau để rồi mở rộng phạm vi quyền hạn của chúng ta đối với chúng.
Vậy chúng ta tiếp tục công trình khảo cứu bằng cách coi giấc mơ như một hiện tượng tinh thần. Nhưng trong giả thuyết các giấc mơ đó như là một cách phát biểu của người nằm mơ, một cách phát biểu không cho chúng ta biết gì hết, mà chúng ta không hiểu. Ở trường hợp các bạn thì có thể làm việc gì khi bạn không hiểu gì về tôi cả. Bạn sẽ hỏi tôi phải vậy không? Vậy tại sao chúng ta không hỏi luôn người nằm mơ? Tại sao chúng ta không hỏi ngay chính người đó xem giấc mơ của anh ta có nghĩa gì?
Các bạn hãy nhớ rằng, có một lần chúng ta đã ở trong tình trạng tương tự. Đó là trường hợp một hành vi sai lạc, một trường hợp lỡ lời. Có một người nói: “ Có những việc đã xảy ra ( Vorschwein gekommen)”. Chúng ta hỏi anh ta xem anh ta định nói gì trong câu nói vô nghĩa đó. Anh ta trả lời là ý anh ta muốn nói: “Đó là những trò con heo (Das waren Schweinrein)” nhưng ý kiến này bị một ý kiến ôn hòa hơn chèn ép: “ Có những sự việc xảy ra (Vorschein)”. Nhưng ý tưởng thứ nhất bị dồn ép làm cho anh ta thay chữ Vorchein bằng chữ Vorschwein, một chữ không có nghĩa gì nhưng diễn tả được ý chê bai của anh ta. Lúc đó tôi đã giảng cho các bạn nghe rằng, sự phân tích này là điển hình cho công cuộc khảo cứu về phân tâm học. Và bây giờ thì bạn hiểu tại sao môn phân tâm học lại áp dụng kỹ thuật giải quyết các điều bí ẩn bằng cách hỏi ngay đương sự. Vì thế, cho nên đến lượt người nằm mơ phải nói cho chúng ta biết giấc mơ của anh ta có nghĩa gì.
Tuy nhiên trong giấc mơ không phải là mọi sự đều giản đơn như thế. Trong các hành vi sai lạc chúng ta đứng trước những trường hợp đơn giản; rồi sau đó chúng ta phải gặp những trường hợp bớt đơn giản, khi mà đương sự không muốn nói cho chúng ta nghe gì cả, trái lại còn giận dữ trước những lời đề nghị của chúng ta. Về các giấc mơ bao giờ anh ta cũng trả lời không biết gì hết. Anh ta cũng không có ý kiến gì về cách giải thích của chúng ta vì thực sự chúng ta chẳng có gì đề nghị với anh ta hết. Có phải vì thế mà chúng ta đành phải bỏ rơi lối giải thích của chúng ta không? Người nằm mơ không biết gì hết, chẳng có người thứ ba nào cho chúng ta biết thêm được điều gì, chính chúng ta cũng không có một nguồn tin tức nào để biết thêm, chúng ta chẳng còn hy vọng được biết điều gì cả. Đúng vậy, các bạn cứ việc đầu hàng đi theo tôi. Tôi cho rằng có thể người nằm mơ biết giấc mơ của anh ta có nghĩa gì nhưng vì không biết rằng mình biết nên cho rằng mình không biết.
Các bạn sẽ cho rằng đây là lần thứ hai tôi lại dùng lại sự giả dụ và làm như thế tôi giảm giá trị của phương pháp đi nhiều. Điều giả dụ thứ hai: Trong con người có những hoạt động tinh thần mà anh ta biết là có nhưng không biết đó là gì... Các bạn sẽ cho rằng những giả dụ này không thể nào thành sự thực được nên những kết luận của tôi sẽ không có giá trị gì.
Đúng thế, nhưng tôi không mời các bạn đến đây để giấu giếm hay phơi bày cái gì hết. Tôi đã báo thức trước rằng đây chỉ là bài học nhập môn, điều đó không có nghĩa rằng tôi phải hiến cho các bạn các bài học tường trình thực đẹp che giấu những cái khó khăn, lấp các hố thiếu sót để làm cho các bạn có cảm tưởng rằng đã học được một chút gì rồi. Không, chính vì các bạn là những người mới bắt đầu nên tôi phải trình bày khoa học của chúng ta với nguyên hình của nó, với những cái gì không điều hòa, cao vọng của nó cũng như những khó khăn. Tôi biết khoa học nào cũng thế nhất là những khoa học mới bắt đầu. Tôi cũng biết là giáo dục thường có thói quen che giấu không cho sinh viên biết những khó khăn và những điều thiếu sót của môn học. Vì vậy, tôi đã đưa ra hai điều giả dụ có liên quan chặt chẽ đến nhau, nếu các bạn thấy sự việc đó khó nhọc quá, không vững chắc và nếu các bạn quen với những sự xác thực cao hơn, những sự diễn dịch đẹp đẽ thì các bạn chẳng nên đi xa hơn nữa. Tôi còn cho rằng các bạn nên gạt ra một bên những vấn đề tâm lý thì hơn. Bởi vì các bạn sẽ không thấy con đường chúng ta đang theo đuổi là con đường chắc chắn đáng theo. Vả lại một khoa học có thể cho nhân loại điều gì đó mà không cần tìm những kẻ ủng hộ mình. Chính những kết quả sẽ nói nhiều về giá trị của nó, nó có thể chờ cho những kết quả đó làm cho mọi người chú ý.
Nhưng tôi cần báo trước cho những người muốn theo con đường tôi đi là hai điều giả dụ của tôi không có giá trị bằng nhau. Đối với điều thứ nhất, chúng ta sẽ dùng công cuộc khảo cứu để chúng ta chứng minh rằng giấc mơ là một hiện tượng tinh thần. Còn về điều thứ hai, chúng ta đã dùng nó trong một công việc khác rồi, chúng ta chỉ còn dùng nó để giải những bài toán trong vấn đề này.
Ở đâu và trong phạm vi nào người ta chứng minh rằng có một tri thức mà chúng ta không biết gì hết, đúng như trường hợp của anh chàng nằm mơ của chúng ta. Đó là một điều rất đáng chú ý, đáng ngạc nhiên, có thể thay đổi hẳn quan niệm của chúng ta về đời sống tinh thần, không cần phải lánh mặt làm gì. Đó là một sự kiện diễn tả một cái gì có thực. Vậy mà sự kiện này không hề lánh mặt. Nếu người ta không biết đến nó đâu có phải lỗi tại nó; chúng ta cũng không có lỗi gì nếu tất cả những người xa lạ đối với những sự quan sát và thí nghiệm về vấn đề này đưa ra.
Việc chứng minh sự có mặt của sự kiện này đã được thực hiện trong phạm vi thôi miên. Tôi được chứng kiến thí nghiệm sau đây của Liebault và Bernheim năm 1889 ở Nancy: Người ta ru ngủ một người trong một giấc ngủ mộng du, trong đó người bị ru ngủ được gây cho có một thứ ảo giác: lúc tỉnh dậy anh chàng có vẻ như không hay biết những sự việc xảy ra trong giấc ngủ. Khi Bernheim hỏi anh về những sự việc xảy ra, anh trả lời là anh không nhớ gì hết. Nhưng Bernheim hỏi đi hỏi lại và quả quyết là anh ta phải biết và chắc chắn có biết: thế là anh chàng ngập ngừng, bắt đầu tập trung ý tưởng rồi lại nhớ lại như trong giấc mơ một điều, rồi hai điều rồi càng ngày càng nhiều hơn, càng rõ hơn lên cho tới khi nhớ lại được hết từ đầu đến cuối không còn sót một điều nào. Vì đương sự không hề được ai cho biết những điều đó, chúng ta phải kết luận rằng ngay trước khi bị thúc đẩy, bắt phải nhớ lại, anh ta đã biết có những sự việc xảy ra trong lúc ngủ. Chỉ có điều là những biến cố đó như không biết rằng mình biết, tưởng rằng mình không biết. Trường hợp đó hoàn toàn giống như trường hợp người nằm mơ của chúng ta.
Chắc hẳn các bạn ngạc nhiên khi nghe kể lại sự kiện đó và bạn sẽ hỏi: tại sao ông lại không áp dụng phương pháp đó cho những hành vi sai lạc trong khi chúng ta gán cho người nói lỡ lời những ý muốn mà anh ta cho là không có và nhất định phủ nhận. Ngay khi một người cho rằng mình không hay biết gì về những biến cố, thực ra có trong trí nhớ của mình thì việc anh ta không biết gì về những biến cố khác trong sự hoạt động về tinh thần chả làm ai ngạc nhiên cả. Lý luận đó sẽ làm cho chúng ta hiểu các hành vi sai lạc. Đáng lẽ trong lúc đó tôi phải dùng cách đó thực nếu tôi không muốn để dành dùng trong một trường hợp khác mà tôi cho là cần dùng hơn. Một phần trong các hành vi sai lạc đã khiến cho các bạn có những giải thích, còn phần kia đã đưa các bạn đến chỗ chấp nhận sự có mặt của các sự hoạt động tinh thần chưa được biết đến. Đối với những giấc mơ chúng ta buộc phải tìm cách giải thích nơi khác và tôi nghĩ rằng chúng ta có thể coi đó như một trường hợp thôi miên. Tình trạng một người khi làm hành vi sai lạc là một tình trạng thôi miên. Trái lại giữa tình trạng thôi miên và tình trạng ngủ có sự giống nhau rất rõ ràng. Thực tế người ta thường nói rằng thôi miên tức là giấc ngủ nhân tạo. Chúng ta bảo người đang bị thôi miên: ngủ đi. Và những lời chúng ta gợi cho người đó giống như một giấc mơ trong giấc ngủ bình thường. Trạng thái tinh thần trong cả hai trường hợp giống nhau hoàn toàn. Trong giấc ngủ tự nhiên chúng ta gạt bỏ hết những dây liên lạc với đời sống bên ngoài; trong giấc ngủ thôi miên cũng thế chỉ khác một điều là chúng ta vẫn tiếp tục để ý đến người đang thôi miên ta - và chỉ người đó thôi - và đang liên lạc với ta. Vả lại cái mà người ta gọi là giấc ngủ của người vú trong đó người vú tuy ngủ nhưng vẫn liên lạc với đứa trẻ chẳng khác gì giấc ngủ thôi miên. Vì vậy sẽ chẳng có điều gì quá táo bạo nếu chúng ta gán cho giấc ngủ tự nhiên một điểm đặc biệt của giấc ngủ thôi miên. Do đó, khi chúng ta cho rằng người nằm ngủ biết rõ giấc mơ của mình nhưng không biết rằng mình không biết không phải là không có căn bản. Đến đây chúng ta thấy mở ra một con đường thứ ba trong việc khảo sát các giấc mơ: sau những giấc mơ đó, những kích thích bên ngoài gây nên sau những giấc mơ trong khi thức, chúng ta có những giấc mơ do sự thôi miên gây nên.
Và bây giờ chúng ta lại có thể tiếp tục công việc khảo sát với một lòng tin tưởng to lớn. Vậy tức là người nằm mơ biết rõ về giấc mơ của mình, chúng ta chỉ còn làm sao cho họ biết và nói cho ta nghe. Chúng ta sẽ không yêu cầu người đó nói ngay cho ta biết giấc mơ đó có ý nghĩa gì, chúng ta chỉ muốn làm sao cho anh ta nhớ lại nguyên nhân giấc mơ, gợi lại những ý kiến và lợi ích của giấc mơ đó. Trong trường hợp hành vi sai lạc (chắc chắn các bạn còn nhớ) đặc biệt là trong câu chuyện lỡ lời về chữ Vorchwein, chúng ta đã hỏi đương sự tại sao y lại lỡ lời như thế, thì ý tưởng đầu tiên đến trong đầu anh ta đủ cho chúng ta biết rõ sự việc rồi. Chúng ta sẽ đưa vào thí dụ này, áp dụng một kỹ thuật đơn giản. Chúng ta sẽ hỏi người nằm mơ là tại sao ông ta lại nằm mơ như thế và coi câu trả lời đầu tiên là một lời giải thích. Chúng ta sẽ không để ý đến những sự khác biệt trong trường hợp người nằm mơ tưởng rằng mình biết với trường hợp cho rằng mình không biết, và chúng ta sẽ giải quyết vấn đề bằng cách coi những tài liệu đó như thuộc cùng một loại.
Kỹ thuật này quả thực rất giản dị nhưng tôi sợ các bạn lại phản đối. Và các bạn sẽ bảo: “Đó là một điều giả dụ mới”. Điều giả dụ thứ ba và điều này còn không đáng tin hơn hai điều kia nữa. Thế nào? Ông bảo người nằm mơ nói cho ông những điều anh ta nhớ lại về giấc mơ rồi ông ta coi luôn câu trả lời đầu tiên của anh ta như là một lời giải thích sao? Nhưng thực sự thì có thể là anh ta không nhớ lại hết và chỉ có trời mới biết anh ta nhớ lại điều gì. Chúng tôi không hiểu ông định chờ gì ở chúng tôi. Đáng lẽ phải vận dụng trí óc phê bình thì ở đây ông lại đòi hỏi chúng tôi tin tưởng ông quá đáng. Vả lại một giấc mơ không thể so sánh với sự lỡ lời vì trong giấc mơ có nhiều thứ lắm, mình phải chú ý đến những điều nào trong những điều người ta nhớ lại.
Các bạn nói đúng. Một giấc mơ khác một sự lỡ lời ở chỗ có nhiều yếu tố và chúng ta phải coi sự khác biệt này là quan trọng khi khảo sát. Vì thế tôi đề nghị chia giấc mơ ra thành nhiều yếu tố và xét từng yếu tố riêng biệt một, như thế chúng ta sẽ có một sự giống nhau với sự lỡ lời. Bạn cũng có lý khi cho rằng khi hỏi về từng yếu tố một trong giấc mơ cũng có thể là người nằm mơ sẽ trả lời anh ta không nhớ gì hết. Sau này bạn sẽ thấy là có những trường hợp một câu trả lời như thế chúng ta cũng dùng được, và điều kỳ lạ là đó lại chính là những trường hợp giúp cho chúng ta có được những ý tưởng vững chắc. Nhưng thường thường khi người ta nằm mơ trả lời là không nhớ gì cả, chúng ta sẽ vặn vẹo anh ta, hỏi đi hỏi lại, bảo cho anh ta biết là anh ta phải có một ý gì và sau cùng chúng ta sẽ thành công. Anh ta sẽ cho chúng ta một ý kiến bất cứ ý kiến nào cũng được, không quan hệ gì, anh ta sẽ cho chúng ta rất dễ dàng những ý kiến mà anh ta gọi là ý kiến lịch sử. Anh ta sẽ nói: “Sự việc xảy ra chiều hôm qua” hay “ Điều này làm tôi nhớ lại việc mới xảy ra gần đây”. Làm như thế dần dần chúng ta sẽ thấy là những giấc mơ thường gắn liền với những cảm tưởng nhận được trong ngày gần đó và sự việc này xảy ra luôn luôn hơn là chúng ta tưởng lúc đầu. Sau cùng, đi từ giấc mơ anh chàng đó sẽ bắt đầu nhớ lại những điều rất xa xôi, nhiều khi xa xôi lắm.
Tuy nhiên nếu về những ý kiến phụ bạn có lý thì về điểm cần thiết bạn lại không có lý. Bạn tưởng rằng tôi đã hành động võ đoán khi coi câu trả lời đầu tiên của người nằm mơ là một lời giải thích, một điều đem lại cho tôi điều tôi muốn tìm hay chỉ vẽ cho tôi con đường phải theo; bạn không có lý khi cho rằng câu trả lời của người nằm mơ sẽ không liên quan gì đến những điều tôi đang tìm và nếu tôi đang chờ đợi có một điểm gì tức là tôi đang tin tưởng quá đáng. Có lần tôi đã trách các bạn về điểm quá tin tưởng vào sự tự do và tính cách tự nhiên về phương diện tâm lý, tôi đã có dịp nói rằng một sự tin tưởng như thế là phản khoa học, không thể đứng vững được trước sự đòi hỏi của thuyết định mệnh tinh thần. Khi người ta được hỏi đưa ra một ý kiến, chúng ta đứng trước một sự kiện mà chúng ta phải chấp nhận. Nói như thế chúng tôi không muốn đưa ra một ý kiến này để phản đối một ý khác. Người ta có thể chứng tỏ được rằng ý kiến đó người được hỏi đưa ra không phải là không liên quan gì đến điều chúng ta tìm. Tôi vừa được tin là môn tâm lý học thực nghiệm cũng vừa cho chúng ta những bằng chứng như thế tuy tôi cũng không tin tưởng quá đáng vào sự việc đó.
Vì là vấn đề quan trọng, tôi yêu cầu các bạn chú ý đặc biệt. Khi đòi hỏi một người nào đó cho tôi biết ý nghĩ gì đã đến trong đầu óc anh ta về một điểm nhất định nào đó trong giấc mơ tôi yêu cầu, người đó cứ để cho ý kiến tự nhiên liên tưởng với nhau khi đi từ một ý kiến nguyên thủy. Điều này cần một sự chú ý đặc biệt, một chiều hướng khác hẳn chiều hướng của sự suy nghĩ. Có nhiều người tìm thấy chiều hướng đó dễ dàng, nhiều người khác lại gặp phải khó khăn trong vấn đề này. Vậy mà sự tự do liên tưởng có một giá trị rất cao: ví dụ khi tôi bỏ rơi sự hình dung nguyên thủy mà chỉ để ý đến tính chất của ý kiến đó thôi, ví dụ như yêu cầu đương sự tự do nghĩ đến một tên riêng hay một con số nào đó. Một ý tưởng như thế còn võ đoán không lường được hơn là ý kiến dùng trong kỹ thuật của chúng ta. Nhưng chúng ta có thể chứng tỏ rằng, trong trường hợp nào ý kiến này cũng được quy định bằng những sự việc nội thể. Những sự việc nội thể này khi có tác dụng, chúng ta không biết gì hơn là những khuynh hướng gây rối trong những hành vi sai lạc hay những khuynh hướng gây ra những hành vi bất chợt.
Tôi đã làm nhiều cuộc thí nghiệm như thế về những tên riêng và những con số đến tự nhiên trong óc. Nhiều người khác cũng làm như tôi, và nhiều công trình khảo cứu đã được in lên thành sách. Người ta dựa vào tên riêng vừa nghĩ đến để đề nghị những liên tưởng có tính cách liên tục, không phải là hoàn toàn tự do nhưng gắn liền ý nọ vào ý kia như những ý tưởng được gợi ra cho từng yếu tố một trong giấc mơ. Người ta cứ thế tiếp tục cho tới khi không còn gợi được thêm một ý nào nữa. Khi thí nghiệm chấm dứt người ta đứng trước một sự giải thích cho biết những lý do tại sao ý đó lại được hiện ra trong óc người được hỏi tên riêng đó gây nên, và cho chúng ta hiểu rõ tầm quan trọng của cái tên đó đối với người được hỏi. Những thí nghiệm bao giờ cũng đưa đến những kết quả như nhau, được làm với nhiều trường hợp khác nhau và cần phát triển thêm nhiều trường hợp khác nữa. Những sự liên tưởng do những con số gây nên còn có giá trị hơn nữa: những liên tưởng này tuôn ra nhanh và hướng về một mục đích còn được che giấu dưới một sự chắc chắn khó hiểu đến nỗi chúng ta đâm ra hoang mang khi nhìn chúng diễu qua. Tôi kể cho các bạn nghe một thí dụ thôi, một thí dụ đặc biệt có lợi vì có thể được trình bày mà không cần dài dòng lắm.
Một hôm, nói chuyện với một thân chủ, tôi cho người này biết rằng, mặc dầu với tính cách võ đoán bề ngoài của nó, mỗi khi người ta tự do nghĩ đến một cái tên riêng nào đó, tên đó thế nào cũng chịu ảnh hưởng của những chi tiết rất gần người đang nghĩ đến nó, của những điểm đặc biệt cùng tình trạng hiện thời của những người chịu thí nghiệm. Người đó có vẻ không tin tôi, đề nghị thử ngay. Biết anh chàng rất thích chạy quanh đàn bà, tôi nghĩ rằng khi bảo anh chọn tên một người đàn bà thế nào anh cũng tỏ vẻ lúng túng không biết chọn tên nào. Anh cũng công nhận điều đó. Nhưng tôi cũng như anh đều ngạc nhiên xiết bao khi thấy anh ngồi im một lúc, rồi nói ra mọi tên hiện ra trong đầu anh: Albine. Tôi bảo: “lạ nhỉ. Trong đầu anh có gì dính dáng đến cái tên đó? Có bao nhiêu người đàn bà có tên đó trong số những người anh quen biết?” Không, anh không biết người đàn bà nào có cái tên như thế cả và trong óc anh không có gì dính dáng đến cái tên đó. Thế là hỏng chứ gì? Sự thực thì như thế là xong rồi, không cần phải có một ý nào mới có thể cắt nghĩa sự việc đó. Anh chàng trẻ tuổi này tóc rất vàng và trong khi thí nghiệm tôi luôn luôn gọi đùa anh là albinos (bạch tạng). Vả lại trong lúc đang thí nghiệm, tôi và anh ta đang xét về việc anh ta trông có vẻ con gái quá. Do đó, ta thấy Albine không ai khác hơn là anh ta, một người con gái mà anh ta để ý đến nhiều nhất.
Cũng như thế khi phân tích những bản đàn hiện ra trong đầu chúng ta, chúng ta thấy là sự xuất hiện của những bản đàn đó tùy thuộc vào một số ý kiến trong đầu chúng ta mà chúng ta có quyền để ý đến tuy không biết chúng hoạt động ra sao. Chúng ta có thể dễ dàng chứng tỏ rằng sở dĩ bản đàn đó có vẻ vô tình hiện ra những thực ra chính bởi vì bản văn của bản đàn đó hay nguồn gốc của nó. Tôi không nói đến những nhạc sĩ chính cống vì trong trường hợp những người này, sự xuất hiện của một bản đàn tự nó đã cắt nghĩa nhiều rồi. Nhưng có một anh chàng trong một thời gian rất lâu luôn luôn bị ám ảnh bởi bản đàn của Paris trong vở “Người đẹp Hèlène”. Sau khi phân tích người ta nhận ra rằng trong đầu anh ta luôn luôn có sự giằng co giữa hai người đẹp Ida và Hèlène.
Nếu những ý tưởng tự do xuất hiện, không bị ép buộc hay bị cố gắng nào chèn ép cũng được giải thích là có liên quan đến những trường hợp sẵn có trong chúng ta thì chúng ta có thể kết luận bằng những ý tưởng chỉ gắn liền vào một hình dung lúc đầu thôi cũng có thể quy định được. Phân tích cho thấy rằng, ngoài những liên quan gắn liền với hình dung nguyên thủy, những ý đó còn phụ thuộc vào những ý tưởng tình cảm, những mặc cảm, nghĩa là vô thức, trong lúc phát sinh.
Những ý tưởng phụ thuộc đó cũng đã được đem ra thí nghiệm rất hiệu quả và đã giữ trong môn phân tâm học một vai trò quan. Trường phái Wundt đề nghị thí nghiệm gọi là thí nghiệm về liên tưởng trong đó người chịu trách nhiệm sẽ trả lời rất nhanh bằng một phản ứng rất nhiều câu hỏi được coi như những sự kích động. Người ta cũng có thể khảo sát khoảng thời gian giữa sự kích động và phản ứng, tính chất của câu trả lời được coi như phản ứng, những sự lầm lẫn được coi như xảy ra nếu những thí nghiệm đó được làm đi làm lại nhiều lần v v...Dưới quyền điều khiển của Bleuler và Jung, trường phái Zurich đã cắt nghĩa được những phản ứng trong thí nghiệm nói rõ về những phản ứng của họ trong trường hợp những phản ứng này không rõ rệt bằng cách đặt các câu hỏi phụ. Lúc ấy người ta thấy rằng những phản ứng ít bộc lộ kỳ khôi đó có thể được quy định rất rõ ràng bằng những mặc cảm của người chịu thí nghiệm. Bằng nhận xét đó Bleuler và Jung đã bắc được một cây cầu giữa môn Tâm lý học thực nghiệm và môn phân tâm học.
Sau những điều trình bày này các bạn có thể bảo tôi là: “Chúng tôi công nhận rằng những ý tưởng được tự do suy nghĩ quả là có chịu ảnh hưởng nào đó chứ không phải chỉ là võ đoán như trước kia chúng tôi từng tưởng. Chúng tôi cũng công nhận rằng những ý đó có ảnh hưởng đến các giấc mơ. Nhưng đó không phải là điều chúng tôi chú ý đến. Ông nói rằng một ý tưởng phát sinh ra từ một yếu tố của một giấc mơ được quy định bằng đời sống tinh thần tiềm tàng đằng sau yếu tố đó và đời sống tinh thần đó chưa được tìm hiểu. Vậy mà điều đó chúng tôi thấy là chưa hề được chứng minh. Chúng tôi thấy trước rằng một ý tưởng phát sinh ra so với một yếu tố của một giấc mơ thế nào cũng phụ thuộc vào những phức thể của người nằm mơ. Những nhận xét này có lợi ích gì? Đáng lẽ phải giúp cho chúng ta hiểu rõ giấc mơ nó chỉ cho chúng ta biết là có những phức thể đó thôi. Mà mặc cảm này thì có liên lạc gì với những giấc mơ?”
Các bạn nói đúng, nhưng không trông thấy một điều và điều đó chính là lý do tại sao không lấy thí nghiệm về sự liên tưởng làm điểm khởi đầu trong cuộc khảo sát này. Trong cuộc thí nghiệm này chúng ta võ đoán một trong các yếu tố quan trọng của phản ứng: đó là tiếng được dùng làm vật kích động. Lúc đó tiếng này trở thành một cái móc trung gian giữa tiếng kích động và mặc cảm do tiếng này gợi ra cho người chịu thí nghiệm. Trong giấc mơ tiếng kích động được thay thế bằng một điều gì trong đời sống tinh thần của người nằm mơ. Điều này bắt nguồn ở đâu không ai biết và cũng có thể kết quả của một phức thể. Vì thế cho nên quả thực không phải là một sự quá đáng khi công nhận rằng, những ý tưởng về sau này gắn liền vào những yếu tố của một giấc mơ cũng phụ thuộc vào phức thể của yếu tố này và tất nhiên có thể giúp cho chúng ta tìm ra phức thể đó.
Các bạn hãy cho phép tôi trình bày một thí dụ khác để chứng tỏ rằng sự việc xảy ra đúng như chúng ta mong đợi. Sự quên lãng các tên riêng cũng gồm có nhiều diễn biến giống như những diễn biến trong giấc mơ, chỉ có khác một điều là trong quên lãng mọi sự diễn biến đều tiến hành trong một người thôi, trong khi với sự giải thích giấc mơ chúng ta phải chia đôi cho hai người. Mỗi khi tôi quên hẳn một tiên riêng, tôi dù sao cũng biết chắc rằng mình biết tên đó. Muốn cho người nằm mơ cũng có sự chắc chắn này chúng tôi phải dùng thí nghiệm của Bernheim. Chỉ có điều là tôi không làm sao biết được cái tên quên đó là gì. Tôi cứ việc cố gắng để gợi lại trong óc người nằm mơ: chẳng mấy lúc mà tôi sẽ thấy những cố gắng này không đi đến đâu cả. Tuy nhiên tôi có thể gợi ra thực nhiều tên để thay thế vào những cái tên bị quên lãng. Mỗi khi một cái tên bị thay thế đó hiện ra trong óc tôi thì tôi với người nằm mơ ở vào tình trạng hoàn toàn giống nhau. Yếu tố của giấc mơ không phải là một cái gì có thực: nó chỉ có nhiệm vụ thay thế một cái gì mà tôi không biết và phân tích sẽ làm cho biết. Sự khác biệt duy nhất giữa hai tình trạng đó là ở chỗ trong việc quên tôi nhận ra ngay là một tên nào đó gợi lên chỉ là một cái tên dùng để thay thế trong khi trường hợp yếu tố của một giấc mơ thì chúng ta chỉ có thể đạt được đến chỗ đó sau bao nhiêu công trình khảo cứu lâu dài và khó nhọc. Nhưng ngay trong trường hợp quên tên chúng ta có cách để tìm lại tên thực khi tên này bị chìm trong vô thức. Khi tập trung tất cả tư tưởng vào việc tìm các tên thay thế, mỗi khi bất thần đưa ra một cái tên thay thế chúng ta cũng có thể sau bao nhiêu lần dò hỏi, ngoằn nghèo tiến tới cái tên bị quên và nhận thấy rằng những cái tên thay thế đột nhiên hiện ra cũng như các tên do chúng ta gợi lên đều có liên lạc chặt chẽ với cái tên bị quên và phụ thuộc vào nó.
Vả lại đây là một sự phân tích thuộc loại đó: một hôm tôi thấy rằng mình quên tên xứ Riviera trong đó tên Monte- Carlo là một thành phố được biết đến nhiều nhất. Bực quá, nhưng sự thực là như thế. Tôi duyệt lại tất cả những điều mình biết về xứ đó, nghĩ đến ông hoàng Albert, đến tòa Matignon-Grimaldi, đến đám cưới của ông hoàng, đến sự ham mê thám hiểm dưới biển của ông ta, đến nhiều liên can đến xứ đó lắm nhưng không ăn thua gì. Tôi thôi không tìm nữa và cho những tên thay thế hiện ra cạnh cái tên bị quên: nào Monte- Carlo, nào Pirémant, nào Albanie, Montevideo, Colico. Trong những tên đó tên Albanie được tôi chú ý đến nhưng được thay bằng Montenegro vì sự phản trí giữa đen và trắng. Tôi nhận thấy rằng trong những tên đó có bốn tên có chữ Mon, thế là tôi nhớ ra và kêu lên: Monaco. Vậy là những tiếng thay thế thực sự đều xuất phát từ tên bị quên, bốn tên thứ nhất có vần đầu Mon, tên cuối cùng có những vần sau và nhất là vần cuối. Tôi cũng tìm ra luôn lý do làm cho tôi quên tên Monaco: chính chữ Munchen tên Đức của Monaco đã là cho tôi quên hẳn chữ đó.
Thí dụ vừa kể chắc chắn tốt đẹp nhưng quá đơn giản. Trong trường hợp khác chúng ta phải tập trung nhiều tên hơn nữa mới có thể làm cho giống những sự xảy ra trong giấc mơ. Tôi đã làm các cuộc thí nghiệm như thế. Một hôm có một người lạ mặt mời tôi uống rượu vang Ý. Nhưng khi vào đến tiệm rượu anh ta không làm sao nhớ lại được cái tên thứ rượu mà anh ta rất thích nên mới mời tôi uống. Sau khi đưa ra rất nhiều tên để thay thế vào cái tên bị quên, tôi đi đến kết luận rằng sự quên lãng này là hậu quả của một sự cấm đoán nào đó có dính dáng đến cái tên Hedwige. Tôi nói cho anh bạn mới nghe, không những anh nhận rằng quả có một lần anh uống thứ rượu này với một người đàn bà tên là Hedwige mà anh ta còn nhớ được cái tên đã bị quên nữa. Dạo đó anh ta có vợ và đang sống yên ấm trong gia đình nên không muốn nhớ lại cái tên Hedwige của một thời xa xưa.
Tất cả những gì giúp cho chúng ta tìm lại được một cái tên bị quên lãng chắc cũng sẽ giúp được chúng ta trong việc giải thích một giấc mơ: chắc chắn chúng ta tìm hiểu được những yếu tố còn ẩn náu, chưa được biết đến bằng cách đưa ra nhiều sự liên tưởng ức đoán để thay thế những yếu tố nào đó mà chúng ta dùng làm khởi điểm. Theo như thí dụ trong việc quên tên chúng ta phải cho rằng những liên tưởng có dính dáng đến một yếu tố đó trong giấc mơ cũng có thể tìm ra được nhờ chính yếu tố đó và bức bình phong vô thức đằng sau. Nếu những điều giả dụ của tôi đúng thì kỹ thuật của chúng ta sẽ được chứng minh luôn.
7. Nội dung rõ ràng và những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ.
Các bạn hẳn đã thấy sự khảo sát của chúng ta về những hành vi sai lạc đã không vô ích. Nhờ những cố gắng trên phương diện này chúng ta đã đạt được hai kết quả: một quan niệm về yếu tố của giấc mơ và một kỹ thuật giải thích giấc mơ. Về yếu tố của giấc mơ chúng ta biết là nó không xác thực, nó chỉ dùng để thay thế vào điều mà người nằm mơ không biết cũng như chúng ta không biết gì về khuynh hướng trong những hành vi sai lạc của chúng ta, chỉ có khác là người nằm mơ có sẵn trong đầu mình yếu tố đó nhưng không biết được. Chúng ta hy vọng có thể mở rộng quan niệm này ra đối với toàn thể giấc mơ, nghĩa là coi giấc mơ như là nhiều yếu tố tạo thành. Kỹ thuật của chúng ta là để sự liên tưởng này để rồi tìm ra xem nội dung vô thức của giấc mơ như thế nào.
Bây giờ tôi đề nghị thay đổi một chút về những danh từ đang dùng để cho sự hoạt động được tự do hơn. Đáng lẽ nói: ẩn náu, không biết được, không xác thực, chúng ta sẽ nói: vô thức hay không vào được trong tri thức của người nằm mơ. Cũng giống như trong những trường hợp quên tên hay những khuynh hướng phát sinh ra một hành vi sai lạc, trong giấc mơ chỉ có những cái gì không được ý thức trong một thời gian. Đối lập với tính cách vô thức giới hạn trong thời gian này những yếu tố của những giấc mơ và những hình dung dùng thay thế cho sự liên tưởng đạt được sẽ gọi là hữu thức. Danh từ này thực ra chưa ngụ ý rằng chúng ta đã có một hành động kỹ thuật nào đối với nó. Người ta quả không thể chê trách gì chúng ta khi chúng ta dùng chữ vô thức để diễn tả cho thực dụng và cho dễ hiểu.
Nếu chúng ta mở rộng quan niệm này từ một yếu tố đơn độc của toàn thể giấc mơ đến toàn giấc mơ, chúng ta sẽ thấy giấc mơ là một hình thức đã được sửa đổi của một biến cố vô thức và sự giải thích giấc mơ có mục đích tìm ra cái vô thức này. Từ nhận xét này, chúng ta có thể rút ra ba nguyên tắc mà chúng ta phải theo trong công việc giải thích:
1.Vấn đề tìm hiểu xem giấc mơ khác có nghĩa lý gì đối với chúng ta không có gì quan trọng. ý nghĩa này có thể rõ ràng hay khó hiểu, dễ hiểu hay mập mờ, cũng chẳng có gì quan hệ bởi lẽ ý nghĩa đó chẳng hình dung gì được cái vô thức mà chúng ta đang tìm (tuy nhiên sau này chúng ta sẽ thấy là nguyên tắc này cũng là ngoại lệ).
2.Công việc của chúng ta là gợi nhớ ra những hình dung có thể thay thế được chung quanh các yếu tố của giấc mơ mà không cần suy nghĩ, không cần tìm hiểu xem những hình dung này có chứa đựng cái gì đúng hay không, không cần tìm cách hiểu xem những hình dung này có đưa ta đi xa các yếu tố trong giấc mơ hay không và nếu có thì trong giới hạn nào.
3.Chúng ta hãy chờ cho tới khi nào vô thức đang ẩn náu, đang tìm đột nhiên xuất hiện giống như trong trường hợp chữ Monaco ở trên.
Bây giờ hẳn là chúng ta hiểu rằng chúng ta không hề cần biết người nằm mơ có thể nhớ lại giấc mơ đến giới hạn nào, đúng hay sai tới mức nào, bởi lẽ giấc mơ mà người ta nhớ lại không phải là điều chúng ta cần tìm. Nó chỉ là một hình thức thay thế được sửa đổi của cái mà chúng ta đang tìm nghĩa là dùng những hình thức thay thế khác do chúng ta gợi ra để làm cho cái vô thức trở thành hữu thức, tức là điều nhớ lại bị biến dạng một lần nữa và lần này tất cũng phải có nguyên do.
Công việc giải thích này chúng ta có thể làm đối với chính các giấc mơ của chúng ta cũng như đối với giấc mơ của người khác. Nhưng đối với giấc mơ của chính chúng ta thì chúng ta sẽ học được nhiều hơn bởi lẽ trong trường hợp này sự giải thích dễ chứng minh hơn. Ngay khi bắt đầu làm công việc này chúng ta đã gặp trở ngại. Chúng ta có thực nhiều ý kiến nhưng những ý kiến này hiện ra không rõ rệt. Chúng ta phải thử thách và lựa chọn. Đối với một ý tưởng chúng ta bảo: không được, ý này không phù hợp với giấc mơ, không dùng được; đối với một ý khác: khó hiểu quá đối với một ý thứ ba: chỉ có tính cách thứ yếu. Rồi ta nhận thấy rằng theo lối đó các ý tưởng hoặc sẽ bị bóp nghẹt hoặc là bị sa thải trước khi nó có thể trở nên rõ ràng. Vì thế cho nên một đằng người ta để ý quá nhiều đến sự hình dung đầu tiên, đến yếu tố của giấc mơ, một đằng người ta làm cho kết quả của sự liên tưởng rối bung lên vì có thành kiến về lựa chọn. Khi người ta để cho người khác giải thích giấc mơ của chúng ta thay vì tự làm lấy, quả là một lý do mới đã xuất hiện trong việc lựa chọn người giải thích. Có khi người ta tự nhủ: không, ý này khó chịu quá, tôi không muốn xét đến.
Tất nhiên những sự bài bác đó gây trở ngại cho công việc của chúng ta. Chúng ta phải đề phòng chống lại chúng: khi chúng ta tự giải thích, chúng ta phải cương quyết chống lại chúng, nhất định không nhượng bộ: khi giải thích hộ người khác, chúng ta bắt buộc họ phải theo một điều kiện thực chặt chẽ là không bỏ qua ý tưởng nào hiện ra trong đầu họ mà họ không nói ra cho ta biết dù rằng người kia cho rằng ý đó không liên hệ, khó hiểu, không liên quan gì đến các giấc mơ hay khó chịu không muốn nói ra. Người kia phải hứa là theo đúng quy tẵc đó, những chúng ta cũng không nên nổi giận khi họ không giữ lời hứa. Có người cho rằng dù làm thế nào chúng ta cũng không thể thuyết phục đương sự, rằng họ phải để cho sự liên tưởng được tự do tung hoành, rằng muốn thuyết phục được họ chúng ta phải giảng giải lâu dài bằng cách chúng ta cho họ đọc thật nhiều sách vở hay tham dự các buổi nói chuyện. Làm như thế chúng ta sẽ vấp phải một sai lầm nghiêm trọng, và muốn tránh khỏi sai lầm này chỉ cần tự chủ là ngay cả khi chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào điều chúng ta nghĩ, chúng ta vẫn thấy nẩy ra những ý tưởng phê bình chỉ trích, và những sự phê bình này chỉ được gạt ra ngoài một thời gian sau đó thôi.
Thay vì bực tức trước sự khó bảo của đương sự, chúng ta có thể lợi dụng những cuộc thí nghiệm để tìm ra những bài học mới. Những bài học này càng quan trọng hơn lên khi chúng ta càng ít chờ đợi chúng. Công việc giải thích phải tiến hành mặc dù có những trở ngại và sự trở ngại này chính là những ý tưởng chống đối nói trên. Sự chống đối này không hề phụ thuộc vào quan niệm lý thuyết của người nằm mơ. Chúng ta còn học thêm được điều này nữa, đó là những ý tưởng chống đối không bao giờ đúng cả. Trái lại, những ý tưởng mà mình muốn kìm hãm bao giờ cũng là những ý tưởng quan trọng nhất, có tính cách quyết định nhất trong công việc đi tìm vô thức. Một sự chống đối loại đó chính là đặc điểm của một ý tưởng đi kèm.
Sự chống đối đó là điều mới lạ mà chúng ta tìm ra được những giả thuyết đưa ra không phụ thuộc gì vào những giả thuyết đó. Yếu tố mới này cho bài toán một sự ngạc nhiên không thể nói là dễ chịu. Chúng ta có cảm tưởng là nó phát hiện không phải làm dễ dàng công việc của chúng ta, có thể làm tê liệt những cố gắng của chúng ta để giải quyết vấn đề giấc mơ. Khảo sát một công việc rất ít quan trọng như giấc mơ, mà lại vấp phải những trở ngại lớn lao về kỹ thuật đến như thế. Nhưng trái lại những khó khăn đó khuyến khích chúng ta và cho ta thấy sự cố gắng không phải là vô ích. Bao giờ chúng ta cũng gặp khó khăn khi muốn từ những hình dung thay thế cho các yếu tố trong giấc mơ để đi sâu vào cái vô thức đang ẩn náu. Vì vậy chúng ta có quyền cho rằng đằng sau cái hình dung thay thế đó phải có một cái gì quan trọng. Vậy những khó khăn này có lợi ích gì nếu chúng ta tiếp tục giam hãm cái điều gì đang ẩn náu đó? Khi một đứa bé nhất định không mở bàn tay ra xem bên trong có gì thì nhất định là bên trong bàn tay đó có cái gì mà nó không có quyền giấu diếm.
Ngay lúc chúng ta đưa ra cái quan niệm về sự chống đối, chúng ta phải báo trước đó chỉ là một yếu tố luôn luôn thay đổi về số lượng. Sự chống đối có thể to hay nhỏ, nó sẽ luôn luôn ngăn cản công việc của chúng ta. Chúng ta có thể gắn liền sự kiện này vào những thí nghiệm đã làm trong việc giải thích giấc mơ. Vì thế có nhiều trường hợp chúng ta chỉ cần có một ý tưởng hay một số ít ý tưởng là cũng đủ đi từ một yếu tố của giấc mơ đến cái vô thức, nhưng trong nhiều trường hợp khác, chúng ta lại phải dùng không biết bao nhiêu ý tưởng và phải bác bỏ những ý kiến chống đối. Chúng ta có thể có lý khi cho rằng những sự khác biệt này là do sự chống đối mạnh hay yếu. Khi sự chống đối yếu ớt thì khoảng cách giữa các yếu tố giấc mơ và cái vô thức là rất ít; nhưng khi chống đối mạnh thì lập tức phát sinh ra những biến dạng của vô thức làm cho khoảng cách càng xa hơn.
Có lẽ đã đến lúc đem kỹ thuật này áp dụng vào một giấc mơ để xem những điều chúng ta chờ đợi vào kỹ thuật đó có đúng không? Được lắm, nhưng dùng giấc mơ nào bây giờ? Các bạn không thể nào tưởng tượng rằng sự lựa chọn đối với tôi lại khó khăn như thế. Tất nhiên là thế nào chẳng có những giấc mơ không bị biến dạng nhiều, có lẽ nên bắt đầu bằng những giấc mơ đó thì hơn. Nhưng những giấc mơ ít bị biến dạng nhất là những giấc mơ nào? Có phải là những giấc mơ hữu ý không lơ mơ như trong hai thí dụ đã nói cho các bạn nghe không? Không đâu. Phân tích ra người ta sẽ thấy là những giấc mơ đó biến dạng ghê gớm. Nếu bây giờ tôi chọn bất cứ giấc mơ nào thì các bạn lại thất vọng. Bởi vì có thể chúng ta sẽ nhận ra nhiều yếu tố khác nhau khiến cho công việc trở thành phức tạp quá không làm được. Nếu chép lại giấc mơ, ghi lại hết những điều xuất hiện dần dần thì bao nhiêu pho sách cũng chả đủ. Vì thế có lẽ chúng ta nên chọn giấc mơ ngắn. Đó là điều mà chúng ta sẽlàm trừ phi trong lúc làm việc chúng ta tìm được những giấc mơ ít bị biến dạng thì không kể.
Có một cách khác cũng có thể làm dễ dàng công việc của chúng ta. Thay vì khảo sát toàn thể giấc mơ, chúng ta chỉ xét từng phần nhỏ để xem sau khi áp dụng kỹ thuật của chúng ta vào những thí dụ sẽ đưa đến những kết quả gì?
a. Một bà kể lại rằng trong thời thơ ấu bà thường nằm mơ thấy là Đức Chúa trời đội một cái mũ ni nhọn bằng giấy. Làm sao hiểu được giấc mơ này nếu không có sự giúp đỡ của người nằm mơ? Có phải là thực chẳng có nghĩa gì không? Nhưng bà ta kể cho chúng ta nghe rằng hồi nhỏ trong bữa cơm bà ta thường bị bắt buộc phải đội cái mũ ni như thế để khỏi đưa mắt nhìn sang đĩa các anh chị xem bọn họ có được ăn nhiều hơn mình không? Như thế là giấc mơ hẳn không còn vô nghĩa lý nữa. Vậy cái mũ ni chính là dùng để che mắt khỏi nhìn ngang nhìn ngửa. Đó là một điểu chỉ có tính chất lịch sử được đưa ra một cách dễ dàng. Do đó sự giải thích trở nên rõ ràng. “Vì tôi tin rằng Đức chúa trời biết hết, nhìn thấy hết nên giấc mơ chỉ có nghĩa rằng dù đội mũ ni tôi vẫn biết hết nhìn thấy hết, người ta chẳng làm sao ngăn cản được”. Nhưng thí dụ này có lẽ quá đơn giản.
b. Một bà thân chủ bi quan kể chuyện lại rằng bà ta nằm mơ thấy có một vài người nói chuyện với bà không ngớt khen ngợi cuốn sách của tôi về “Những tiếng nhanh trí” (Witz). Rồi bà ta nói đến một “con sông đào” có thể là một cuốn sách nói đến sông đào hay một cái gì dính dáng đến sông đào.. bà ta không biết rõ .. loạn cả lên.
Có lẽ các bạn cho rằng yếu tố “con sông đào” từ trên trời rơi xuống như thế sẽ rất khó giải thích. Tất nhiên là khó rồi nhưng không phải là không rõ ràng: trái lại không rõ ràng hay không giải thích được cũng đều do một nguyên nhân cả. Người nằm mơ không có ý niệm về con sông đào cả, tất nhiên về phần tôi, tôi không thể có điều gì để nói được. Nhưng sau đó, thực ra là ngày hôm sau, bà ta có một ý có lẽ đó dính dáng đến con sông đào. Thì ra đó là một gạch trí khôn mà ta đã được nghe. Trên chuyến tàu biển chạy đường Calais-Douvres một nhà văn nổi tiếng nói chuyện với một người Anh, người này nhắc lại câu: “Từ chỗ trác tuyệt đến chỗ lố bịch chỉ có một đường thôi”. Nhà văn trả lời: “Đúng rồi, đó là bước Calais”. Ý nhà văn muốn nói là theo ý của ông ta thì nước Pháp trác tuyệt còn nước Anh thì lố bịch. Nhưng bước Calais là một con sông đào trên bờ biển Manche. Các bạn sắp hỏi tôi có thấy gì liên quan đến ý này và giấc mơ không? Nhất định rồi và chính ý này đã cho chúng ta giải đáp bài toán. Có khi bạn ngờ rằng cái gạch trí khôn từ đó đã có từ lâu trước khi xảy ra giấc mơ. Ý này chứng tỏ sự bi quan của bà kia và sự bi quan này lại nấp sau một sự ngạc nhiên hết sức vô tình, do đó người ta mới hiểu tại sao ý tưởng đó lại xuất hiện chậm như thế và tại sao giấc mơ lại khó hiểu như thế. Liên quan giữa yếu tố của giấc mơ và nền tảng vô thức của yếu tố đó: yếu tố chỉ là một phần nhỏ vô thức, y như một ảo ảnh thôi, chính vì được tách rời ra khỏi tảng vô thức mà yếu tố giấc mơ trở thành không thể thiếu được.
c. Một người bệnh nằm mơ một giấc mơ khá dài: nhiều người trong gia đình ngồi chung quanh một cái bàn có một hình thù đặc biệt. Về cái bàn này anh ta nhớ lại là có lần đã trông thấy một cái bàn như thế tại nhà một người quen. Rồi những ý tưởng của anh cứ nối đuôi nhau mà ra; trong gia đình có hai cha con không hợp nhau lắm; anh thêm luôn rằng chính anh và ba anh cũng không hoà nhau như thế. Chính vì muốn chứng tỏ sự giống nhau này mà cái bàn hình thù đặc biệt xuất hiện trong giấc mơ.
Anh chàng này vốn quen với những sự đòi hỏi trong sự giải thích giấc mơ. Một người chưa quen sẽ ngạc nhiên khi thấy người ta để ý đến một chi tiết nhỏ nhặt như hình thù một cái bàn. Thực tế đối với chúng ta chẳng có chi tiết nào là nhỏ nhặt hay không quan trọng, chính nhờ sự tìm hiểu những chi tiết nhỏ nhặt đó mà chúng ta tìm được giải pháp cho các bài toán trong giấc mơ. Điều làm cho các bạn ngạc nhiên có lẽ là điều này: Tại sao người ta lại chọn cái bàn có hình thù đặc biệt để diễn tả ý tưởng: “trong nhà chúng ta sự việc cũng xảy ra giống như ở nhà kia”. Nhưng bạn sẽ cắt nghĩa được ngay khi tôi cho bạn biết rằng cái gia đình đó là gia đình Tisbler (nghĩa là cái bàn). Khi cho các người thân trong gia đình ngồi xung quanh cái bàn, người nằm mơ đã xử sự như người trong chính gia đình này cũng tên là Tisbleer. Các bạn nên để ý là trong khi muốn giải thích một vài điểm trong giấc mơ nhiều khi mình cũng phải nói đến một vài điều có tính cách riêng tư. Đó chính là sự khó khăn lựa chọn. Đáng lẽ tôi phải thay giấc mơ này bằng một giấc mơ khác nhưng biết đâu trong thí dụ này tôi lại chẳng gặp một cái riêng tư hơn nữa.
Đến đây tôi phải đưa ra một ít danh từ nữa mà đáng lẽ mình phải dùng đến từ lâu rồi. Chúng ta sẽ gọi là nội dung rõ ràng của giấc mơ những điều người ta kể cho ta nghe về giấc mơ, và gợi lại những ý tưởng tiểm tàng trong giấc mơ những điều người ta giấu không nói đến hay ẩn náu trong giấc mơ, những ý tưởng mà người ta muốn tìm hiểu khi phân tích những ý tưởng gặp trong đó. Chúng ta hãy xét đến những liên quan giữa nội dung và ý tưởng tiềm tàng của giấc mơ. Những liên quan đó có thể có nhiều loại. Trong các thí dụ a và b nói trên nội dung cũng nằm trong thành phần của những ý tưởng tiềm tàng nhưng chỉ ít thôi. Một phần lớn tinh thần do các ý tưởng vô thức trong giấc mơ hợp thành đã in sâu vào trong nội dung giấc mơ với tính cách hoặc là những phần nhỏ, hoặc bằng cách ám chỉ, hoặc là những biểu ngữ có tính cách tượng trưng, những chữ vắn tắt dùng trong điện tín. Công việc giải thích là bổ túc những mảnh nhỏ, những ám chỉ đó như chúng ta đã thành công trong thí dụ b. Vậy sự thay thế bằng một mảnh nhỏ hay một ẩn ngữ trong giấc mơ chính là một trong các hình thức thay đổi của giấc mơ. Ngoài ra trong thí dụ chúng ta thấy xuất hiện một trường hợp tìm lại được hết sức rõ ràng trong những thí dụ sau đây.
d. Người nằm mơ kéo ra sau giường một bà mà anh quen biết. Ý tưởng đầu tiên đến trong đầu làm cho anh ta hiểu hết ý nghĩa của giấc mơ: anh thích người đó hơn các người khác (trong tiếng Đức chữ kéo theo sau hervorziehen với chữ thích hơn Vorzug cùng một gốc zug và ziehen).
e. Một người khác nằm mơ thấy em bị nhốt trong cái rương. Ý tưởng đầu tiên thay cái rương bằng một cái tủ và ý sau cho biết ý nghĩa của giấc mơ: em anh ta muốn giảm bớt chi tiêu (Schranktsich ein: nghĩa từng chữ là tự nhốt vào trong tủ).
f. Người nằm mơ thấy mình trèo lên một ngọn núi và tìm ra một phong cảnh rộng mênh mông. Chả còn gì tự nhiên hơn, có vẻ như không cần giải thích nữa, chỉ cần tìm xem một kỷ niệm nào liên quan đến giấc mơ và lý do nào đã làm cho kỷ niệm đó sống lại. Sai rồi. Giấc mơ này cũng cần được giải thích như bất cứ giấc mơ nào khác vì thực ra nó cũng rắc rối lắm. Người nằm mơ không hề nhớ đến một cuộc trèo núi, anh chỉ nghĩ đến người bạn cho anh xuất bản tờ tạp chí (Revue tiếng Đức là Rundschau: nhìn quanh) nói về những sự liên lạc của chúng ta với những miền xa xôi khác trên trái đất. Vậy trong trường hợp này ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ chính là sự đồng hoá người nằm mơ với người đã nhìn chung quanh mình và duyệt lại không gian đó (Rundschuer).
Ở đây chúng ta tìm ra một liên quan mới giữa nội dung rõ ràng của giấc mơ và những ý tưởng tiềm tàng trong đó. Nội dung không phải là một hình thức bị biến dạng của ý thức tiềm tàng nhưng là một hình dung của nó, hình dung nổi bật lên, cụ thể bắt nguồn từ thế giới của từ ngữ. Thực ra cũng là một sự biến dạng vì khi chúng ta nói lên một tiếng nào đó, chúng ta quên hẳn hình dung cụ thể phát sinh ra tiếng đó, thành ra khi nó được thay thế bằng một hình ảnh mới thì chúng ta không nhận ra nữa. Vì các giấc mơ thường gồm những hình ảnh thị giác là những ý tưởng hay tiếng nói nên chúng ta phải dành cho những liên quan mới này một vai trò quan trọng trong việc giải thích. Các bạn thấy ngay rằng trong giấc mơ rõ ràng ta có thể tạo ra một số hình ảnh dùng để thay thế những tư tưởng trừu tượng, và những hình ảnh này không hề phản trái với những ý tưởng tiềm tàng trong đó. Đó là kỹ thuật của chúng ta trong việc tìm ra giải đáp cho các bài toán về tính chất bí ẩn của những hình ảnh. Nhưng do đâu mà có sự liên kết giữa hình ảnh này? Đó là một vấn đề khác mà chúng ta không cần xét đến.
Tôi sẽ bỏ qua một lối thứ tư về sự liên quan giữa nội dung rõ ràng của giấc mơ và những ý tưởng tiềm tàng trong đó. Tôi sẽ nói đến khi nó tự xuất hiện trong kỹ thuật của chúng ta. Vì thế mà sự kê khai của chúng ta sẽ thiếu sót nhưng trong lúc này chúng ta không cần gì hơn.
Bây giờ bạn có can đảm tìm hiểu một giấc mơ hoàn toàn không? Chúng ta thử xem có đủ mọi thứ cần dùng trong công việc đó không? Tất nhiên chúng ta sẽ chọn một giấc mơ tuy không đến nỗi tăm tối lắm nhưng cũng sẽ có đủ mọi tính chất của một giấc mơ.
Vậy, một bà hãy còn trẻ, lấy chồng từ nhiều năm nay, nằm mơ như sau: bà ta cùng chồng đi xem hát, một phần rạp hát hãy còn trống. Chồng bà ta kể là Elise và vị hôn phu cũng muốn đi xem hát nhưng không tìm được chỗ tối, chỉ có những chỗ tối không nhận được (ba chỗ giá một florin và 50 kreuzer). Bà ra nghĩ rằng điều đó cũng chẳng có gì đáng tiếc hết.
Điều đầu tiên bà ta kể cho tôi nghe chứng tỏ rằng lý do của giấc mơ này nằm ngay trong nội dung rõ ràng rồi. Chồng bà ta quả thực có kể cho bà ta nghe là Elisa L., một người bạn cùng lứa tuổi vừa mới đính hôn xong. Vậy giấc mơ chính là một phản ứng đối với tin này. Chúng ta đã biết rằng trong nhiều trường hợp người ta rất dễ tìm thấy trong những biến cố xảy ra trong ngay lý do của giấc mơ, và lý do này dễ dàng được các người nằm mơ xác nhận. Bà nằm mơ này cũng hiến cho chúng ta những tin tức cùng loại để hiểu những yếu tố khác của giấc mơ. Do đâu mà có chi tiết về sự rạp hát vắng khách? Chi tiết này ám chỉ đến một sự việc có thực xảy ra ở tuần trước. Định đi xem một vở kịch bà ta mua vé trước rất lâu, lâu đến nỗi phải trả thêm tiền giữ chỗ. Nhưng khi đến rạp hát bà ta thấy rằng mình mua vé trước là một điều dại dột vì phần lớn rạp hát còn trống. Giá có đợi đến tận ngày trình chiếu mới mua vé cũng chẳng thiệt hại gì. Ông chồng bà ta cũng nói đùa với bà về sự hấp tấp quá lo xa đó. Thế còn đâu có chi tiết về số tiền 1fl 50kr? Chi tiết này cũng bắt nguồn ở một sự việc có thật xảy ra trước ngày nằm mơ tuy không dính dáng gì đến việc vừa kể ở trên. Người em gái chồng bà vừa được chồng bà cho một món tiền 150 fl, vội vàng đem ngay ra hiệu kim hoàn mua một món đồ nữ trang. Thế còn chi tiết về con số ba (3 chỗ ngồi trong rạp hát)? Về vấn đề này bà ta không biết giải thích ra sao, chỉ nói rằng có lẽ con số 3 là do việc người bạn bà ta chỉ kém bà ta có ba tháng mà mãi năm nay mới đính hôn trong khi bà ta đã lấy chồng mười năm rồi. Thế tại sao chỉ có hai người mà mua tận ba vé? Bà khách không nói cho biết và từ chối không chịu nhớ lại gì thêm.
Nhưng những điều bà ta cho chúng ta biết đủ để cho ta rõ đâu là những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ, bà khách đã nhiều lần cho ta biết những chi tiết có liên quan đến nhiều sự việc cùng một lúc. Trước hết những chi tiết này có tính chất thời gian. Bà ta đã nghĩ đến việc mua vé quá sớm, đã mua vé trước quá sớm, và do đó phải trả đắt hơn thường lệ; người em chồng đã quá vội vàng trong việc đi mua nữ trang chỉ sợ không mua được thôi. Nếu bây giờ chúng ta thêm vào những sự việc quá sớm, quá vội vàng, những sự việc dính dáng đến người bạn gái chỉ kém mình ba tháng vừa đính hôn với một người rất khá, việc trách cô em chồng quá vội vàng, chúng ta có thể tìm ra những ý tưởng tiềm tàng sau đây trong giấc mơ trong khi nội dung giấc mơ chỉ là một sự biến dạng của những ý tưởng đó thôi.
“Tôi lấy chồng vội vàng quá là một điều vô tích sự. Cô bạn gái vừa đính hôn xong đã cho tôi thấy là giá mình có chờ đến tận ngày nay mới lấy chồng cũng chẳng thiệt thòi gì. (Sự vội vã được diễn tả trong giấc mơ bằng sự việc mua vé quá sớm, cô em chồng quá vội vã trong việc đi mua nữ trang. Còn việc lấy chồng thì được thay bằng việc cùng chồng đi xem hát). Ý chính của giấc mơ là như thế. Chúng ta có thể tiếp tục nhưng không được chắc chắn như trên, bởi vì những điều dưới đây không được chính miệng bà ta xác nhận “và với cùng một số tiền đáng lẽ tôi phải mua được một thứ gì đáng giá trăm lần hơn (150 fl bằng một trăm lần số tiền 1fl 50).” Nếu thay chữ tiền bằng chữ hồi môn ta sẽ hiểu là với số tiền hồi môn chúng ta có thể mua được một người chồng: món đồ nữ trang và những vé xem hát là những khái niệm thay thế khái niệm người chồng. Không biết có phải là con số 3 vé cũng dính dáng đến một người đàn ông nào không? Nhưng không có chi tiết nào cho phép chúng ta đi xa như thế. Chúng ta chỉ cần tìm thấy là giấc mơ chứng tỏ rằng bà khách này không yêu chồng và hối rằng đã lấy chồng quá sớm”.
Theo tôi thì kết quả của sự giải thích này làm chúng ta ngạc nhiên bối rối hơn là thoả mãn. Có nhiều điều xuất hiện ra quá khiến chúng ta không biết đường nào mà mò. Ngay từ lúc này chúng ta đã thấy là không thể nào hiểu được hết những quy tắc đó. Chúng ta hãy rút ra những dữ kiện mà ta cho là chắc chắn mới lạ:
Thứ nhất: Điều ngạc nhiên là ý tưởng quá vội vàng có trong các ý tưởng tiềm tàng mà không có nội dung rõ ràng của giấc mơ. Nếu không phân tích có lẽ chẳng bao giờ người ta ngờ là có yếu tố đó. Tức là có thể rằng, điểm chính trong một giấc mơ, trung tâm điểm của các ý tưởng vô thức, không hiện ra trong nội dung rõ ràng của các giấc mơ, và điều này thay đổi sâu rộng những cảm giác mà giấc mơ để lại trong tâm trí ta.
Thứ hai: Trong giấc mơ có điểm thực khó hiểu: tại sao ba vé mà chỉ có 1fl 50? Chúng ta tìm thấy trong những ý của giấc mơ lời giải thích: lấy chồng quá sớm là điều dại dột. Chúng ta có thể phủ nhận rằng ý kiến đó là điều dại dột được hình dung bằng cách đưa ra một sự dại dột vào trong giấc mơ không?
Thứ ba: Chỉ cần nhìn sơ qua chúng ta cũng thấy rằng những liên quan giữa những yếu tố tiềm tàng và nội dung giấc mơ không đơn giản tí nào: dù sao thì cũng không phải lúc nào một yếu tố rõ ràng cũng thay thế một yếu tố tiềm tàng. Có thể là giữa hai thứ đó có những liên quan về toàn thể, một yếu tố rõ ràng và có thể thay thế nhiều yếu tố rõ ràng.
Chúng ta cũng có nhiều điều đáng ngạc nhiên về ý nghĩa của giấc mơ và về thái độ của người nằm mơ đối với giấc mơ. Bà khách quả có giúp đỡ chúng ta trong công việc giải thích nhưng không khỏi ngạc nhiên. Bà ta không biết là đối với chồng bà, bà lại có ý tưởng không kính trọng như thế: bà ta cũng không biết những lý do đã làm cho bà ta coi thường chồng như thế. Còn có nhiều điểm không hiểu được. Tôi cho rằng chúng ta chưa đủ trang bị để giải thích các giấc mơ, chúng ta còn cần nhiều chỉ dẫn và còn cần chuẩn bị nhiều nữa.
Chúng ta có cảm tưởng là đã đi quá nhanh. Hãy lùi lại đằng sau một chút. Trước khi dùng kỹ thuật của chúng ta vượt qua được những khó khăn bắt nguồn từ sự thay hình đổi dạng của các yếu tố trong giấc mơ, chúng ta hãy tự nhủ là nên xoay quanh các khó khăn đó thì hơn, bằng cách hãy xét các giấc mơ có rất ít biến dạng hay nếu có thì những sự biến dạng đó cũng chẳng có gì quan trọng. Phương sách này trái lại với lịch sử phát triển của sự khảo sát của chúng ta, vì sự thực chính vì đã áp dụng kỹ thuật giải thích vào các giấc mơ bị biến dạng, chính vì đã phân tích rất kỹ lưỡng và đầy đủ những giấc mơ như thế mà chúng ta mới để ý đến sự có mặt của những giấc mơ không biến dạng.
Những giấc mơ chúng ta tìm trong lúc này là những giấc mơ trẻ con, những giấc mơ ngắn ngủi, rõ ràng, có đầu cuối, dễ hiểu, không làm cho hiểu lầm, những giấc mơ thực sự. Ngay cả trong những giấc mơ này cũng có nhiều điều thay đổi, ngay cả những đứa còn ít tuổi mà đã có những giấc mơ người lớn. Nhưng nếu chúng ta giới hạn vào khoảng tuổi mới bắt đầu có những hoạt động tinh thần là bốn hay năm tuổi thì những giấc mơ của những đứa trẻ này có đặc tính của những giấc mơ có thể gọi là giấc mơ trẻ con. Những giấc mơ này cũng có khi thấy ở những đứa trẻ lớn tuổi hơn và ngay cả ở những người lớn nữa.
Phân tích những giấc mơ trẻ con này, chúng ta biết được rất nhiều điều về tính chất giấc mơ nói chung một cách dễ dàng chắc chắn, có tính quyết định và có giá trị phổ thông.
1/Để hiểu những giấc mơ này chúng ta không cần phân tích mà cũng chẳng cần kỹ thuật gì cả. Chúng ta không nên hỏi trẻ em trong lúc nó kể lại giấc mơ. Nhưng chúng ta phải bổ túc những điểu nó nói bằng những tài liệu có dính dáng đến nó. Trong giấc mơ bao giờ cũng có một biến cố trong ngày can dự vào. Giấc mơ chính là phản ứng của giấc ngủ đối với những biến cố trong ngày.
Đây là vài thí dụ:
a. Một chú bé 22 tháng phải đem biếu một người quen một giỏ anh đào. Chú bé quả thực không muốn làm như thế chút nào tuy rằng người ta hứa sẽ cho chú một ít anh đào. Sáng hôm sau chú kể lại là chú nằm mơ thấy mình chén hết những quả anh đào đó.
b. Một em bé gái 3 năm 3 tháng lần đầu tiên đi tàu trên biển. Lúc đến bến em không muốn lên bờ và khóc nức nở. Em có cảm tưởng như cuộc du lịch kết thúc quá sớm. Sáng hôm sau em kể lại: “Đêm qua em được đi chơi trên biển”. Chúng ta cần bổ túc cho em thêm là cuộc đi chơi này lâu hơn ý em muốn nói.
c. Một em trai năm tuổi rưỡi được dẫn đi chơi ở Escherntal gần Hallsalt. Em đã nghe nói rằng Hallsalt ở gần chân núi Daschtein mà em rất thích. Từ trong nhà em ở Aussee em có thể trông thấy núi Daschtein và dùng một viễn kính nhìn thấy ngọn Symonyhutte. Chú bé đã nhiều lần thấy viễn kính ra xem nhưng không ai biết kết quả ra sao. Cuộc đi chơi vì thế đối với chú bé rất vui, lòng tò mò được kích thích. Một lần nhìn thấy một ngọn núi chú lại hỏi: “Có phải Daschtein đấy không? ”. Một lần được trả lời là không phải chú càng im lặng hơn, sau cùng chú không hỏi nữa. Mọi người tưởng chú mệt nhưng sáng hôm sau chú vui vẻ kể lại: “Đêm qua em nằm mơ thấy đi chơi núi Simonyhutte”. Như thế tức là chú đã đi chơi núi chỉ cốt đi thăm Simonyhutte thôi. Về các chi tiết chú chỉ nói chú được nghe nói đến một cái lều trên ngọn núi và muốn đi lên đó phải trèo núi trong sáu giờ.
Ba giấc mơ này đủ cho chúng ta những chi tiết cần dùng:
2/ Như các bạn đã thấy: những giấc mơ trẻ con này không phải là không có nghĩa: đó là những hoạt động tinh thần, đầy đủ, dễ hiểu, các bạn hãy nhớ lại những điều tôi nói về những ý kiến của các vị bác sĩ đối với những giấc mơ, về sự so sánh với ngón tay mà nhạc sĩ chạy trên những phím đàn. Chắc các bạn cũng nhìn thấy rõ sự phản trái giữa những giấc mơ trẻ con với những quan niệm này. Nhưng điều ngạc nhiên là những đứa bé cũng có những hoạt động tinh thần đầy đủ trong giấc ngủ, trong khi người lớn, cũng trong những điều kiện đó, lại có những phản ứng rất khác nhau. Chúng ta có đủ lý do để cho rằng giấc ngủ trẻ con ngon hơn và say hơn.
3/ Vì những giấc mơ trẻ con không bị biến dạng nên không cần giải thích. Nội dung và những ý tưởng tiềm tàng ở đây chỉ là một. Vậy sự biến dạng không phải là tính chất tự nhiên của giấc mơ. Tôi hy vọng là điều này sẽ cất khỏi ngực bạn một sức nặng. Nhưng tôi phải nói trước là dù vậy, khi suy nghĩ kỹ hơn chúng ta cũng có thấy một sự biến dạng rất nhỏ, một sự khác biệt nào đó giữa nội dung và ý tưởng tiềm tàng.
4/ Giấc mơ trẻ con là phản ứng của một biến cố trong ngày làm cho đứa bé có điều gì tiếc rẻ, buồn rầu, không thoải mái. Giấc mơ đem đến cho đứa bé sự thực hiện không cần giấu giếm ý muốn không được thoả mãn trong ngày. Bây giờ các bạn hãy nhớ lại những điều chúng ta đã nói về vai trò của những sự kích động bên trong bên ngoài của thân thể được coi như hay làm rối loạn giấc ngủ và gây giấc mơ. Chúng ta đã học được nhiều sự kiện chắc chắn nhưng chỉ có ít sự kiện có thể được giải thích thôi. Trong giấc mơ trẻ con này không có gì chứng tỏ là đã có một sự kích động về cơ thể; về điểm này không còn gì là nghi ngờ nữa vì những giấc mơ này đều dễ hiểu, thoạt nhìn là hiểu ngay. Nhưng đó không phải là một lý do để bỏ rơi sự giải thích đầu tiên bằng những cách kích động. Chúng ta chỉ cần tự hỏi tại sao ngay từ lúc đầu chúng ta lại quên phắt đi rằng giấc ngủ có thể bị quấy rối bằng những sự kích động, không những về cơ thể mà còn về tinh thần nữa. Vậy mà chúng ta biết rõ là chính những sự kích động đó đã ngăn cản không cho họ thực hiện được điều kiện tinh thần của giấc ngủ, nghĩa là giúp họ quên được hết thế giới bên ngoài. Người lớn không đi ngủ vì do dự không muốn tạm ngừng cuộc đời hoạt động của mình, hay sự làm việc của mình với những gì mình thích. Đối với trẻ con thì điều làm cho nó ngủ không yên chính là ý muốn chưa được thoả mãn, và giấc mơ là sự biểu lộ phản ứng của nó.
5/ Đi từ điểm đó, chúng ta chọn con đường ngắn nhất để đi đến những kết luận vô nhiệm vụ của giấc mơ. Với tính cách là sự phản ứng đối với những kích động về tinh thần, giấc mơ có nhiệm vụ gạt bỏ sự kích động này ra một bên để cho giấc ngủ được tiếp tục. Giấc mơ làm thế nào để hoàn thành nhiệm vụ đó? Đó là điều chúng ta không biết: nhưng chúng ta có thể nói rằng, từ bây giờ trở đi giấc mơ không hề quấy rối giấc ngủ như người ta thường tưởng, trái lại chính nó giữ gìn cho giấc ngủ được yên lành bằng cách gạt ra một bên những sự quấy rối giấc ngủ. Khi tưởng rằng nếu không có giấc mơ thì chúng ta không thể ngủ được tí nào. Chính nhờ những giấc mơ chúng ta ngủ ngon hơn, chúng ta đã nhầm: sự thực là nếu không có giấc mơ thì chúng ta mới ngủ được chút ít. Giấc mơ đó không thể nào không làm rộn chúng ta chút ít y như người gác đêm bắt buộc phải hơi ầm ĩ một chút khi muốn đuổi những kẻ làm ầm ĩ trong lúc mọi người đang ngủ.
6/ Lòng ham muốn chính là sự kích động của giấc mơ: sự thực hiện lòng ham muốn này chính là nội dung giấc mơ: đó là một trong những tính chất cơ bản của giấc mơ. Một tính chất khác cũng bất biến như thế, làm cho giấc mơ không những chỉ diễn tả một tư tưởng không thôi mà còn thể hiện một sự ham muốn đã được thoả mãn dưới hình thức một biến cố tinh thần thuộc về ảo giác. Tôi muốn đi du lịch trên biển: đó là lòng ham muốn kích động trong giấc mơ. Như vậy, ngay trong giấc mơ trẻ con rất giản dị cũng có sự khác biệt giữa một giấc mơ tiềm tàng và một giấc mơ rõ ràng, một sự biến dạng của tư tưởng tiềm tàng trong giấc mơ: đó chính là sự biến đổi của ý nghĩ thành một biến cố sống động. Trong khi giải thích chúng ta hãy bỏ qua những biến dạng nhỏ bé. Nếu thực ra đó là một trong các tính chất chung cho các giấc mơ thì trong một phần giấc mơ kể trên, câu “tôi thấy em tôi bị nhốt trong cái rương” đáng lẽ đã được giải thích bằng câu: “em tôi giảm bớt chi tiêu” thì phải được giải thích bằng câu “em tôi phải giảm bớt chi tiêu” hay "tôi muốn em tôi phải giảm bớt chi tiêu". Trong hai tính chất chung vừa kể, tính chất thứ hai có nhiều hy vọng được chấp nhận mà không bị phản đối hơn. Chỉ sau khi đã khảo sát sâu rộng với nhiều tài liệu, ta mới có thể chứng tỏ rằng các kẻ kích động giấc mơ bao giờ cũng là một ý muốn chứ không phải là một sự lo nghĩ, một điều dự tính hay một lời trách móc. Nhưng điều này vẫn giữ nguyên tính chất của các giấc mơ, tính chất này đáng lẽ lặp lại một cách đơn giản sự kích động, lại huỷ bỏ, gạt ra một bên hay tiêu diệt dần đi sự kích động đó bằng một sự đồng hoá.
7/ Dựa vào hai tính chất này của giấc mơ, chúng ta có thể tiếp tục so sánh giấc mơ và hành vi sai lạc. Trong hành vi sai lạc chúng ta phân biệt một khuynh hướng gây rối và một bị gây rối, rồi có một sự dung hoà giữa hai khuynh hướng này. Trong giấc mơ sự việc khuynh hướng bị gây rối cũng là khuynh hướng đi ngủ. Còn khuynh hướng bị gây rối là sự kích động tinh thần, nghĩa là ý muốn được thoả mãn: thực ra chúng ta không biết có sự kích động nào khác có thể quấy rối giấc ngủ nữa. Vậy giấc mơ cũng là kết quả của một sự dung hoà, sự điều đình giữa hai khuynh hướng. Trong khi ngủ chúng ta thoả mãn một ý muốn: chính vì thoả mãn ý muốn đó mà chúng ta tiếp tục ngủ. Có một sự thoả mãn nửa vời và một sự huỷ diệt nửa vời của hai khuynh hướng.
8/ Các bạn hãy nhớ lại có lần chúng ta hy vọng có thể dùng sự kiện có những giấc mơ trong lúc thức để giải thích các giấc mơ. Thực tế, những giấc mơ trong khi thức này chả là gì hơn sự hoàn thành những ý muốn về tham vọng hay tình ái: nhưng có điều những ham muốn đó chỉ là những ý nghĩ chứ không xuất hiện dưới hình thức ảo giác của đời sống tinh thần. Vì thế trong tính chất của giấc mơ chúng ta chỉ giữ lại tính chất nào không được chắc chắn trong khi tính chất kia biến mất vì thuộc giấc ngủ và không thể được thực hiện trong khi thức. Ngay trong lời nói thông thường, người ta cũng có vẻ cho rằng tính chất cơ bản trong giấc mơ là sự thực hiện những ham muốn. Vậy, nếu những biến cố sống động trong giấc mơ chỉ là những biểu ngữ bị biến dạng và sở dĩ có được là nhờ có tình trạng giấc ngủ, nghĩa là những giấc mơ trong khi thức về đêm, thì chúng ta hiểu rằng sự hoàn thành giấc mơ đưa lại hậu quả là huỷ bỏ những sự kích động ban đêm và thoả mãn ham muốn, bởi vì hoạt động của những giấc mơ trong khi ý thức cũng ngụ ý một sự thoả mãn ham muốn và sở dĩ xảy ra là chỉ cốt thoả mãn sự ham muốn này thôi.
Những lỗi khác cũng diễn tả một ý tưởng tương tự. Ai chẳng biết câu tục ngữ: “Con lợn mơ bèo, con mèo mơ chuột” và câu hỏi: “Thế con gà thì mơ gì? và câu trả lời: Con gà mơ thóc ”. Như vậy, tức là ngay cả khi xuống thấp một bậc nữa, nghĩa là từ đứa bé xuống đến giống vật, ngay chính câu tục ngữ cũng thấy rằng nội dung của giấc mơ là sự thoả mãn một nhu cầu. Rồi còn biết bao nhiêu câu nói cùng một ý nghĩa “Đẹp như trong mơ” hay “tôi chưa bao giờ mơ thế bao giờ”, hay là “Đó là một điều tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến ngay cả khi trong những giấc mơ táo bạo nhất”. Rõ ràng là người ngoài phố đã nghĩ về giấc mơ của mình như thế nào rồi. Cũng có những giấc mơ hãi hùng, những giấc mơ có nội dung buồn rầu khổ sở, nhưng quần chúng không chấp nhận cho đó là giấc mơ. Quần chúng cũng có ý nghĩ đến những giấc mơ bực mình nhưng trong đầu óc quần chúng thì giấc mơ cụt thun lủn vẫn là sự thoả mãn một ham muốn dễ chịu nào đó. Chưa hề bao giờ có những giấc mơ trong đó những chó, lợn hay anh ngỗng mơ thấy mình bị đem thọc tiết cả.
Có điều khó hiểu là tại sao từ trước tới nay những nhà khảo cứu những giấc mơ không hề để ý rằng nhiệm vụ chính của những giấc mơ là thực hiện một ham muốn. Họ quả có để ý đến đặc tính này nhưng không một ai đã có ý nghĩ công nhận rằng chính nó là một tính cách bao quát và dùng làm khởi điểm cho việc giải thích các giấc mơ. Tôi hiểu điều gì đã ngăn họ làm thế.
Bây giờ các bạn hãy nghĩ đến những kết quả quý báu mà chúng ta đã đạt được một cách dễ dàng trong khi khảo sát những giấc mơ trẻ con. Chúng ta biết rằng nhiệm vụ của các giấc mơ là trông nom cho giấc ngủ, rằng giấc mơ là kết quả của sự gặp nhau giữa hai khuynh hướng trái ngược: một khuynh hướng nhu cầu ngủ, không thay đổi trong khi khuynh hướng kia tìm cách thoả mãn một sự kích động tinh thần. Chúng ta có bằng chứng chứng tỏ rằng giấc mơ là một hành vi tinh thần có ý nghĩa, chúng ta biết giấc mơ có hai tính chất chính: sự thoả mãn một ham muốn và đời sống tinh thần ảo giác. Được biết các khái niệm đó, hơn một lần chúng ta có vẻ như quên rằng mình đang khảo cứu về phân tâm học. Ngoài việc so sánh với những hành vi sai lạc, chúng ta chưa làm được gì đặc biệt. Bất cứ một nhà tâm lý học nào, dù không hề biết đến phân tâm học chăng nữa, cũng có thể giải thích các giấc mơ trẻ con như chúng ta vừa làm. Nhưng tại sao chưa có một nhà tâm lý học nào làm việc đó cả?
Nếu chỉ có trẻ con mới nằm mơ thôi thì vấn đề đã được giải quyết rồi. Chúng ta chẳng còn gì phải làm nữa, chả cần phải hỏi han gì người nằm mơ, chả cần phải đưa vô thức vào làm gì, chẳng cần phải đưa sự tự do liên tưởng ra làm gì. Chúng ta đã nhiều lần nhận thấy rằng có nhiều đặc tính lúc đầu tưởng rằng có tính chất tổng quát nhưng thực ra chỉ thuộc vào một loại giấc mơ nào đó thôi. Chúng ta cần biết là những đặc tính chung trong những giấc mơ trẻ con có vững chắc hơn hay không, có liên hệ gì đến những giấc mơ không được rõ ràng hơn không và nội dung có dính dáng gì đến những biến cố xảy ra ban ngày không? Theo quan niệm của chúng ta thì những giấc mơ đó đã bị biến dạng đi quá nhiều khiến cho chúng ta không thể có ý kiến gì chắc chắn về chúng ngay được. Chúng ta sẽ thấy là muốn cắt nghĩa những biến dạng đó chúng ta cần dùng đến kỹ thuật phân tâm mà chúng ta không dùng đến trong khi tìm hiểu những giấc mơ trẻ con.
Tuy nhiên, cũng có cả một loạt những giấc mơ không biến dạng giống như những giấc mơ trẻ con xuất hiện như những sự thực hiện của ham muốn. Đó là những giấc mơ do những nhu cầu về cơ thể gây ra trong cuộc đời của mỗi người: đói khát, dục tình. Những giấc mơ đó là sự thực hiện những ham muốn do những kích động bên trong gây nên. Một em bé gái 19 tháng mơ thấy một thực đơn trong đó em đã thêm tên vào (Anna F.. dâu, quả mâm xôi, trứng tráng, canh): giấc mơ này là kết quả của một ngày nhịn đói sau khi ăn không tiêu vì đã ăn quá nhiều dâu và quả mâm xôi. Bà em bé này, 70 tuổi, đã phải nhịn ăn suốt ngày vì đau thận, nằm mơ thấy được mời đi ăn tiệc ở nhà bạn bè và ăn những món rất ngon. Những quan sát được thí nghiệm đối với những người tù, hay những người trong đoàn thám hiểm chịu nhiều thiếu thốn chứng tỏ rằng những giấc mơ của họ đều diễn tả sự thực hiện các nhu cầu không được thoả mãn trong đời thực. Trong cuốn Antarctic (Cuốn 1, trang 336, 1904), Otto Nordenskjold nói về những người trong đoàn thám hiểm như sau: “Những giấc mơ của chúng tôi, nhiều hơn bao giờ, đầy ý nghĩa ở chỗ bao giờ chúng cũng cho biết lòng ham muốn của chúng tôi hướng về cái gì. Ngay cả những người bạn xưa nay rất ít khi nằm mơ cũng kể cho chúng tôi nghe những giấc mơ rất dài mỗi buổi sáng khi chúng tôi họp nhau lại để trao đổi những kinh nghiệm mới nhất trong việc khảo sát trí tưởng tượng. Những giấc mơ này đều liên quan đến thế giới bên ngoài lúc đó ở xa chúng tôi hàng ngàn dặm nhưng cũng liên quan đến đời sống hiện tại của chúng tôi. Những giấc mơ đó luôn luôn xoay quanh vấn đề ăn và uống. Một người xưa nay thường mơ được dự một bữa tiệc to, rất khoan khoái nếu sáng ra anh được kể lại cho chúng tôi nghe là đêm qua anh đã nằm mơ thấy một bữa ăn gồm có ba món, một người khác nằm mơ thấy được hút những núi thuốc, một người khác nằm mơ thấy tàu mình chạy bon bon trên những dòng sông tự do. Một người khác nằm mơ thấy rất ý nghĩa: anh chàng bưu tín viên đến đưa thư và cắt nghĩa tại sao anh lâu đến thế, nguyên do là anh đã đưa lầm địa chỉ thành ra mãi mới tìm được những lá thư đã lầm. Tất nhiên là trong khi ngủ chúng ta bận bịu về nhiều điều khó làm hơn nữa, nhưng trong giấc mơ của chính tôi và của các bạn, tôi thấy trí tưởng tượng nghèo nàn đến làm mình ngạc nhiên. Nếu chúng ta ghi lại được tất cả những giấc mơ đó, chúng ta sẽ có những tài liệu có ích hơn cho tâm lý học. Nhưng mọi người đều hiểu dễ dàng là giấc ngủ của chúng tôi được chúng tôi hoan nghênh ghê lắm vì chúng đã cho chúng tôi những điều ham muốn của lòng mình ”. Tôi trích lại đây mấy dòng nữa của Du Prel : “Mungo Park, một trong chuyến du lịch qua Phi châu, trong khi bị đói lả vẫn mơ màng đến những thung lũng và vùng cỏ xanh nơi quê hương. Trenck, bị đói cũng mơ thấy mình ngồi trong nhà trước một cái bàn đầy món ăn ngon. George Back, người dự vào cuộc thám hiểm đầu tiên của Franklin luôn luôn và đều đặn nằm mơ thấy mình được ăn những bữa cơm linh đình, và sau này vì quá thiếu thốn đã chết đói”.
Những ai buổi chiều ăn nhiều gia vị, bị khát, thường mơ thấy mình đang uống nước. Tất nhiên không thể nào dùng giấc mơ để bỏ được cái cảm giác đói khát, lúc tỉnh dậy bao giờ người ta cũng phải ăn hay uống thực sự. Về phương diện thực tế, giấc mơ trong những trường hợp này chả giúp gì cho chúng ta cả, hay giúp rất ít, nhưng thực sự giấc mơ giúp cho giấc ngủ được tiếp tục mặc dầu những kích động luôn luôn cố làm cho ta tỉnh dậy. Khi nhu cầu kém cường độ thì tác dụng của giấc mơ cũng kém đi.
Bị ảnh hưởng của các sự kích động về tình dục, giấc mơ hiến cho người nằm mơ những sự thoả mãn có vài tính chất đặc biệt cần chú ý. Nhu cầu sinh lý không bị phụ thuộc vào đối tượng của nó một cách chặt chẽ như đói và khát, có thể được thoả mãn thực sự bằng cách xuất tinh. Nhưng vì một vài sự khó khăn liên quan đến đối tượng này, giấc mơ đi cùng với sự thoả mãn nhu cầu thực sự thường có nội dung mơ hồ biến dạng. Việc vô tình xuất tinh làm cho việc xuất tinh rất có ích cho sự khảo sát các sự biến dạng của giấc mơ. Tất cả các giấc mơ của người lớn mà đối tượng là những nhu cầu, ngoài sự thoả mãn nhu cầu còn có một cái gì thêm nữa bắt nguồn ở những sự kích động tinh thần cần được giải thích.
Chúng ta không hề khẳng định rằng, những giấc mơ người lớn rập theo kiểu những giấc mơ trẻ con chỉ là những phản ứng đối với những nhu cầu thúc bách đã kể trên. Chúng ta biết là có những giấc mơ người lớn ngắn ngủi rõ ràng chịu sự ảnh hưởng của một vài tình trạng đặc biệt cũng bắt nguồn ở những sự kích động rõ ràng của tinh thần. Ví dụ như những giấc mơ mà trong đó người ta chờ đợi một sự gì: sau khi sửa soạn xong xuôi để đi du lịch, hay thu xếp để đi dự một buổi dạ hội, hay một buổi diễn thuyết hay đi chơi thăm ai, chúng ta nằm mơ là đã đạt được mục đích, đang dự dạ hội hay đang nói chuyện với người định đi thăm. Ví dụ như những giấc mơ mà người ta có lý khi gọi là những giấc mơ lười biếng: nhiều người muốn kéo dài thêm giấc ngủ, nằm mơ thấy mình bước ra khỏi giường, rửa mặt, đánh răng, làm việc này việc nọ, trong khi thực sự vẫn tiếp tục nằm ngủ. Điều đó chứng tỏ họ chỉ thích dậy trong mơ hơn là dậy thực. Nhu cầu ngủ thường là một yếu tố trong sự cấu thành giấc mơ, thường tỏ ra rõ ràng trong loại giấc mơ kể trên và được coi là yếu tố chính. Nhu cầu ngủ cũng được xếp ngang hàng với những nhu cầu khác của cơ thể.
Tôi đưa các bạn xem bản sao một bức tranh của Shwind hiện ở hành lang Schack ở Munich để cho các bạn biết với một sức mạnh trực giác nào nhà họa sỹ đã cho thấy nguồn gốc của một giấc mơ là do một tình trạng đặc biệt. Đó là bức: “Giấc mơ của người tù” và tất nhiên không có nội dung nào khác hơn là sự vượt ngục. Điều mà nhà họa sỹ đã diễn tả được một cách tài tình đó là sự vượt ngục phải bắt nguồn từ cái cửa sổ, vì chính ánh sáng ngoài cửa sổ là sự kích động chấm dứt giấc mơ của người tù. Những anh lùn đứng lên vai nhau tượng trưng cho những vị trí liên tiếp mà người tù cần có để nâng mình đến cửa sổ, và nếu tôi không lầm thì anh chàng lùn trên cao nhất đang cưa cái chấn song, điều mà người tù muốn làm quá, trông rất giống anh ta.
Trong tất cả các giấc mơ, trừ những giấc mơ trẻ con hay có tính cách trẻ con, sự biến dạng chính là một sự trở lực cho chúng ta. Chúng ta không thể nói rằng chúng là những sự thực hiện các điều ham muốn như chúng ta muốn tưởng: nội dung rõ ràng của chúng không cho biết gì về sự kích động tinh thần phát sinh ra chúng, chúng ta cũng không thể chứng tỏ rằng có phải chúng muốn gạt bỏ hay tiêu huỷ sự kích động này hay không. Những giấc mơ này cần được giải thích, phân tích, sự biến dạng cần được lập lại, nội dung rõ ràng của chúng phải được thay thế bằng nội dung tiềm tàng: chỉ lúc đó chúng ta mới có thể biết rõ ràng những dự kiện có giá trị đối với giấc mơ trẻ con có giá trị đối với mọi giấc mơ hay không?
Sự khảo sát các giấc mơ trẻ con đã cho chúng ta biết nguồn gốc, đặc tính và nhiệm vụ của giấc mơ. Giấc mơ là một phương tiện tiêu huỷ những sự kích động (tinh thần) quấy rối về giấc ngủ, sự tiêu huỷ này được tiến hành nhờ sự thoả mãn có tính cách ảo giác. Về những giấc mơ người lớn, chúng ta chỉ mới cắt nghĩa được có một loại, đó là những giấc mơ có tính chất trẻ con. Còn về những giấc mơ khác, chúng ta không hề biết gì về chúng, tôi có thể nói rằng chúng ta không hiểu chúng. Chúng ta đạt được một kết quả tạm thời mà chúng ta không nên coi thường: mỗi khi cho một giấc mơ nào dễ hiểu thì giấc mơ đó xuất hiện như một sự thoả mãn một nhu cầu có tính cách ảo giác. Sự trùng hợp này không thể là ngẫu nhiên hay không đáng để ý.
Khi đứng trước một giấc mơ loại đó, chúng ta thường cho rằng đó là một sự biến dạng của một nội dung mà chúng ta chưa hề biết. Công việc của chúng ta là phân tích, tìm hiểu sự biến dạng này.
Sự biến dạng của giấc mơ làm cho giấc mơ có vẻ như kỳ lạ và khó hiểu. Chúng ta muốn biết nhiều điều lắm: về nguồn gốc, tính cách sống động của sự biến dạng này, nó tiến hành ra sao và có mục đích gì. Chúng ta có thể nói rằng sự biến dạng của giấc mơ là kết quả của công việc làm trong giấc mơ. Chúng ta mô tả công việc và tìm xem những động lực nào đã thúc đẩy công việc đó.
Các bạn hãy nghe đây, một giấc mơ do bà bác sĩ V.Hug kể lại mà người nằm mơ là một bà già, học rộng và được mọi người quý mến. Giấc mơ này chưa từng được mọi người giải thích. Bà bác sĩ cho rằng đối với những người khảo cứu về phân tâm học thì không cần có sự giải thích. Ngay người nằm mơ cũng không giải thích nhưng đã xét đoán rồi kết án làm như bà ta có thể giải thích được vậy. Chính bà ta tuyên bố: “Một người đàn bà 50 tuổi mà mơ mộng kỳ quái, kinh khủng như vậy, tôi là một người đàn bà chẳng còn có điều gì lo nghĩ hơn là lo cho con”.
Và bây giờ đây giấc mơ là những công việc làm trong tình ái: “Bà ta đến nhà thương quân đội, bảo người tuỳ phái là muốn gặp ông y sĩ trưởng xin việc làm. Bà nhấn mạnh đến chỗ công việc đến nỗi người hạ sĩ quan cho ngay rằng đó là những công việc về tình ái. Thấy người đã có tuổi, anh ta hơi ngập ngừng trước khi cho bà ta vào. Nhưng thay vì đi vào phòng ông y sĩ trưởng, bà lại vào trong một phòng bên trong có nhiều viên sĩ quan và bác sĩ quân y khác đứng hay ngồi quanh một cái bàn dài. Bà nói với một người trong bọn họ và người này hiểu ngay. Bà nói như sau: “Tôi và nhiều bạn gái khác trong thành phố Viên chúng tôi sẵn sàng.. cho binh sĩ, sĩ quan không phân biệt...” Nói xong bà ta (vẫn trong giấc mơ) nghe tiếng xì xào”.
Nhưng vẻ mặt nhí nhảnh, ngượng ngùng của các sĩ quan cho bà ta thấy là họ hiểu bà muốn gì. Bà ta tiếp tục : “Tôi biết là quyết định của chúng tôi có vẻ hơi kỳ lạ nhưng chúng tôi rất đứng đắn. Người ta không hỏi những người lính xem họ có muốn chết hay không?” Một phút yên lặng nặng nề. Ông bác sĩ ôm bà ta nói: “Thưa bà, nếu quả nhiên chúng ta tiến đến đó..” (có tiếng xì xào). Nghĩ rằng ông này hay ông khác thì cũng thế thôi, bà đã gỡ tay ông kia ra và trả lời: “Tôi đã có tuổi rồi. Tôi chưa từng ở trong tình thế này bao giờ. Dù sao cũng phải có một điều kiện: cần để ý đến tuổi tác, không nên cho một người trẻ tuổi và một bà già.. (tiếng xì xào)... Vì như thế thì.. kinh quá..”. Ông bác sĩ trả lời: “Tôi hiểu lắm”. Vài sĩ quan trong đó có một người đã tán tỉnh bà hồi bà còn trẻ phá lên cười, bà khách muốn được dẫn đến chỗ ông y sĩ trưởng để cho công việc được rõ ràng. Nhưng bà chợt nhận thấy rằng mình không nhớ tên ông này. Nhưng ông bác sĩ cũng kính cẩn và lịch sự chỉ cho bà một cầu thang bằng sắt, chật hẹp , xoáy chôn ốc mời bà lên gác hai. Trong lúc trèo lên bà ta nghe thấy có người nói: “Thực là một quyết định ghê gớm, dù già hay trẻ cũng vậy thôi”. Với cảm giác là mình đương làm nhiệm vụ, bà ta trèo mãi mà không hết cầu thang.
“Giấc mơ đó được thấy lại hai lần nữa cách nhau vài tuần, chỉ có thay đổi chút ít vì chẳng còn quan hệ gì”.
Giấc mơ đó diễn biến như một điều kỳ lạ ban ngày. Giấc mơ ít khi đứt quãng và có nhiều chi tiết có thể hiểu được nếu chịu khó tìm hiểu. Nhưng điều thú vị và quan trọng nhất đối với chúng ta là nó có một vài khe hở không phải ở trong những điều nhớ lại, nhưng ở trong nội dung. Có ba lần nội dung này hình như đã nói hết, lần nào lời nói của bà ta cũng bị ngắt bởi lời xì xào. Vì không hề được phân tích và giải thích nên chúng ta không thể nói gì về ý nghĩa của tiếng xì xào. Dù sao cũng có những sự ám chỉ, ví dụ như những chữ công việc ái tình có thể đưa tới một vài kết luận, hay những mẩu chuyện ngay trước khi bị tiếng xì xào cắt quãng cần được bổ túc. Thu xếp lại chúng ta thấy là muốn làm một công việc yêu nước, bà khách muốn dùng bản thân mình để thoả mãn những nhu cầu tình ái của binh sĩ và sĩ quan. Đó là một ý kinh khủng nhất, một sự phát minh ghê gớm nhất, chỉ có điều là ý đó không được diễn tả trong giấc mơ. Trong những lúc ý tưởng đó được diễn tả thì câu nói được thay bằng một tiếng xì xào không rõ rệt, bị bỏ đi hay xoá đi.
Bạn hẳn biết rằng chính vì quá táo bạo mà những đoạn đó bị bỏ đi. Nhưng ở đâu mình nhìn thấy xảy ra một cách làm việc tương tự như thế? Ngày nay (như bài học của Freud này được giảng khi chiến tranh đang tiếp diễn) chúng ta chẳng cần tìm đâu xa. Cứ việc mở bất cứ tờ báo chính trị nào ra bạn sẽ thấy có những chỗ để trắng cắt ngang bài do lệch kiểm duyệt. Trên khoảng để trắng, tức là có những đoạn không làm vừa lòng những nhà chức trách trông nom về kiểm duyệt. Các bạn sẽ tiếc rẻ, những bài bị đục trắng mới là những bài hay, thú vị nhất.
Ngày xưa người ta thường không kiểm duyệt cả một đoạn như thế. Tác giả, sau khi được báo là đoạn nào đó không làm vừa lòng các nhà kiểm duyệt, thường viết lại cho nhẹ hơn đi, thay đổi chút ít, hay nói lờ mờ ám chỉ đến những điều định viết. Trong tờ báo vẫn có những điểm trắng nhưng đọc những dòng chữ còn lại, những đoạn lơ mơ ám chỉ, người ta cũng có thể đoán ra được những cố gắng của tác giả để thoát khỏi mũi kéo của kiểm duyệt.
Bây giờ chúng ta xem xét sự giống nhau này. Chúng ta cho rằng những đoạn nào bà khách không nói hay bị thay thế bằng những tiếng xì xào là bị kiểm duyệt. Chúng ta nói đến một sự kiểm duyệt nào đó của giấc mơ và sự kiểm duyệt này phải giữ một vai trò trong sự biến dạng của giấc mơ. Mỗi khi nội dung của giấc mơ có khe hở nào thì chính đó là lỗi của kiểm duyệt. Chúng ta có thể đi xa hơn và nói rằng mỗi khi có một đoạn nào trong giấc mơ mà không rõ ràng, lơ mơ trong khi có những đoạn khác rõ ràng thì đúng là chúng ta đã bị kiểm duyệt. Nhưng sự kiểm duyệt không làm một cách quá lộ liễu và ngây thơ như trong giấc mơ của bà khách. Kiểm duyệt làm việc theo lỗi thứ hai, nghĩa là có những cố gắng làm dịu đi, thay đổi đi chút ít nhưng vẫn làm cho người ta nhìn thấy được ý chính.
Giấc mơ còn kiểm duyệt theo một lối thứ ba nữa, nhưng lần này không giống lối kiểm duyệt báo chí. Chúng ta có thể phân tích một giấc mơ đã được nói trên. Chắc các bạn còn nhớ đến giấc mơ trong đó người ta đã bỏ 1.50 fl để mua ba vé hát. Trong ý tiềm tàng của giấc mơ này những yếu tố “mua trước, quá sớm” giữ vai trò quan trọng hàng đầu: lấy chồng sớm quá thực là dại dột, mua vé trước ngày trình diễn cũng là dại dột, cô em chồng vội vã đi mua đồ trang sức như thế quả là lố bịch. Không có một yếu tố nào xuất hiện trong nội dung rõ ràng của giấc mơ. Mọi sự chỉ xoay quanh việc đi xem hát và mua vé thôi. Vì trọng tâm của giấc mơ bị đẩy đi một chỗ khác, vì những yếu tố chính tập trung lại một chỗ nên giấc mơ rõ ràng khác hẳn giấc mơ tiềm tàng đến nỗi người ta không thể dựa vào các giấc mơ rõ ràng mà tìm thấy các giấc mơ tiềm tàng. Chính trọng tâm giấc mơ bị xê dịch như thế nên mới phát sinh ra sự biến dạng của giấc mơ; chính sự biến dạng của giấc mơ này đã làm cho chính những người nằm mơ cũng thấy kỳ lạ không hiểu gì về giấc mơ của mình.
Thiếu sót, thay đổi và tập trung các yếu tố, đó chính là ba kết quả của sự kiểm duyệt và sự biến dạng của giấc mơ. Sự kiểm duyệt là duyên cớ chính hay một trong các duyên cớ chính của sự biến dạng trong giấc mơ của bà khách. Còn sự thay đổi và tập trung, chúng ta quen gọi là sự xê dịch trọng tâm.
Sau sự kiểm duyệt, chúng ta nói đến sự sống động trong giấc mơ. Các bạn đừng tưởng tượng kẻ kiểm duyệt như một người nghiêm nghị hay một vị thần trong bộ óc để làm việc; về chữ sống động cũng vậy, đừng cho rằng đó là do một trung tâm đặt trong bộ óc mà ảnh hưởng có thể bị một sự cắt bỏ hay một vết thương nào huỷ đi. Chỉ nên nhìn thấy ở chữ đó một phương tiện liên lạc có tính sinh động. Điều đó không ngăn chúng ta tự hỏi xem sự kiểm duyệt này sẽ hoạt động đối với những khuynh hướng và do những khuynh hướng nào; chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu thấy rằng trước đây, chúng ta đã gặp sự kiểm duyệt các giấc mơ rồi mà không biết đó là cái gì.
Đó là điều đã thực sự xảy ra. Các bạn hãy nhớ lại sự nhận xét ly kỳ của chúng ta khi bắt đầu áp dụng kỹ thuật của chúng ta về sự tự do liên tưởng. Lúc đó chúng ta cảm thấy có một sự gì chống đối lại khi chúng ta cố gắng đi từ yếu tố của giấc mơ sang yếu tố vô thức mà nó đến thay thế. Sự chống đối này đúng như chúng ta đã nói, có thể thay đổi cường độ, khi thì độ mạnh vô cùng, khi chả có nghĩa lý gì. Khi sự chống đối yếu, chúng ta có rất ít công việc phải làm, nhưng khi cường độ mạnh chúng phải đi theo một dãy dài các sự liên tưởng làm cho ta càng ngày càng xa yếu tố của giấc mơ, trong khi phải đối phó với biết bao nhiêu khó khăn xuất hiện dưới hình thức của những ý tưởng bài bác phê bình chống đối lại những ý tưởng đột nhiên xuất hiện có dính dáng đến giấc mơ. Sự chống đối này chỉ là hậu quả cuả sự kiểm duyệt trong giấc mơ nên chúng ta cũng phải khảo sát cẩn thận. Chúng ta thấy ngay rằng nhiệm vụ của sự kiểm duyệt không phải là chỉ gây ra sự biến dạng trong giấc mơ mà còn liên tục giữ cho sự biến dạng đó được tồn tại. Cũng như sự chống đối luôn luôn thay đổi cường độ tuỳ theo yếu tố trong giấc mơ, sự biến dạng cũng thay đổi theo từng yếu tố. Nếu so sánh giấc mơ rõ ràng và giấc mơ tiềm tàng ta sẽ thấy có nhiều yếu tố khác lại bị thay đổi quan trọng nhiều hay ít, nhiều yếu tố khác lại du nhập luôn vào nội dung rõ ràng mà chẳng thay đổi gì cả, có khi còn mạnh lên.
Nhưng chúng ta muốn biết sự kiểm duyệt đã hoạt động bằng cách dựa vào những khuynh hướng nào và chống lại khuynh hướng nào? Để trả lời câu hỏi vô cùng quan trọng này không những đối với sự tìm hiểu các giấc mơ mà còn đối với cả đời người nữa, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy giải pháp nếu duyệt lại những giấc mơ đã được đem giải thích từ trước tới nay. Những khuynh hướng mà kiểm duyệt dùng là những khuynh hướng mà người nằm mơ trong lúc còn thức cho là của riêng mình, hợp ý mình. Các bạn có thể chắc chắn rằng khi bạn từ chối không công nhận sự giải thích đúng đắn về giấc mơ của bạn, những lý do của sự từ chối này và những lý do làm cho sự kiểm duyệt hoạt động làm cho giấc mơ biến dạng cũng như nhau. Các bạn hãy nghĩ đến giấc mơ của người đàn bà 50 tuổi nói trên. Mặc dù không biết giải thích giấc mơ của mình, bà ta cũng thấy là giấc mơ kinh khủng quá, nhưng bà ta sẽ còn buồn hơn nếu bà bác sĩ V. Hug nói cho bà ta biết những dữ kiện thu lượm được trong sự giải thích giấc mơ của bà. Những đoạn nào tục tĩu trong giấc mơ thường được thay thế bằng tiếng xì xào, sự việc đó chẳng đã chứng tỏ rằng chính người nằm mơ cũng kết án những hành vi đó sao?
Nhưng khi chúng ta muốn khảo cứu những khuynh hướng chịu kiểm duyệt, ta phải để ý đến sự kiểm duyệt như là một sự cần thiết cấp bách. Những khuynh hướng đó là những khuynh hướng đáng chê cười, tục tĩu về phương diện lý luận, mỹ thuật và xã hội,, những điều mà người ta không dám nghĩ đến hay nghĩ đến để mà kinh tởm. Những sự ham muốn bị kiểm duyệt và bị biến dạng trong giấc mơ đó chỉ là biểu lộ một tấm lòng ích kỷ vô bờ bến và vô liêm sỉ. Vả lại, không có giấc mơ nào trong đó cái tôi của người nằm mơ lại không giữ vai trò chính, dù rằng cái tôi đó đã lẩn trốn rất khéo léo trong nội dung rõ ràng. Lòng ích kỷ vô biên này chắc chắn có liên quan chặt chẽ với lòng ham muốn giấc ngủ làm cho chúng ta thoát khỏi được ảnh hưởng của đời sống hàng ngày.
Cái tôi trong giấc mơ đã rũ bỏ được hết sự ràng buộc về luân lí, thoả mãn mọi sự đòi hỏi của bản năng tình dục, của bản năng luôn bị giáo dục về nghệ thuật của chúng ta cấm đoán, những bản năng chống lại sự kìm kẹp của luân lí. Sự tìm kiếm khoái lạc (mà chúng ta gọi là libido) chọn đối tượng mà không gặp sức chống đối, và thường chọn được những quả cấm; nó không những chọn vợ người khác mà chọn cả những điều mà nhân loại thường gán cho những tính cách thiêng liêng: người đàn ông chọn mẹ mình hay chị em mình, người đàn bà chọn cha hay em mình (giấc mơ của người đàn bà 50 tuổi trên đây có tính cách loạn luân vì bà ta chọn chính con trai mình). Những sự ham muốn mà chúng ta tưởng chừng không có liên quan đến loài người đã tỏ ra đủ mạnh mẽ để tạo nên những giấc mơ. Lòng thù hận tha hồ tung hoành. Những ý muốn báo thù, mong cho những người mình yêu nhất trên đời chết đi, người cha người mẹ, anh chị em, chồng vợ, con cái, không phải là ít trong các giấc mơ. Trước những kết quả thu lượm được như thế, có người sẽ bảo là những kết quả đó không thể có được, vô nghĩa lý, không thể tin được vì những giả thuyết phát sinh ra chúng chỉ là sai lầm. Hoặc giấc mơ không phải là hiện tượng tinh thần, hoặc trong trạng thái bình thường không có gì là vô thức cả, hoặc kỹ thuật của giáo sư có sơ hở chỗ nào. Những cách kết luận đó quả là giản đơn dễ hiểu hơn tất cả những điều kinh khủng do những giả thuyết kinh hoàng mà giáo sư đưa ra.
Tất nhiên những kết luận đó là đơn giản và làm hài lòng mọi người hơn thực nhưng không đúng.
Các bạn hãy kiên tâm: vấn đề chưa chín muồi để có thể đem ra thảo luận. Trước khi đi vào vấn đề đó , chúng ta chả còn cách nào hơn là làm cho những lời chỉ trích phê bình cách giải thích giấc mơ của chúng ta trở lên mạnh mẽ hơn. Những kết quả thu lượm được không làm cho mọi người khoan khoái, thích nói mấy, đó không phải là quan trọng. Nhưng có một lý lẽ vững chắc hơn: khi chúng ta cho người nằm mơ biết họ có những ham muốn và khuynh hướng gì đã tìm ra được trong khi giải thích các giấc mơ thì bao giờ họ cũng phản đối kịch liệt và đưa ra những lý lẽ vững chắc. Có người hỏi: “Thế nào? Ông bảo rằng tôi đã hối tiếc khi bỏ tiền ra để làm của hồi môn cho em gái tôi và nuôi dạy em trai tôi sao? Điều đó làm sao có được vì tôi làm việc là chỉ cốt phụng sự gia đình, trong đời tôi không còn bổn phận nào khác hơn là làm tròn phận sự đó đúng như lời tôi hứa với mẹ tôi trước lúc bà lâm chung”. Người khác nói: “Ông cho là tôi mong cho chồng tôi chết sao? Thực vô nghĩa lý và đáng phẫn nộ. Tôi nói thì ông không tin, nhưng thực sự là chúng tôi rất hoà thuận và nếu chồng tôi mất đi thì tôi mất hết đi những gì tôi có trên trái đất này”. Một người khác nói: “Ông cho là tôi ham muốn nhục dục đối với em gái tôi sao? Thực là lố bịch. Hai anh em tôi giận nhau từ lâu và mấy năm nay chúng tôi không hề nói chuyện với nhau”. Nhưng người này nếu chỉ từ chối không xác nhận hoặc phủ nhận những khuynh hướng mà chúng ta gán cho họ thì cũng được đi , vì có thể là họ không biết đến điều đó. Nhưng điều bực mình là họ có những ham muốn trái hẳn với những điều chúng ta gán cho họ, và có thể chứng minh được rằng những lòng ham muốn đó mới chính là điều họ ấp ủ trong tâm hồn. Có lẽ là chúng ta nên bỏ rơi cái lối giải thích này đi thôi, vì nó đưa chúng ta đến ngõ cụt.
Chưa đâu, bởi lẽ những lý lẽ này tuy bề ngoài có vẻ như vững chắc nhưng thực tế ra không thể vững chắc trước những lý luận của chúng ta. Giả dụ rằng trong đời sống tinh thần quả có những khuynh hướng vô thức, chúng ta có bằng chứng gì tỏ ra rằng trong đời sống hữu thức cũng có những khuynh hướng trái lại? Có lẽ trong đời sống tinh thần có những khuynh hướng trái ngược tồn tại cạnh nhau. Có thể rằng một khuynh hướng quá mạnh sẽ lấn át khuynh hướng kia và dồn khuynh hướng này vào trong vô thức. Nhưng còn lý lẽ cho rằng kết quả của sự giải thích giấc mơ không đơn giản mà cũng chẳng dễ chịu. Trước hết không phải sự đơn giản sẽ giúp các bạn giải được những vấn đề có liên quan đến giấc mơ vì vấn đề nào cũng đều gặp khó khăn phức tạp ngay từ buổi đầu. Còn bảo rằng những kết quả này thực chẳng đáng mong muốn tí nào thì các bạn đã lầm khi cho rằng trong phương diện khoa học chúng ta mong hay không mong kết quả này hay kết quả nọ. Những kết quả thu lượm được, các bạn cho rằng chúng không làm cho các bạn dễ chịu mà còn làm cho các bạn xấu hổ kinh tởm nữa thì điều đó có quan hệ gì? Tôi nhớ lại lời nói của một vị giáo sư thầy học của tôi, ông Charcot, trong khi tôi còn là một thầy thuốc trẻ tuổi và đi theo ông trong lúc khám bệnh: “Điều đó không ngăn việc chúng có thực”. Nếu muốn hiểu rõ những sự thực trong cuộc đời, chúng ta nên bỏ ra một bên những cảm tình hay sự ghen ghét. Nếu bây giờ có nhà khoa học nào chứng minh rằng ngày tận thế gần kề, bạn có bảo ông ta rằng: “Tôi không tin như thế vì như thế thì thê thảm cho tôi quá” không? Tôi cho rằng trong trường hợp đó bạn sẽ im lặng cho tới khi một nhà khoa học khác chứng minh rằng những điều khẳng định trên không dựa vào những bằng chứng xác thực. Bỏ ngoài tai những cái gì làm cho bạn khó chịu, bạn đã làm đúng như giấc mơ đã làm chứ không phải tìm cách tìm hiểu và chế ngự nó.
Có lẽ bạn sẽ thôi không nói đến tính cách kinh tởm của những ham muốn bị kiểm duyệt trong giấc mơ để bấu víu vào lý lẽ cho rằng, chúng ta không thể nào tin rằng con người lại có thể xấu xa như thế được. Nhưng chính kinh nghiệm bản thân của các bạn có cho phép bạn dùng lý luận đó không? Tôi không nói đến ý kiến của bạn đối với chính bạn; nhưng có quả thực là cấp trên và những người cạnh tranh quyền lợi với các bạn đối với các bạn có nghĩ rằng bạn là người tốt đến thế không? Những kẻ thù của các bạn có cảm tình với các bạn nhiều như các bạn tưởng không? Vậy tại sao bạn lại phản đối dữ dội khi chúng ta nói đến các tính ích kỷ vô biên của loài người. Các bạn há không biết rằng phần lớn nhân loại đều không thể chế ngự được bản năng tình dục của mình sao? Các bạn không biết rằng những sự quá đáng, những sự dâm bôn mà chúng ta mơ màng ban đêm thường xảy ra hàng ngày, có khi đưa đến chỗ phạm tội, đối với những người thức hẳn hoi sao? Môn phân tâm học phải chăng chẳng làm gì khác hơn là khẳng định câu cách ngôn của Platon cho rằng những người tốt chỉ là những người làm trong giấc mơ những điều mà các người xấu xa thường làm trong lúc thức sao?
Và bây giờ thôi không nghĩ đến cá nhân nữa, các bạn hãy nghĩ đến trận Đại chiến thế giới vừa tràn ngập nhân loại, nghĩ đến tất cả những vấn đề gì độc ác, dã man, những sự dối trá lan tràn trong thế giới văn minh. Các bạn có tin rằng chỉ một nhóm người có tham vọng cũng đủ làm cho những sự độc ác dã man đó lan tràn mà không cần đến sự đồng loã của hàng triệu người bị lôi kéo hay không? Trước những sự kiện đó các bạn có còn can đảm bênh vực loài người nữa không?
Các bạn cho rằng ý kiến của tôi về chiến tranh chỉ có một chiều rằng chiến tranh đã đưa ra ánh sáng những cái gì cao đẹp nhất của loài người: nào chí khí anh hùng, lòng hy sinh, ý thức xã hội v.v.v.. Cũng được đi, nhưng bạn có thấy mình bất công khi lên án môn phân tâm học vì cho rằng môn này đã phủ nhận một vài điều trong khi khẳng định một vài điều khác không? Chúng tôi không hề có ý phủ nhận những tình cảm cao đẹp của loài người, không hề làm gì giảm giá trị cao đẹp đó. Trái lại, tôi nói cho các bạn nghe không những về những sự ham muốn xấu xa bị kiểm duyệt trong các giấc mơ mà còn cả đến những sự kiểm duyệt kiềm chế những ham muốn đó làm cho ta không nhận ra chúng nữa. Nếu chúng ta nói đến những sự xấu xa của loài người là chỉ vì có những người phủ nhận chúng, và điều phủ nhận này không hề làm cho nó trở lên khó hiểu hơn thôi. Chính vì không muốn lý luận một chiều mà chúng ta có hy vọng tìm lại được công thức diễn tả thực đúng những liên quan giữa điều tốt và điều xấu trong loài người.
Thôi ta hãy tạm dừng lại ở đây. Mặc dù cho rằng những kết quả thu lượm được trong công việc giải thích giấc mơ có vẻ kỳ khôi chăng nữa nhưng cũng không phải vì thế mà ta có quyền bỏ rơi chúng không xét đến nữa. Có lẽ sau này chúng ta sẽ tiến gần đến kết quả hơn bằng cách theo một con đường khác chăng? Trong lúc này ta hãy tạm chấp nhận điều này: sự biến dạng trong giấc mơ chỉ là kết quả của sự kiểm duyệt mà cái tôi của chúng ta làm đối với những khuynh hướng hay ham muốn thường xuất hiện ban đêm trong giấc ngủ. Tại sao những điều này lại xuất hiện vào ban đêm? Chúng từ đâu tới nhỉ? Đó là câu hỏi đang chờ đợi.
Nhưng chúng ta sẽ tỏ ra bất công khi không đưa ra một kết quả khác nữa. Những ham muốn hiện ra trong giấc mơ, làm cho giấc ngủ không yên, chúng ta không hề biết đến trước , nhưng chỉ biết đến sau khi đã giải thích giấc mơ. Vậy chúng ta có thể tạm gọi chúng là vô thức theo nghĩa gọi thông thường của chữ này. Nhưng chúng còn có gì hơn là tính cách tạm thời vô thức này. Thường thường người nằm mơ phủ nhận chúng dù rằng sự giải thích đã chứng tỏ rõ ràng sự có mặt của chúng. Ở đây, chúng ta cũng gặp một tình trạng tương tự như trong trường hợp anh chàng nhất định không chịu nhận là mình có điều gì bất kính với ông chủ mình. Lúc đó chúng ta đã nghi ngờ lời nói của anh ta và cho rằng có thể anh không biết đến điều đó. Mỗi khi giải thích một giấc mơ bị biến dạng rất nhiều, chúng ta thường lại gặp lại tình trạng đó và điều đó chỉ tăng phần quan trọng cho quan điểm của chúng ta thôi. Vì thế, nên chúng ta chấp nhận rằng trong đời sống tinh thần có những gì tiềm tàng mà chúng ta không hề biết đến và có lẽ không bao giờ biết đến. Nếu như thế thì sự vô thức phải có thêm một nghĩa khác: đặc tính cơ bản của nó không còn là nhất thời hay hợp thời mà là thường trực. Tất nhiên chúng ta sẽ quay trở lại vấn đề này với nhiều chi tiết hơn trong những dòng sau.
10. Tính cách tượng trưng trong giấc mơ
Chúng ta đã thấy sự biến dạng ngăn cản không cho chúng ta hiểu được giấc mơ chính là kết quả của sự kiểm duyệt đối với những ham muốn vô thức, hay không thể chấp nhận được. Nhưng chúng ta không khẳng định rằng sự kiểm duyệt là yếu tố duy nhất phát sinh ra sự biến dạng này và ngoài sự kiểm duyệt ra còn có những yếu tố khác. Điều này đúng đến nỗi dù cho sự kiểm duyệt có bị gạt bỏ hoàn toàn đi chăng nữa thì không phải vì như thế mà chúng ta sẽ dễ dàng hiểu giấc mơ hơn, và giấc mơ rõ ràng không phải vì thế mà trùng hợp với giấc mơ tiềm tàng.
Chúng ta đã tìm ra được những yếu tố khác này nhờ có một lỗ hổng trong kỹ thuật của chúng ta. Tôi đã đồng ý với các bạn là ở một vài giấc mơ đã được phân tích có khi những yếu tố đặc biệt của giấc mơ không gợi cho người nằm mơ một ý tưởng gì cả. Tất nhiên sự kiện này ít xảy ra hơn người ta thường khẳng định và trong nhiều trường hợp nhờ sự kiên nhẫn người ta đã làm cho nhiều ý kiến phải xuất hiện. Nhưng vẫn có nhiều trường hợp người ta không tìm thấy có sự liên tưởng và khi gợi ra sự liên tưởng thì kết quả mong đợi lại không có gì cả. Khi sự việc này xảy ra trong một lần trị bệnh bằng phân tâm học nó trở nên quan trọng đặc biệt, nhưng ở đây chúng ta chưa nói đến tầm quan trọng này vội. Sự kiện đó xảy ra khi chúng ta giải thích những giấc mơ của chính chúng ta hay của những người bình thường khác. Trong trường hợp này, sau khi thấy rõ ràng dù có kiên nhẫn hơn cũng chẳng đi đến đâu, chúng ta lại tìm ra rằng sự kiện mà chúng ta không muốn đó lại xuất hiện điều hoà đối với một vài yếu tố nhất định trong giấc mơ, và đó không phải là sự bất thường mà là những sự việc phụ thuộc vào một luật định.
Đứng trước những sự kiện này chúng ta muốn tự mình giải thích những yếu tố thầm lặng của giấc mơ, dùng những phương tiện riêng của mình để tìm hiểu. Mỗi khi giải thích như thế thì người ta có cảm tưởng đạt được một vài kết quả mỹ mãn, còn nếu không làm như thế thì giấc mơ sẽ chẳng có nghĩa gì. Khi áp dụng phương pháp này càng ngày càng nhiều vào nhiều trường hợp hơn, chúng ta sẽ đi đến nhiều kết quả chắc chắn hơn.
Sự trình bày của tôi có vẻ như sơ sài nhưng sự sơ sài này thường được dùng trong ngành giáo dục để đơn giản hoá vấn đề.
Làm như vừa nói, chúng ta có thể giải thích các giấc mơ một cách thoả đáng giống như những cuốn sách đoán mộng rất thịnh hành trong dân gian. Tôi tin rằng các bạn chưa quên việc chúng ta chưa hề đạt được kết quả cụ thể nào trong việc tìm hiểu những yếu tố bất biến trong giấc mơ bằng kỹ thuật liên tưởng.
Các bạn sẽ cho rằng phương pháp này có vẻ không chắc chắn, có nhiều điều đáng bài bác hơn là phương pháp dành cho những ý tưởng được tự do xuất hiện. Nhưng đến đây ta thấy có thêm một chi tiết khác. Sau khi tập hợp được nhiều sự giải thích những yếu tố bất biến trong giấc mơ như thế bằng các cuộc thí nghiệm liên tục, đột nhiên ta thấy chúng ta có thể đạt được những kết quả giống như thế bằng cách chỉ dựa trên những điều mình biết và không cần dùng đến những điều mà người nằm mơ đã nhớ lại, chúng ta cũng có thể hiểu chúng được. Do đâu mà chúng ta biết được như thế?
Chúng ta gọi sự liên quan giữa yếu tố của giấc mơ và sự giải thích nó bằng cái tên là liên quan tượng trưng vì yếu tố này chỉ tượng trưng cho một ý tưởng vô thức trong giấc mơ. Trước đây, khi xét đến các liên quan giữa những yếu tố của giấc mơ và bản thể của chúng, tôi đã trình bày rằng yếu tố này chẳng khác gì một phần đối với toàn thể, rằng ý tưởng đó cũng có thể là một sự ám chỉ đến bản thể hay là một sự biểu thị của bản thể. Ngoài ba loại liên quan như thế còn một loại liên quan thứ tư nữa. Đó là liên quan tượng trưng. Trước khi trình bày những nhận xét tượng trưng này chúng ta hãy nói đến những vấn đề đã được đem tranh luận thú vị quanh vấn đề đó. Tính cách tượng trưng sẽ là vấn đề đáng chú ý nhất trong thuyết về giấc mơ.
Ta nên nói ngay rằng trong một vài phương diện những ký hiệu tượng trưng đã thực hiện được lý tưởng cũ kỹ của quần chúng trong việc giải thích giấc mơ và kỹ thuật của chúng ta đã đưa chúng ta đi rất xa lý tưởng đó.
Những ký hiệu tượng trưng này giúp cho ta, là trong một vài trường hợp, giải thích giấc mơ mà không cần hỏi gì người nằm mơ cả, vả lại chính người này cũng chẳng thêm được gì vào trong ký hiệu đó. Khi biết được những ký hiệu tượng trưng thường dùng này, biết rõ cá tính, và đời sống của người nằm mơ và những tình cảm phát sinh ra giấc mơ, chúng ta cũng có thể giải thích giấc mơ chẳng khó khăn gì như mở một cuốn sách ra xem. Một công trình tuyệt diệu như vậy quả thật là một khích lệ lớn lao cho người giải thích và cũng như cho người nằm mơ, tránh cho người ta việc khó chịu là phải hỏi han lôi thôi người nằm mơ. Nhưng bạn đừng cho rằng công việc đó dễ dàng. Chúng ta phải đạt được cái công trình tuyệt diệu này. Kỹ thuật đặt căn bản trên sự tượng trưng không thể thay thế kỹ thuật dựa trên căn bản của sự liên tưởng và không thể so sánh với nó được. Trái lại, kỹ thuật này chỉ bổ túc kỹ thuật trước và hiến cho nó những dữ kiện dùng được. Về việc hiểu rõ tình trạng tinh thần của người nằm mơ, các bạn nên biết rằng những giấc mơ mình phải giải thích không phải là của những người mà các bạn biết rõ, thường thường bạn không được biết những sự việc gì trong ngày đã phát sinh ra giấc mơ, các bạn chỉ biết về đời sống tinh thần của người nằm mơ qua những ý tưởng và những điều nhớ lại của người nằm mơ thôi.
Thực là một điều lạ lùng khi thấy quan niệm về tính cách tượng trưng của giấc mơ liên quan giữa giấc mơ và sự vô thức lại gặp những sự chống đối rất ghê gớm. Ngay cả những người biết suy nghĩ và hiểu biết không có điều gì để bài bác môn phân tâm học cũng không chịu đi theo con đường đó. Thái độ này càng tỏ ra kỳ lạ khi tính cách tượng trưng đâu có phải là một đặc tính riêng của giấc mơ mới có và sự tìm ra tính cách không phải là công trình của môn phân tâm học, trong khi chính môn này cũng đã tìm ra được nhiều điều khác nổi tiếng hơn. Cha đẻ của tính cách tượng trưng trong các giấc mơ chính là nhà triết học K.A. Scherner (1861). Môn phân tâm học khẳng định ý kiến của Scherner và cũng làm cho ý kiến này bị thay đổi sâu rộng.
Và bây giờ các bạn muốn biết một vài điều về tính cách tượng trưng, biết một vài trường hợp. Tôi sẵn sàng hiến các bạn điều đó nhưng cũng cần nói trước rằng chúng ta chưa hiểu được hoàn toàn hiện tượng này như ý muốn.
Đặc tính của sự tượng trưng nằm trong một sự so sánh. Nhưng một so sánh thôi không đủ. Chắc cũng còn phải có một vài điều kiện nào khác nữa nhưng những điều kiện nào thì hiện nay chúng ta chưa biết. Những cái gì có thể so sánh được với một vật gì hay một sự diễn biến nào trong giấc mơ lại không tượng trưng cho vật đó hay sự diễn biến đó. Ngoài ra, giấc mơ lại chỉ chọn để tượng trưng cho mình một vài yếu tố nằm trong các ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ thôi. Vì thế tính cách tượng trưng bị giới hạn ở mọi mặt. Khái niệm về sự tượng trưng cũng chưa được rõ ràng, khái niệm này thường hay bị lầm lẫn với khái niệm về sự thay thế , biểu diễn, có khi lại tiến gần đến sự ám chỉ nữa. Trong nhiều sự tượng trưng, sự so sánh rõ ràng được dùng làm nền tảng. Nhưng trong nhiều trường hợp, chúng ta lại tự hỏi nền móng của sự so sánh đó nằm ở chỗ nào? Sự suy nghĩ kỹ may ra chúng ta tìm được chăng? Vả lại nếu sự tượng trưng là một sự so sánh thì thực là một sự lạ khi sự liên tưởng lại không giúp ta tìm ra sự so sánh đó, khi chính người nằm mơ cũng không biết nó nằm ở đâu, tuy có dùng đến nó nhưng chẳng biết mô tê gì cả. Điều đặc biệt là ngay cả khi người ta chỉ cho người nằm mơ rõ sự so sánh đó, anh ta cũng chẳng chịu công nhận. Các bạn hẳn đã thấy là liên quan tượng trưng là một sự so sánh thuộc loại đặc biệt mà chúng ta không biết gì hết. Có thể là sau này chúng ta sẽ được biết một vài điều chăng.
Những đối tượng được hình dung tượng trưng trong giấc mơ rất ít. Đó là thân thể người ta, anh em, bè bạn, cha con, sự sinh, sự tử, sự trần truồng hay một vài sự gì nữa. Chính căn nhà là sự biểu thị duy nhất điển hình, nghĩa là điều hoà trong con người. Sự kiện này đã được Scherner công nhận là có tầm quan trọng hàng đầu nhưng chúng ta cho rằng ông đã lầm. Nhiều khi trong giấc mơ, mình thường thấy mình tụt từ trên cao xuống ở đằng trước mặt nhà và có cảm giác khi thì sung sướng khi thì lo âu. Những căn nhà có những bức tường trơn tuột nhẵn nhụi là hình dung cho những người đàn ông còn những căn nhà sần sùi, có bao lơn khiến cho người ta có chỗ bấu víu thường hình dung cho đàn bà. Cha mẹ thường tượng trưng cho đức vua và hoàng hậu hay những nhân vật quan trọng: chính vì thế mà những giấc mơ trong đó có hình cha mẹ thường diễn ra trong bầu không khí hiếu thảo. Những giấc mơ, trong đó những người anh em, chị em hay những đứa bé con thường được tượng trưng bằng những con vật nhỏ, những con rệp bớt âu yếm hơn. Sự sinh đẻ gần như bao giờ cũng được hình dung bằng những động tác trong đó bao giờ nước cũng là yếu tố chính người ta nằm mơ thấy mình đang ngã xuống sông hay từ dưới nước đi lên, cứu một người ở dưới nước đưa lên hay được người ta cứu, nghĩa là giữa người này và người nằm mơ có cả những dây liên lạc về tình mẫu tử. Sự sắp chết đến nơi được hình dung bằng một cuộc đời ra đi, một chuyến du hành bằng xe lửa, cái chết được hình dung bằng một vài điểm xấu, ghê sợ. Sự trần truồng được tượng trưng bằng quần áo, những bộ đồng phục. Các bạn thấy là chúng ta ở giữa hai loại biểu thị: một đằng là sự tượng trưng một đằng là những sự ám chỉ.
Trong nhiều sự tượng trưng, sự so sánh rõ ràng được dùng làm nền tảng. Nhưng trong nhiều trường hợp chúng ta lại tự hỏi nền móng của sự so sánh đó nằm ở chỗ nào? Sự suy nghĩ kỹ may ra chúng ta tìm được chăng. Vả lại nếu sự tượng trưng là một sự so sánh thì thực là một sự lạ khi sự liên tưởng lại không giúp ta tìm ra sự so sánh đó, khi chính người nằm mơ cũng không biết nó nằm ở đâu, tuy có dùng đến nó mà chẳng biết mô tê gì cả. Điều đặc biệt là ngay cả khi người ta chỉ cho người người nằm mơ rõ sự so sánh đó, anh ta cũng chẳng chịu công nhận. Các bạn hẳn đã thấy là liên quan tượng trưng là một sự so sánh thuộc loại đặc biệt mà chúng ta không biết gì hết. Có thể là sau này chúng ta sẽ biết được một vài điều chăng.
Ra khỏi sự liệt kê ngắn ngủi kể trên, chúng ta bước vào một môi trường trong đó những đối tượng và nội dung được hình dung bằng một sự tượng trưng dồi dào, có thiên hình vạn trạng. Đó là môi trường của đời sống tình dục, của cơ quan sinh dục, của những hành vi giao cấu. Phần lớn những ký hiệu tượng trưng trong giấc mơ là những ký hiệu tình dục. Nhưng ở đây chúng ta đứng trước một sự khác biệt kỳ lạ. Trong khi nội dung thì rất ít, những ký hiệu để chỉ những nội dung đó thì rất nhiều, thành ra mỗi đối tượng đều được tượng trưng bằng rất nhiều ký hiệu mà ký hiệu nào cũng có giá trị như nhau. Nhưng trong khi giải thích, người ta thường gặp những sự ngạc nhiên khó chịu. Trái với những hoạt động của các giấc mơ thường có thiên hình vạn trạng, sự giải thích các ký hiệu tượng trưng đều chán nản không thể tả. Đó là sự kiện làm mọi người bực mình nhưnng làm sao được bây giờ?
Vì đây là lần đầu tiên chúng ta nói đến nội dung của đời sống tình dục, tôi phải nói cho bạn nghe rõ tôi muốn nói đến vấn đề đó theo cách nào. Môn phân tâm học không có lý do gì để nói một cách úp mở, hay chỉ nói đến bằng những sự ám chỉ. Môn này không xấu hổ khi xét vấn đề quan trọng đó, thấy rằng việc gọi sự việc bằng chính tên của chúng là phương sách hay nhất để tránh những ý tưởng xấu xa. Việc có mặt trong cử toạ đại diện của cả hai phái nam nữ cũng chẳng thay đổi gì. Nếu chúng ta không có một khoa học dành riêng cho các ông hoàng bà chúa thì chúng ta cũng không có khoa học nào dành riêng cho các cô gái ngây thơ và các bà hiện diện trong những buổi học này, chứng tỏ rằng họ muốn được đối xử ngang hàng với các ông, ít nhất là cũng về phương diện khoa học.
Vậy giấc mơ về cơ quan sinh dục của đàn ông có nhiều sự biểu thị có tính cách tượng trưng trong khi đó cái gì có tính cách chung dùng để so sánh thường hiện ra rõ ràng. Cơ quan này thường được tượng trưng bằng con số 3. Phần chính trong cơ quan sinh dục này, cái dương vật thường được cả hai phái nam nữ chú ý đến một cách thích thú, được tượng trưng bằng những đồ vật có hình thức giống như nó: cái gậy, cái ô, thân cây, cây cối.. , rồi đến những đồ vật có thể đi sâu vào một vật nào khác gây ra trong đó những vết thương: khí giới nhọn đủ loại: như dao, dao găm, lưỡi dao, gươm giáo, hay súng, nhất là súng lục rất giống cái dương vật nhất. Trong những cơn ác mộng của các cô gái, họ thường nằm mơ người đàn ông cầm dao hoặc là súng lục đuổi theo. Có thể đó là trường hợp hay xảy ra nhất về tính cách tượng trưng của các giấc mơ, và giải thích những giấc mơ đó chẳng có gì là khó. Sự hình dung dương vật bằng những đồ vật phun ra một thứ nước cũng dễ hiểu chẳng kém: vòi nước, bình nước, suối nước vọt ra ngoài, hay bằng những đồ vật có kéo dài ra như những cái đèn, cái bút chì... rồi những cái bút, những cái giũa móng tay, những cái búa cũng đều được dùng tượng trưng cho dương vật, điều này cũng chẳng có gì khó hiểu.
Việc dương vật có thể cương cứng lên được, không chịu ảnh hưởng của trọng lực được tượng trưng bằng những trái banh khinh khí, những máy bay, những khinh khí cầu Zeppenlin. Những giấc mơ cũng dùng một phương sách đầy ý nghĩa để tượng trưng cho sự cương cứng của dương vật. Giấc mơ cho dương vật như cái gì cần thiết nhất trong con người và làm cho con người bay được lên cao. Các bạn đừng ngạc nhiên nếu tôi nói rằng những giấc mơ mà ai cũng biết, những giấc mơ thực đẹp đẽ trong đó sự bay lên đóng một vai trò vô cùng quan trọng, phải được giải thích như do sự khuynh hướng của cơ quan sinh dục, hiện tượng của sự cương cứng dương vật. Trong số những nhà phân tâm học có P. Federn đã dựa vào những bằng chứng không thể phủ nhận được để chứng minh điều đó, và ngay cả một nhà thí nghiệm danh tiếng không liên can gì đến phân tâm học cũng đi đến kết luận tương tự bằng cách đặt chân tay người chủ theo một chiều hướng đặc biệt để gây ra những giấc mơ (ông Maury Vold). Các bạn sẽ cãi lại rằng chính những người đàn bà cũng nằm mơ thấy mình bay lên. Các bạn hãy nhớ lại rằng giấc mơ thường được mô tả lại sự thực hiện những điều mà mình muốn làm trong ngày và không thiếu gì đàn bà muốn trở thành đàn ông dù lòng ham muốn này có ý thức hay không. Những bạn nào đã được học môn giải phẫu học sẽ không ngạc nhiên khi thấy người đàn bà cũng muốn thực hiện lòng dục của mình bằng những cảm giác chẳng khác gì cảm giác của đàn ông. Trong cơ quan sinh dục của đàn bà cũng có một cơ quan cũng cương cứng được lên như dương vật và trong thời thơ ấu cũng như trong tuổi dậy thì trước khi giao hợp cũng giữ vai trò chẳng khác gì dương vật.
Trong những ký hiệu tượng trưng cho dương vật khó hiểu hơn chúng ta thấy có những loại bò sát và loài cá, nhất là con rắn. Tại sao cái mũ và cái áo tơi cũng dùng trong công việc tượng trưng đó? Thực không thể dễ đoán chút nào nhưng quả là sự tượng trưng đó phải có ý nghĩa. Ngoài ra người ta tự hỏi việc dùng chân tay thay thế cho dương vật có ý nghĩa tượng trưng nào không? Tôi tin rằng khi xét toàn thể giấc mơ, xét đến những cơ quan sinh dục của người đàn bà, chúng ta phải nhận thức ý nghĩa đó.
Cơ quan sinh dục của người đàn bà được tượng trưng bằng những vật gì giống như một cái lỗ có khả năng chứa được một vật khác như: mỏ, hố, hốc đá, chai lọ, hộp, rương, túi.. Tàu thuỷ cũng thế. Một vài ký hiệu khác như: lò, tủ, phòng tượng trưng cho tử cung hơn là cho cơ quan chính thức. Ký hiệu phòng cũng gắn liền với các nhà , cửa, cổng tượng trưng cho cửa mình. Một vài vật khác cũng có ý nghĩa tượng trưng như gỗ, giấy, bàn, sách vở. Về loài vật thì những con sên, con sò cũng tượng trưng cho cơ quan sinh dục của phụ nữ. Cũng tượng trưng cho cơ quan này là cái mồm, những toà nhà, hay những nhà thờ, nhà nguyện. Các bạn hẳn đã thấy rằng không phải là những sự tượng trưng nào cũng đều dễ hiểu cả.
Đôi vú cũng phải được coi như cơ quan tình dục, cũng như một vài cơ quan khác trong người đàn bà được tượng trưng bằng những trái đào, trái táo, hoa quả. Lông ở bộ phận sinh dục đàn ông cũng như đàn bà được tượng trưng bằng những khu rừng rậm, bụi rậm. Cách cấu tạo phức tạp của cơ quan tình dục đàn bà thường được tượng trưng bằng một phong cảnh có đủ tảng đá, khu rừng, mây nước. Cơ quan của đàn ông được tượng trưng bằng đủ các thứ máy móc khó tả.
Một sự tượng trưng khác cho cơ quan tình dục của đàn bà là những hộp đồ nữ trang cũng như kho tàng thường tượng trưng cho những sự vuốt ve của người đàn ông đối với người mình yêu; những đồ ngọt như kẹo bánh tượng trưng cho sự thoả mãn tình dục. Sự thoả mãn dục tình mà không cần đến người khác phái được tượng trưng bằng những trò chơi, ví dụ chơi dương cầm. Sự trơn trợt, trèo xuống hay bẻ gẫy cành cây tượng trưng cho sự thủ dâm. Còn gãy răng hay bẻ răng tượng trưng cho sự bị thiến, một trừng phạt đối với những thoả mãn trái thiên nhiên. Những ký hiệu tượng trưng cho sự giao cấu không nhiều như ta tưởng, ví dụ như những hành động nhịp nhàng như khiêu vũ, cưỡi ngựa, trèo núi, hay những tai nạn kinh khủng như bị xe hơi chẹt, một vài cử động bằng tay như doạ dẫm bằng khí giới.
Sự áp dụng và giải thích những tượng trưng này không đơn giản như mình tưởng, cả hai đều có nhiều chi tiết mà mình không chờ đợi. Có một điều mình không tưởng tượng được là những ký hiệu tượng trưng này không hề phân biệt những sự thoả mãn dục tình của đàn ông hay đàn bà. Có những ký hiệu chỉ cơ quan của đàn ông cũng được, của đàn bà cũng đựơc: ví dụ như hình dung của những đứa trẻ con, trẻ trái hay trẻ gái. Có khi một ký hiệu đàn ông chỉ một phần trong cơ quan tình dục của đàn bà hay trái lại. Những điều này thực khó hiểu khi người ta chưa biết đến những sự phát triển của những sự biểu thị về tình dục của con người. Có một ít trường hợp ở trong đó không có sự lẫn lộn trong việc tượng trưng, ví dụ như túi, khí giới, hộp chỉ dùng riêng cho đàn bà thôi.
Tôi sẽ xét duyệt tất cả những phạm vi mà những sự tượng trưng đã dùng việc hình dung tình dục, nhất là những trường hợp mà yếu tố chung chưa được hiểu rõ. Ví dụ như cái mũ vừa dùng cho đàn ông được, mà dùng cho đàn bà cũng được. Cái áo tơi thường chỉ một người đàn ông có khi không liên can gì đến tình dục cả, chả hiểu vì sao...
Tôi sẽ xét duyệt tất cả những phạm vi mà những sự tượng trưng đã dùng việc hình dung tình dục, nhất là những trường hợp mà yếu tố chung chưa được hiểu rõ. Ví dụ như cái mũ vừa dùng cho đàn ông được, mà dùng cho đàn bà cũng được. Cái áo tơi thường chỉ một người đàn ông có khi không liên can gì đến tình dục cả, chả hiểu vì sao. Cái cà vạt rũ xuống trước ngực rõ ràng là một ký hiệu riêng cho đàn ông vì đàn bà không đeo cà vạt bao giờ. Quần áo trắng, vải thường tượng trưng cho đàn bà; áo dài, đồng phục tượng trưng cho sự trần truồng, hình thể; giầy da, giầy vải tượng trưng cho cơ quan tình dục đàn bà, cũng như cái bàn, đồ gỗ. Cái thang, bậc thang, chỗ vịn tay đều tượng trưng cho sự giao hợp. Nghĩ kỹ hơn chúng ta thấy yếu tố chung cho sự nhịp nhàng khi trèo lên cao cho sự kích động lên tới chỗ tuyệt đỉnh: càng lên cao càng thấy khó thở.
Phong cảnh tượng trưng cho âm hộ. Núi non, tảng đá tượng trưng cho dương vật, vườn cho âm hộ. Trái cây chỉ đôi vú chứ không phải đứa con. Dã thú chỉ những người đam mê tình ái, rồi những bản năng xấu xa. Hoa, nhuỵ chỉ âm hộ , nhất là sự trinh tiết. Những đoá hoa chưa nhú chính là cơ năng sinh dục của loài cây trong đời thực. Từ cái phòng, những cửa sổ, cửa ra vào đều chỉ những lỗ như cửa mình, chỉ sự mở to của cửa mình. Phòng đóng, phòng mở, chỉ người đàn bà, còn chìa khoá chỉ người đàn ông.
Đó là những vật liệu cấu thành những giấc mơ tượng trưng. Thực ra chưa đầy đủ, chúng ta có thể kể nhiều nữa về chiều rộng cũng như chiều sâu, nhưng như thế cũng tạm đủ rồi. Có thể bạn sẽ nổi giận và bảo tôi: “Nghe giáo sư nói thì chúng ta sống trong một thế giới bao quanh bằng những ký hiệu tượng trưng cho tình dục. Tất cả những gì quanh ta, áo chúng ta mặc, những đồ chúng ta cầm tay chẳng là gì khác hơn những cái tượng trưng cho tình dục, không hơn không kém”. Tôi công nhận là quả có nhiều điều khó hiểu thực và câu hỏi đầu tiên đến với các bạn hẳn là câu sau đây: Làm sao chúng ta biết được ý nghĩa của những ký hiệu tượng trưng đó khi chính người nằm mơ không cho ta biết gì hết, hay có cho biết thì cũng chỉ là những điều thiếu sót.
Tôi trả lời: Chúng ta biết những điều đó là nhờ nhiều nguồn gốc lắm, những chuyện cổ tích, huyền thoại, chuyện vui cười, dân ca nghĩa là nhờ sự khảo sát những tập quán, phương ngôn, tục ngữ, bài hát, thi ca, tiếng nói hàng ngày của các dân tộc trên thế giới. ở bất cứ đâu chúng ta cũng thấy những ký hiệu như nhau, dễ hiểu. Khảo sát các nguồn gốc đó chúng ta thấy là chúng đi rất sâu sát với tính cách tượng trưng trong các giấc mơ đến nỗi những điều vừa nói được xác nhận hoàn toàn.
Chúng ta đã nói rằng theo Sherner thì căn nhà tượng trưng cho thân thể người ta, cũng như cửa sổ, cửa ra vào tượng trưng cho các lỗ, bề mặt căn nhà chỉ những chỗ lồi lõm, ban công chỉ những chỗ dựa. Chính trong tiếng nói thường ngày của chúng ta cũng dùng những ký hiệu đó: chúng ta chẳng thường gọi bạn thân của chúng ta là: “ngôi nhà cũ” và “mọi việc đều không được trật tự lắm trên tầng lầu một của anh ta” sao? (dịch từng chữ trong tiếng Đức).
Thoạt nghe người ta thấy thực kỳ khi cha mẹ được tượng trưng bằng vua chúa và hoàng hậu. Trong nhiều chuyện cổ tích khi đọc thấy: “Ngày xưa có một ông vua và một bà hoàng hậu “những chữ này thực ra chỉ là những chữ thay thế cho: Ngày xưa có một người cha và một người mẹ”. Trong gia đình, người ta thường gọi đứa trẻ con là những ông hoàng, đứa lớn nhất là hoàng thái tử (kronprinz). Chính vua thường được gọi là cha mẹ dân. Những đứa bé thường được gọi đùa là những con sâu, chúng ta chẳng đã thương hại gọi đùa chúng là “Những con sâu nhỏ bé đáng thương” sao? (Das arme Wurm).
Chúng ta hãy trở lại ký hiệu căn nhà và các phụ thuộc. Khi chúng ta trong giấc mơ, dùng những chỗ lồi trong căn nhà làm chỗ bấu víu, chúng ta hẳn đã nhớ lại ý nghĩa của quần chúng khi họ nói đến những cặp vú đồ sộ là “có thể đánh đu vào đó được”. Những người ngoài phố còn nói đến những người có đôi vú to là: “bà này có nhiều gỗ trước cửa nhà mình nhỉ” y như họ muốn khẳng định cái giải thích của chúng ta khi ta nói rằng gỗ là vật tượng trưng cho người đàn bà.
Về rừng, chúng ta sẽ không hiểu tại sao rừng lại được dùng tượng trưng cho đàn bà nếu chúng ta không cầu cứu môn ngôn ngữ học só sánh. Tiếng Đức Holz (gỗ) cũng cùng một gốc rễ với tiếng Hy lạp có nghĩa là vật chất, nguyên liệu. Có nhiều khi một tiếng chung dùng để chỉ một vật riêng. Trong Đại tây dương có một hòn đảo tên Maderia vì đảo đó toàn rừng, Maderia tiếng Bồ đào nha có nghĩa là rừng. Tiếng Maderia gốc từ tiếng La tinh Materiasa thành Matiére của pháp. Chữ materia gốc ở chữ master nghĩa là người mẹ. Vậy matiére, vật chất của một vật gì chính là mẹ của vật đó. Chính quan niệm cũ kỹ này đã phát sinh ra ký hiệu tượng trưng gỗ, rừng trở thành người mẹ, người đàn bà.
Trong giấc mơ, sự sinh sản thường được tượng trưng bằng những nước, nhảy xuống nước hay từ dưới nước đi lên tức là sinh ra hay ra đời. Gốc của sự tượng trưng này là do thuyết tiến hoá: một đằng, mọi vật trên cạn, trong đó phải kể cả tổ tiên loài người, đều bắt nguồn từ những vật sống dưới nước (quan niệm này quá cũ), đằng khác, bất cứ một loài có vú, một người nào trước khi ra đời cũng nằm mơ trong nước nghĩa là nước trong tử cung người mẹ, và sinh ra tức là trong nước đi ra. Tôi không nói rằng người nằm mơ biết những điều đó. Nhưng tôi cho rằng anh ta không cần biết đến điều đó. Người nằm mơ có thể biết những điều được kể cho nghe hồi còn nhỏ, nhưng dù anh ta có biết chăng nữa cũng chẳng liên quan gì đến sự hình thành của ký hiệu tượng trưng. Ngày xưa người ta kể cho chúng ta nghe rằng chính những con cò đem trẻ con đến. Nhưng có thể đứa trẻ con ở đâu, thì ở dưới sông dưới giếng, nghĩa là ở dưới nước chứ còn đâu nữa? Một thân chủ của tôi, hồi còn nhỏ đã được nghe kể câu chuyện đó đã biến mất cả buổi chiều. Mãi sau người ta mới tìm ra chú bé đang cúi đầu xuống nước để xem có đứa trẻ con nào trong đó không?
Trong những huyền thoại về sự ra đời của những anh hùng, mà O.Rank đã khảo cứu (việc cũ nhất là sự ra đời của Sargon, ở Agade năm 2800 trước T.C) việc dìm trong nước hay từ trong nước đi ra giữ một vai trò quan trọng hàng đầu. Rank cho rằng đó là những hình ảnh tượng trưng cho sự sinh sống như trong giấc mơ. Khi trong giấc mơ chúng tự cứu được một người nào đó khỏi chết đuối, chúng ta thường coi người đó như mẹ mình: trong những huyền thoại một người cứu được một đứa bé khỏi chết đuối chính là mẹ đứa bé. Trong một câu chuyện người ta kể lại rằng: người ta hỏi một đứa bé Do thái thông minh là: “Ai là mẹ của Moise?”. Thằng bé trả lời không ngập ngừng: “Đó là công chúa”. Nhưng người ta bảo: “Không đúng. Bà Công chúa chỉ là người cứu Moise khỏi chết đuối thôi”. Đứa bé trả lời: “Thì bà ta bảo thế”. chứng tỏ rằng nó cũng biết ý nghĩa đúng của câu chuyện huyền thoại.
Trong giấc mơ cái chết thường được tượng trưng bằng sự ra đi. Khi một đứa bé hỏi về một người đã lâu không gặp, thực ra đã chết, người lớn thường trả lời là người đó đi du lịch. Ngay ở đây tôi cũng cho rằng sự tượng trưng này không liên can gì đến sự giải thích cho trẻ con nghe. Nhà thi sĩ cũng dùng hình ảnh đó để chỉ suối vàng như một miền xa xôi mà không một du khách nào đến đó mà có thể trở về được. Ngay trong câu chuyện hàng ngày chúng ta cũng nói đến những chuyến du hành cuối cùng. Tôn giáo cổ xưa của xứ Ai cập cũng nói đến cuộc du hành qua cõi chết. Còn nhiều bản của cuốn sách, ví dụ như cuốn Baedekre đi theo xác ướp trong cuộc du hành. Từ khi nghĩa địa được tách rời những nơi có nhà ở, cuộc du hành cuối cùng về cõi chết đã trở thành hiện thực.
Sự tượng trưng cho cơ quan sinh dục của đàn bà cũng không phải chỉ có trong giấc mơ. Trong đời sống hàng ngày nhiều khi bạn gọi một phụ nữ là “một cái hộp cũ kỹ” mà không hề biết rằng mình đã dùng chữ đó tượng trưng cho cơ quan đàn bà. Trong Tân ước có nói: người đàn bà là một cái bình yếu. Những sách kinh của người Do thái có lối hành văn rất thú vị, đầy rẫy những thành ngữ mượn của sự tượng trưng tình dục, thường không dễ hiểu tí nào và gây ra nhiều sự hiểu lầm ví dụ như trong cuốn Thánh ca của các thánh ca. Trong sách vở Do thái sau đó luôn luôn có đoạn nói đến người đàn bà như một cái nhà và cái cửa như cái cửa mình. Ví dụ như người chồng lấy vợ mất trinh thường phàn nàn là mình thấy cửa để ngỏ. Người đàn bà nói về chồng mình như sau: Tôi dọn bàn sẵn cho anh nhưng anh lật đổ bàn. Vì người chồng lật ngược bàn nên con cái mới què quặt. Những tài liệu này đều trích trong cuốn Sự tượng trưng tình dục trong kinh thánh Giato và thánh kinh Hồi giáo, của M.L.Levy, Brunn.
Chính các nhà ngữ nguyên học đưa ra hình dung người đàn bà tượng trưng bằng cái tàu thuỷ: danh từ Schiff (tàu thuỷ) lúc đầu dùng để chỉ một cái bình bằng đất sét bắt nguồn bằng chữ Schaff (cái chảo). Chữ lò tượng trưng cho người đàn bà và cái tử cung, đó là điều đọc thấy trong huyền thoại Hy lạp liên can đến Péreanderu ở Corinthe và vợ là Mélissa. Theo chuyện do Hérodote kể lại thì sau khi giết vợ mình vì ghe tuông, tên hôn quân yêu cầu bóng mình cho biết tin tức về người vợ yêu quý, người chết liền cho anh ta biết mình có mặt bằng cách nhắc cho Péreanderu biết là anh ta đã để cho bánh mỳ trong lò lạnh ngắt, thành ngữ này có mục đích ám chỉ đến những cử chỉ mà không một ai biết ngoài hai vợ chồng. Trong cuốn Anthropophyteia của Kraus thường được coi như một cuốn sách rất dồi dào về đời sống tình dục của các dân tộc, người ta đọc thấy rằng trong một vài miền ở Đức khi nói đến người đàn bà vừa sinh xong người ta thường nói rằng chị ta bị vỡ lò. Sự đốt lửa cũng có ý nghĩa tượng trưng: ngọn lửa ví như cơ quan sinh dục đàn ông: còn lò lửa là cơ quan của đàn bà.
Nếu ngạc nhiên không hiểu vì sao nhưng phong cảnh lại luôn luôn tượng trưng cho cơ quan sinh dục của đàn bà, bạn hãy đọc những sách về thần thoại trong đó đất lành nuôi sống con người giữ một vai trò như thế nào trong các dân tộc cổ xưa, và quan niệm về canh nông đã ảnh hưởng rất nhiều trong việc tượng trưng này. Thường ngày người đàn bà Đức chẳng hay hình dung căn phòng của người đàn bà để chỉ chính người đàn bà đó sao, thay thế con người bằng chỗ ở của đàn bà. Chúng ta cũng dùng chữ “Cánh cửa thiêng liêng” để chỉ Đức vua và chính phủ. Chữ Pharaon dùng để chỉ vua Ai cập có nghĩa là “sân to” (ở miền đông xưa giữa hai cửa thành thường có sân dùng làm nơi họp chẳng khác những cái chợ trong thời cổ). Tuy nhiên tôi thấy nguồn gốc này có vẻ hời hợt . Tôi cho rằng sở dĩ cái phòng trở thành tượng trưng cho người đàn bà; thần thoại và thi ca chẳng nhắc luôn đến những chữ dùng tượng trưng cho người đàn bà đó sao? Đó là những chữ: toà lâu đài , thành quách , thành phố. Sở dĩ có người nghi ngờ về điểm này thì chỉ là vì người đó không biết tiếng Đức nên không hiểu chúng ta nói thôi. Nhưng trong mấy năm gần đây tôi có chữa cho nhiều người ngoại quốc và trong giấc mơ của họ, họ cũng nói đến những cái phòng để chỉ người đàn bà. Còn nhiều lý do để chứng minh rằng sự tượng trưng này đã vượt quá biên giới của ngôn ngữ và sự kiện này đã được nhà đoán mộng Schubert công nhận. Dù sao cũng cần phải cho rằng không một thân chủ nào của tôi lại không biết tí gì về tiếng Đức cả, vì thế tôi chờ đợi những nhà phân tâm học tại các nước khác trên thế giới hiến cho những tài liệu đối với những người nói cùng một thứ tiếng.
Về sự tượng trưng cho cơ quan sinh dục của đàn ông không có một ký hiệu nào lại không có trong câu nói thường ngày dưới một hình thức khôi hài, tầm thường hay thi vị như trong các nhà thi sĩ thời cổ xưa. Trong những ký hiệu đó không những có những ký hiệu thường xuất hiện trong các giấc mơ mà còn có những ký hiệu khác ví dụ như cái cây. Vả lại, sự tượng trưng trong cơ quan sinh dục của đàn ông có một phạm vi rất rộng, được bàn cãi rất nhiều nên chúng ta sẽ không nói đến vì không đủ chỗ . Chúng ta chỉ nói đến một ký hiệu thôi: đó là ký hiệu về Tam vị nhất thế. Chúng ta gạt ra một bên ý nghĩ không biết có phải con số ba là nguồn gốc của sự tượng trưng này không. Nhưng điều chắc chắn là nếu có những đồ vật gì gồm ba phần (ví dụ như cây vân thảo ba lá) được dùng để tượng trưng cho những binh chủng hay biểu hiện nào đó thì chính là ý nghĩa tượng trưng đó.
Đoá hoa huệ ba cành của người Pháp, những huy hiệu kỳ khôi của hai đảo cách xa nhau như đảo Sicile và đảo Man, theo ý tôi chỉ là tượng trưng cho cơ quan sinh dục đàn ông. Thời cổ xưa, người ta vẽ lại dương vật để xua đuổi những hình ảnh xấu, ngày nay người ta thường đeo bùa, những bùa này không gì khác hơn là sự tượng trưng cho những cơ quan sinh dục. Các bạn hãy quan sát những bùa thường buộc quanh cổ mà xem: nào một đoá vân thảo bốn lá thay thế đoá vân thảo ba lá tượng trưng; một con lợn: ngày xưa tượng trưng cho sự sinh con đẻ cái; một cái nấm trông thực sự giống dương vật; một cái vành móng ngựa trông như âm hộ ; anh chàng lau lò sưởi mang theo một cái thang là vì ngày xưa hình ảnh đó tượng trưng cho sự giao cấu. Chúng ta đã thấy cái thang tượng trưng cho sự giao cấu trong giấc mơ; trong tiếng Đức anh từ “trèo lên cao” có nghĩa là tình dục. Tiếng Đức thường nói “trèo lên người đàn bà” và “thằng cha này là một thằng trèo lâu đời”. Trong tiếng Pháp, người ta dịch tiếng Stufe của Đức bằng chữ “đi” và người ta gọi anh chàng chơi bời đàng điếm bằng tiếng “một thằng đi nhiều”. Có lẽ danh từ cũng liên can đến việc nhiều giống vật trong khi giao cấu thường cưỡi lên con cái.
Việc dùng danh từ bẻ gãy cành để chỉ sự thủ dâm không những đúng với những cử chỉ thường thường trong lúc thủ dâm mà còn giống như nhiều thành ngữ trong thần thoại. Nhưng sự tượng trưng cho việc thủ dâm hay sự thiến bằng hình dung rụng răng thực đặc biệt: khoa nhân chủng học cho ta một thí dụ về điều đó. Ngày nay sự buộc buồng trứng có lẽ bắt nguồn ở sự thiến ngày xưa. Có nhiều bộ lạc cổ xưa thường rạch cơ quan sinh dục để kỷ niệm việc đến tuổi dậy thì của con trai trong khi có những bộ lạc lại nhổ một cái răng trong dịp này.
Tôi chấm dứt bài này bằng những thí dụ như trên. Đó chỉ là những thí dụ: chúng ta biết nhiều hơn thế nữa và những thí dụ này nếu không phải là do chúng mình là những người không chuyên môn tập trung lại mà do những nhà chuyên môn về khoa nhân chủng, thần thoại, ngôn ngữ và nhân loại học tập trung thì thú vị hơn nhiều. Nhưng dù những điều mình biết hãy còn ít ỏi, chúng ta vẫn phải đưa ra những kết luận và những kết luận này sẽ làm chúng ta suy nghĩ.
Trước hết chúng ta có sự kiện là người nằm mơ có một lối diễn tả tượng trưng mà anh ta không biết đến và cũng không công nhận khi thức dậy. Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên cũng như khi ta nói rằng chị hầu gái của chúng ta biết chữ Phạn dù chị ta sinh ở Đức và chưa bao giờ học chữ Phạn cả. Chúng ta không thể dùng quan niệm của chúng ta về tâm lý học để biết rõ điều đó. Chúng ta chỉ có thể nói rằng nếu người nằm mơ có biết đến những sự tượng trưng này thì chính là vô thức, sự biết này thuộc vào đời sống tinh thần vô thức. Điều giải thích này không đi xa được. Cho tới nay chúng ta chỉ cần công nhận là có những khuynh hướng vô thức nghĩa là khuynh hướng mà chúng ta không biết đến trong thời gian ngắn ngủi nào đó thôi. Nhưng bây giờ còn có gì hơn nữa: đó là những điều hiểu biết bằng vô thức, những liên quan vô thức giữa các ý tưởng , những sự so sánh vô thức giữa các vật, trong đó một trong các vật sẽ thay thế cho những vật khác một cách thường trực. Những sự so sánh này không phát sinh ra chỉ để dùng một lần cho một trường hợp nào đó, nhưng để dùng mãi mãi trong mọi trường hợp, và bao giờ cũng sẵn sàng xuất hiện. Chúng ta đã có bằng cớ về điểm này vì nhìn thấy chúng trong những người khác nhau hoàn toàn, nói hai thứ tiếng khác nhau.
Những điều biết tượng trưng này từ đâu ra? Tiếng nói thường ngày chỉ cung cấp có một phần nhỏ thôi. Những sự giống nhau trong các phạm vi khác, nhiều khi người nằm mơ không hề biết đến và nếu chúng ta có tập trung được vài ví dụ thì cũng khó nhọc lắm.
Thứ hai, những liên quan tượng trưng này không thuộc riêng về người nằm mơ và không biểu thị riêng cho công việc tiến hành trong giấc mơ. Chúng ta biết là những thần thoại, những chuyện cổ tích, những câu ca dao tục ngữ, những bài dân ca, tiếng nói hàng ngày và những nhà thi sĩ đều dùng sự tượng trưng đó. Phạm vi của sự tượng trưng rộng lớn vô cùng, sự tượng trưng trong giấc mơ chỉ là một khoảng nhỏ trong phạm vi đó. Chúng ta không nên khảo cứu toàn thể vấn đề bằng cách đi từ những giấc mơ. Nhiều ký hiệu tượng trưng dùng ở nơi khác, không xuất hiện trong giấc mơ hay chỉ xuất hiện rất ít; người ta cũng không luôn luôn tìm thấy ở ngoài đời những ký hiệu thường xuất hiện trong giấc mơ hay nếu có thì cũng chỉ lẻ tẻ thôi. Người ta có cảm tưởng đang đứng trước một lối diễn tả cũ kỹ nhưng đã mất đi rồi trừ một vài trường hợp còn sót lại, rải rác khắp nơi, chỗ này một ít chỗ kia một chút thay đổi trong rất nhiều phạm vi. Tôi nhớ đến một anh chàng điên khùng đã tượng trưng ra một tiếng nói căn bản trong đó những liên quan tượng trưng chỉ là những cái gì còn sót lại trong tiếng nói đó.
Thứ ba, các bạn chắc ngạc nhiên khi thấy trong các phạm vi khác những liên quan tượng trưng này không hoàn toàn thuộc về tình dục, trong khi giấc mơ thì lại hoàn toàn thuộc về tình dục thôi. Điều này cũng chẳng dễ cắt nghĩa gì. Có phải là những ký hiệu tượng trưng cổ xưa đã được áp dụng vào những trường hợp mới không, có phải những sự áp dụng mới này dần dần đã đưa những ký hiệu này đến độ mất hết ý nghĩa tượng trưng không? Tất nhiên là chúng ta không thể trả lời các câu hỏi đó khi cứ đi mãi trong phạm vi giấc mơ. Chúng ta chỉ nên nói rằng giữa những sự tượng trưng đó và đời sống tình dục có những dây liên lạc chặt chẽ.
Gần đây chúng ta nhận được một bài rất quan trọng về vấn đề này. Một nhà ngôn ngữ học, ông M H. Sperber tuy không khảo cứu về phân tâm học đã cho rằng những nhu cầu tình dục giữ một vai trò quan trọng trong việc phát sinh và phát triển ngôn ngữ. Những âm thanh đầu tiên được phát ra được dùng để gọi những người khác giới trong công việc tình dục; rồi sự phát triển sau đó của ngôn ngữ đi cùng với sự tổ chức công việc trong thời cổ xưa. Công việc được tiến hành chung nhịp nhàng theo những câu hò khoan. Sự quan tâm về tình dục đã di chuyển đến sự quan tâm về công việc. Người ta có thể cho rằng người thời cổ xưa chỉ bằng lòng chấp nhận công việc như một cái gì đến thay thế cho tình dục và cũng quan trọng như tình dục vậy. Vì thế nên những câu hò khoan đi theo sự làm việc có hai nghĩa. một nghĩa dính dáng đến công việc, một nghĩa dính dáng đến tình dục và phụ thuộc hẳn vào công việc. Những thế hệ sau, sau khi phát minh ra một tiếng có ý nghĩa tình dục, đã dùng tiếng đó trong một loại công việc mới. Nhiều tiếng gốc sau đó đã được thành lập, tiếng nào cũng bắt đầu có ý nghĩa là tình dục nhưng về sau bỏ mất ý nghĩa tình dục. Nếu những điều vừa phác hoạ được coi là đúng thì chúng ta sẽ có thể hiểu được tính chất tượng trưng trong giấc mơ, hiểu rõ tại sao giấc mơ trong khi giữ lại được một cái gì trong những điều kiện cũ kỹ đó, lại có nhiều ký hiệu liên quan đến tình dục như thế, tại sao những binh khí và dụng cụ lại dùng để tượng trưng cho đàn ông, những vải và đồ vật dụng lại tượng trưng cho đàn bà. Liên quan tượng trưng hình như cái gì còn sót lại của sự đồng hoá các tiếng trong thời cổ, những đồ vật ngày xưa có cùng một tên với những đồ vật có dính dáng đến hình cầu và đời sống tình dục bây giờ xuất hiện trong giấc mơ dưới danh nghĩa là ký hiệu tượng trưng cho hình cầu và đời sống này.
Những sự việc này được gợi ra khi nói đến các giấc mơ sẽ giúp cho chúng ta thấy rằng môn phân tâm học chính là một môn học có tính chất tổng quát chứ không phải như Tâm lý học và tâm thần học. Môn phân tâm học có liên quan đến nhiều khoa học tinh thần khác như thần thoại học, ngôn ngữ học, nhân chủng học, tâm lý quần chúng học, khoa học tôn giáo. Những công trình khảo cứu của những khoa học này cũng giúp chúng ta nhiều dữ kiện quý báu. Cho nên chúng ta sẽ không được ngạc nhiên khi thấy phong trào phân tâm học đã đưa đến sự xuất bản một tờ tạp chí dành riêng cho vấn đề khảo sát các liên quan giữa các môn học này với môn phân tâm học. Đó là tờ tạp chí Imago thành lập năm 1912 do Hans Sachs và Otto Rank. Trong sự liên lạc với các khoa học khác, môn phân tâm học cho nhiều hơn nhận. Tất nhiên những kết quả đó có vẻ kỳ khôi mà môn phân tâm học thu lượm được sẽ dễ dàng chấp nhận hơn một khi các công trình khảo cứu trong các khoa học chấp nhận. Nhưng chính môn phân tâm học đã cung cấp phương pháp kỹ thuật và các quan điểm áp dụng được trong các khoa học khác. Công trình khảo cứu của phân tâm học đã tìm ra trong đời sống tinh thần những sự kiện giúp cho chúng ta giải quyết hay đưa ra ánh sáng hơn một điều bí ẩn của đời sống công cộng.
Nhưng tôi chưa nói cho các bạn nghe trong trường hợp nào chúng ta có thể có được một tầm nhìn sâu xa nhất về vấn đề người ta gọi là “tiếng nói căn bản” và phạm vi nào đã giữ lại được nhiều điều truyền lại từ ngày xưa nhất. Chưa biết các điều đó, các bạn không thể hiểu được hết tầm quan trọng của vấn đề. Phạm vi đó là phạm vi của các chứng loạn thần kinh với những triệu chứng và cách phát hiện mà môn phân tâm học có nhiệm vụ giải thích và chữa chạy.
Phương diện thứ tư của vấn đề đưa chúng ta quay lại điểm khởi đầu và hướng chúng ta theo chiều hướng đã vạch sẵn. Chúng ta đã nói rằng dù không có sự kiểm duyệt giấc mơ chăng nữa thì giấc mơ cũng không phải vì thế mà trở nên dễ hiểu hơn vì chúng ta sẽ phải giải quyết vấn đề diễn tả ngôn ngữ tượng trưng trong giấc mơ bằng ngôn ngữ trong khi thức. Vậy tính chất tượng trưng trong giấc mơ là một yếu tố khác trong sự biến dạng của giấc mơ không phụ thuộc vào sự kiểm duyệt. Nhưng ta có thể cho rằng sự kiểm duyệt có thể lợi dụng tính chất tượng trưng để tiện cho công việc của mình vì cả hai đều có một mục đích chung : làm cho giấc mơ trở thành kỳ khôi và khó hiểu.
Vì vậy, sau này chúng ta có thể tìm ra được một yếu tố mới cho sự biến dạng nữa. Nhưng tôi không muốn rời bỏ vấn đề tính chất tượng trưng mà không nhắc lại một lần nữa thái độ khó hiểu của một số người học thức đối với vấn đề này: chất tượng trưng đã được chứng minh đầy đủ trong huyền thoại , tôn giáo nghệ thuật và ngôn ngữ. Không biết chúng ta có nên tìm lý do của thái độ này trong những liên quan mà chúng ta đã tìm ra giữa tính chất tượng trưng và đời sống tình dục hay không?
Nếu các bạn biết rõ sự kiểm duyệt và sự tượng trưng đã hoạt động như thế nào trong giấc mơ thì bạn có thể hiểu rõ sự hoạt động của các sự biến dạng. Muốn hiểu giấc mơ, các bạn dùng hai kỹ thuật bổ túc cho nhau: trước hết, gợi cho người nằm mơ nhớ lại nhiều điều cho đến khi dần dần tìm được thực chất của giấc mơ, rồi thay thế các kí hiệu tượng trưng bằng ý nghĩa thực của chúng. Thế nào bạn cũng sẽ gặp một vài điều không được chắc chắn, nhưng đó là điều chúng ta sẽ nói đến sau.
Đến đây chúng ta có thể tiếp tục công việc đã khởi đầu trước đây nhưng với phương tiện còn thiếu sót. Chúng ta đã có ý định sắp đặt các liên quan giữa những yếu tố của giấc mơ và thực chất của chúng; những liên quan này gồm có: liên quan giữa một phần và toàn thể sự phỏng chừng và ám chỉ, liên quan tượng trưng và sự biểu diễn bằng lời nói. Chúng ta sẽ làm lại công việc này trong một phạm vi rộng lớn hơn bằng cách so sánh nội dung rõ ràng với giấc mơ tiềm tàng những điều tìm ra được trong khi giải thích.
Tôi hy vọng là các bạn sẽ không lẫn lộn nội dung rõ ràng và những ý tưởng tiềm tàng nữa. Với sự phân biệt này, các bạn sẽ hiểu về giấc mơ hơn là những độc giả của cuốn sách “Đoán mộng” của tôi. Công việc biến đổi giấc mơ tiềm tàng thành nội dung rõ ràng gọi là “sự xây dựng giấc mơ”. Công việc, trái lại, biến đổi nội dung thành giấc mơ tiềm tàng gọi là “công việc giải thích giấc mơ”. Công việc giải thích tìm cách xoá bỏ công việc xây dựng. Những giấc mơ thuộc loại trẻ con, những sự thực hiện các ham muốn có một phần xây dựng, nhất là sự biến đổi lòng ham muốn cũng có một phần xây dựng, nhất là sự biến đổi lòng ham muốn thành sự thực, sự biến đổi những ý tưởng thành những hình ảnh thị giác. Đối với các giấc mơ này chúng ta không cần giải thích, chỉ cần xét qua loa về hai sự biến dạng thôi. Còn trong các giấc mơ khác, chúng ta phải làm công việc xây dựng, và sở dĩ phải làm việc này vì có sự biến dạng, sự biến dạng này chỉ có thể mất đi khi chúng ta giải thích xong.
Vì đã có dịp so sánh nhiều cách giải thích giấc mơ nên tôi có thể cắt nghĩa cho các bạn nghe công việc xây dựng một giấc mơ đã lợi dụng được những ý tưởng tiềm tàng trong đó như thế nào. Chỉ xin các bạn không nên đưa ra những lời kết luận quá vội vã. Tôi yêu cầu các bạn đặc biệt chú ý đến những điều dưới đây.
Công việc phải làm trước hết để xây dựng một giấc mơ là sự cô đọng lại giấc mơ. Tôi muốn nói là nội dung giấc mơ rõ ràng nhỏ hơn mục đích của giấc mơ tiềm tàng và chỉ là một bản tóm tắt thôi. Cũng có khi không có sự cô đọng nhưng trong thực tế sự cô đọng này bao giờ cũng có mặt và nhiều khi tỏ ra rất quan trọng. Chưa bao giờ người ta thấy nội dung của giấc mơ rõ ràng lại rộng và dồi dào hơn giấc mơ tiềm tàng. Sự cô đọng tiến hành theo ba phương pháp sau đây: 1/ Một vài yếu tố tiềm tàng bị gạt bỏ dễ dàng. 2/ Giấc mơ rõ ràng chỉ nhận vài mảnh nhỏ của một vài phương diện của giấc mơ tiềm tàng thôi. 3/ Những yếu tố trong giấc mơ tiềm tàng vì có một vài điểm đồng nhất được đồng hoá với giấc mơ rõ ràng.
Nếu muốn, bạn có thể dành cho phương pháp thứ ba này cái tên cô đọng. Hậu quả của phương pháp này rất dễ chứng minh. Chỉ cần nhớ lại giấc mơ của mình, bạn cũng dễ dàng tìm thấy trường hợp cô đọng của nhiều người thành sự cô đọng của một người. Từ một ông A, chúng ta có thể hiểu ông B, rồi ông này làm cho ta nhớ lại bà C, rồi với tất cả ta tìm ra D. Tất nhiên trong bốn người này có tính chất gì đó chung cho cả bốn. Cứ như thế chúng ta có thể thành lập một hợp thể gồm nhiều đối tượng, với điều kiện là các đối tượng này có một vài điểm chung nhau mà giấc mơ tiềm tàng nhấn mạnh đặc biệt. Gần như đó là một kỉ niệm mới mà điểm chung nhau chính là tâm điểm. Đem nhiều phần nhỏ hoà vào thành một hợp thể như thế, chúng ta sẽ có những hình ảnh mơ hồ giống như một tấm kính ảnh có thể được in thành nhiều tấm ảnh khác. Công việc xây dựng giấc mơ cần để ý đến những hợp thể đó thường do mình tạo ra khi chúng không có mặt, ví dụ như khi chúng ta tìm một chữ để diễn tả một ý. Chúng ta đã gặp những sự cô đọng và thành lập loại này, ví dụ như trong trường hợp lỡ lời. Các bạn hãy nhớ lại anh chàng trẻ tuổi muốn begleit – digen (do hai chữ beglei ten, đi cùng, và belei digen, thất lễ, họp thành) một bà. Có những gạch trí khôn cũng được họp thành bằng những kỹ thuật loại đó. Nhưng ngoài trường hợp này thì phương pháp cô đọng đó có vẻ kỳ lạ và kỳ khôi. Sự thành lập những hợp thể cũng giống những sự việc do trí tưởng tượng dồi dào của chúng ta sáng tạo ra bằng những yếu tố không hề có trong cuộc thí nghiệm: ví dụ như những con vật khổng lồ thời tiền sử trong thần thoại và trong các bức hoạ của Bocklin. Vả lại, trí tưởng tượng sáng tạo của mình thực ra chẳng sáng tạo được gì bao giờ, mà chỉ tập trung lại một nơi những yếu tố khác biệt thôi. Nhưng phương pháp dùng trong công việc xây dựng có đặc biệt là những vật liệu dùng để xây dựng toàn là những ý tưởng, trong đó có một vài ý thô tục không thể được chấp nhận nhưng tất cả đều được thành lập và diễn tả một cách đúng đắn. Công việc xây dựng gán cho những ý tưởng này một hình thức khác nhưng thực là một điều đáng chú ý và khó hiểu khi công việc này lại dùng sự dung hợp để diễn tả những ý tưởng này. Trong khi diễn dịch chúng ta đặc biệt chú ý đến những điểm đặc biệt trong nguyên bản và cố tránh không lẫn lộn những chữ có nghĩa giống nhau. Công việc xây dựng trái lại cố gắng có hai ý khác nhau để tìm ra một chữ có thể diễn tả được cả hai ý. Chúng ta không nên đưa ra những kết luận vội vã về điểm đặc biệt này, vì chính điểm đó có thể trở thành quan trọng trong khái niệm về công việc xây dựng.
Dù sự cô đọng lại có làm cho giấc mơ tối tăm hơn đi nữa, người ta cũng không cho đó là kết quả của kiểm duyệt. Nó có thể có những nguyên nhân có tính chất cơ khí hay kinh tế nhưng dù sao sự kiểm duyệt cũng có dự phần vào đó.
Những hậu quả của sự cô đọng có thể hết sức kỳ lạ. Sự cô đọng làm cho chúng ta có thể tập trung vào trong giấc mơ rõ ràng hai ý tưởng tiềm tàng khác hẳn nhau, và do đó giải thích được mà không cần một cách giải thích phụ nào khác nữa. Sự cô đọng còn có hậu quả làm cho liên quan giữa các yếu tố của giấc mơ tiềm tàng và của giấc mơ rõ ràng trở nên phức tạp. Vì thế nên một yếu tố trong giấc mơ rõ ràng có thể tương ứng với nhiều ý tưởng tiềm tàng và trái lại: như vậy tức là có một sự trao đi đổi lại. Trong khi giải thích giấc mơ người ta cần để ý rằng những ý tưởng xuất hiện tuần tự không nên đem ra dùng ngay mà phải chờ cho chúng ra hết rồi mới đem dùng.
Vậy công việc xây dựng diễn tả những ý tưởng trong giấc mơ một cách khác thường, không phải bằng cách dịch từng chữ một, hay chọn lựa theo một quy tắc nào đó, hay tìm cách thay thế một ý này bằng một ý khác. Công việc xây dựng là một công việc khác hẳn và phức tạp hơn nhiều.
Một hậu quả khác của công việc xây dựng là sự di chuyển, một công việc chúng ta đã có dịp được biết đến rồi và hoàn toàn là công việc của sự kiểm duyệt. Sự di chuyển, diễn tiến theo hai cách: một là thay thế một yếu tố tiềm tàng không phải bằng một yếu tố khác cùng loại nhưng bằng một yếu tố khác xa hơn, nghĩa là bằng một sự ám chỉ, hai là tính chất tinh thần được chuyển từ một yếu tố quan trọng đến một yếu tố bớt quan trọng hơn làm cho giấc mơ thành ra có một ý nghĩa khác hẳn.
Sự thay thế bằng một sự ám chỉ cũng xảy ra trong khi ta thức nhưng hơi khác. Trong tư tưởng trong khi thức sự ám chỉ cần dễ hiểu, giữa sự ám chỉ và ý tưởng thực sự phải có một liên quan về nội dung. Gạch trí khôn thường lợi dụng sự ám chỉ nhưng không theo điều kiện phải có sự liên tưởng giữa các nội dung. Sự liên tưởng này được thay thế bằng một sự liên tưởng bên ngoài ít khi dùng đến, đặt căn bản trên sự giống nhau giữa các thanh âm, các nghĩa khác nhau của một chữ. v.v…Nhưng gạch trí khôn lại theo thực sát điều kiện về sự dễ hiểu: gạch trí khôn sẽ không đạt được mục đích nếu người ta hay một sự cắt nghĩa gắng gượng. Sự kiểm duyệt trong giấc mơ chỉ đạt được mục đích khi làm cho người ta không thể tìm ra được con đường đưa từ sự ám chỉ tới thực chất của nó.
Sự di chuyển yếu tố tinh thần từ một yếu tố này qua một yếu tố khác trong giấc mơ là phương sách tốt nhất để diễn tả tư tưởng. Nhiều khi thức ta cũng dùng nó để có một ý nghĩa khôi hài. Tôi kể các bạn nghe câu chuyện sau đây: Trong một làng có một anh chàng đóng móng ngựa phạm một tội nặng. Toà án quyết định rằng anh ta phải đền tội, nhưng vì trong làng ngoài anh ta ra không còn người đóng móng nào khác, vì thế anh trở nên cần thiết không thể giết được, trong khi đó trong làng có tới ba anh thợ may, nên ba anh này bị treo cổ thay thế cho anh đóng móng.
Hậu quả của công việc xây dựng, về phương diện tâm lý là hậu quả thích thú nhất. Đó là sự biến đổi các ý tưởng thành những hình ảnh thị giác. Điều đó không có nghĩa là tất cả những yếu tố cấu thành đều bị biến đổi hết; nhiều yếu tố giữ nguyên tính cách và xuất hiện nguyên hình trong giấc mơ rõ ràng; ngoài ra không phải các ý tưởng chỉ xuất hiện dưới hình thức của hình ảnh thị giác. Dù sao thì những hình ảnh thị giác này cũng giữ phần chính yếu trong sự thành lập một giấc mơ. Phần việc này của công trình xây dựng không thay đổi: chúng ta biết điều này rồi cũng như chúng ta đã biết đến “sự biểu diễn bằng lời nói” của những yếu tố riêng biệt trong mơ.
Tất nhiên người ta không dễ dàng gì đạt được kết quả đó. Để hiểu những sự khó khăn đó bạn cứ tưởng tượng trong một bài luận thuyết về chính trị, nghĩa là thay những chữ in bằng những hình vẽ. Đối với người và vật nói trong bài đó việc thay thế bằng hình ảnh chẳng có gì là khó, nhưng khi muốn thay thế những ý tưởng trừu tượng hay những sự liên lạc giữa ý này và ý nọ thì quả là một công việc đội đá vá trời. Đối với những chữ trừu tượng bạn có thể dùng đủ mọi cách, ví dụ như có thể viết lại theo một lối nói có lẽ ít được thông dụng hơn nhưng chứa đựng nhiều hình ảnh cụ thể hơn. Các bạn sẽ nhớ lại rằng những tiếng trừu tượng này chính là những chữ cụ thể ngày xưa rồi bạn sẽ tìm đủ mọi cách để tìm lại được ý nghĩa cụ thể lúc đầu. Ví dụ bạn sẽ rất thích khi có thể diễn tả ý “có một đồ vật gì” (be sizen) bằng ý nghĩa cụ thể là “ngồi trên vật đó” (đa rua fsizen). Công việc xây dựng không làm gì khác hơn. Chúng ta không nên đòi hỏi một sự chính xác quá đáng đối với một sự biểu diễn tiến hành trong điều kiện như thế. Cho nên chúng ta không tránh công việc xây dựng này khi nó thay thế một yếu tố rất khó hình dung như sự ngoại tình (Ehebruch) bằng một hình ảnh cụ thể như “gãy một cánh tay” (Armburch). Biết những chi tiết đó bạn có thể sửa chữa lại những sự vụng về của hình vẽ khi dùng để thay thế lời nói.
Nhưng những phương tiện này thiếu thốn khi diễn tả những dây liên lạc giữa hai ý: bởi vì, vì lí do, v.v… Những yếu tố này không thể được diễn tả bằng hình ảnh. Cũng thế, công trình xây dựng trong giấc mơ rút gọn nội dung giấc mơ thành những đối tượng và hành động cụ thể. Các bạn sẽ hài lòng nếu có thể diễn tả những liên quan trừu tượng bằng những hình ảnh. Công việc xây dựng dùng những tính chất hình thức trong giấc mơ rõ ràng, những mảnh nhỏ, những mức độ rõ ràng hay tăm tối để diễn tả một vài phần nội dung những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ. Những ý tưởng tiềm tàng được phân chia thành nhiều giấc mơ nhỏ và số những giấc mơ này cũng tương ứng với số chủ đề chính trong giấc mơ, với những loại ý tưởng có trong đó; một giấc mơ nhỏ diễn ra trước giấc mơ chính y như một bài mở đầu cho một cuốn sách; một ý tưởng phụ thuộc thêm vào ý chính được thay thế bằng một vài cảnh bao gồm các biến cố của giấc mơ tiềm tàng được diễn tả trong giấc mơ rõ ràng. Sự việc cứ tiếp tục như thế. Hình thức của giấc mơ không phải là không quan trọng và cũng cần giải thích. Nhiều giấc mơ có thể xảy ra trong một đêm, giấc mơ nào cũng quan trọng như nhau chứng tỏ rằng có một vài sự kích động càng ngày càng tăng cường độ cần phải bị chế ngự. Trong một giấc mơ, một yếu tố đặc biệt có thể được biểu diễn bằng nhiều ký hiệu tượng trưng.
Làm công việc so sánh những ý tưởng trong giấc mơ và giấc mơ thực sự diễn ra, chúng ta biết được những điều không chờ đợi, ví dụ như chúng ta thấy rằng ngay những điều khó hiểu trong giấc mơ cũng có một ý nghĩa đặc biệt...
Làm công việc so sánh những ý tưởng trong giấc mơ và giấc mơ thực sự diễn ra, chúng ta biết được những điều không chờ đợi, ví dụ như chúng ta thấy rằng ngay những điều khó hiểu trong giấc mơ cũng có một ý nghĩa đặc biệt. Về điểm này, sự trái ngược giữa quan niệm y học và quan niệm phân tâm học về giấc mơ tới một mức độ ghê gớm đến nỗi trở thành tuyệt đối không giải quyết được. Theo quan niệm trên thì giấc mơ chẳng có nghĩa lý gì cả, vì tinh thần mà giấc mơ là hậu quả mất hết khả năng phê phán; theo quan niệm sau thì giấc mơ trở thành vô nghĩa lý một khi ngay trong giấc mơ người ta đã phê phán là điều đó thực vô nghĩa lý. Ví dụ như việc mua ba vé giá 1 fl.50 mà chúng ta đã thấy. Sự phê phán trong dịp này: lấy chồng sớm quá là một điều không hiểu được (hay là một điều dại dột).
Trong công việc xây dựng giấc mơ, chúng ta cũng biết điều gì tương ứng với những sự nghi ngờ, bất định của người nằm mơ, nghĩa là có thực một yếu tố nào đã được diễn tả trong giấc mơ hay không, và yếu tố này có đúng như điều mà mình nghĩ hay không hay là một điều khác. Không có gì trong giấc mơ tiềm tàng cho ta biết về những điều nghi ngờ, bất định đó; chúng chỉ là hậu quả của sự kiểm duyệt thôi và phải được coi như một mưu toan gạt bỏ được sự dồn ép.
Một trong các nhận xét làm mình ngạc nhiên nhất là nhận xét liên quan đến các công việc xây dựng dùng để giải quyết những sự trái ngược nhau trong giấc mơ tiềm tàng. Chúng ta đã biết là những yếu tố tương tự trong giấc mơ tiềm tàng được thay thế bằng những sự cô đọng trong giấc mơ rõ ràng. Nhưng những sự trái ngược cũng được giải quyết như những sự giống nhau và cũng được diễn tả bằng một yếu tố như nhau trong giấc mơ rõ ràng. Vì thế nên một yếu tố có điểm trái ngược trong giấc mơ rõ ràng cũng có thể có ý nghĩa, chúng ta phải tuỳ theo ý chính mà giải thích. Vì thế cho nên chúng ta mới hiểu tại sao trong giấc mơ không hề có hình dung câu trả lời “không” bao giờ.
Cách làm việc kỳ lạ của công việc xây dựng có một điểm tương tự trong công việc phát triển ngôn ngữ. Nhiều nhà ngôn ngữ học nhận thấy rằng trong ngôn ngữ thời cổ có những sự trái ngược như: yếu – khoẻ, rõ ràng – tăm tối, lớn – nhỏ đều được diễn tả cùng một gốc (nghĩa trái ngược trong những tiếng cổ xưa). Ví dụ như trong tiếng cổ Ai Cập ý khoẻ và yếu đều được diễn tả bằng tiếng “ken”. Khi nói người ta dùng giọng cao hay thấp để phân biệt hai nghĩa; khi viết người ta thường vẽ thêm một hình ảnh không được đọc lên. Người ta viết chữ ken – khoẻ bằng cách vẽ bên cạnh một người đứng thẳng dậy; và ken – yếu bằng hình ảnh một người đang ngồi xổm. Mãi sau này người ta mới dần dần thay đổi và dùng những chữ riêng để diễn tả hai ý trái ngược. Vì thế người ta đã chia chữ ken ra thành hai chữ ken – khoẻ và ken – yếu. Một vài ngôn ngữ trẻ hơn và một vài sinh ngữ ngày nay còn giữ lại được dấu vết của sự trái ngược cổ xưa đó. Xin đơn cử một vài ví dụ theo C.Abel (1884).
Tiếng La Tinh có những tiếng nhiều nghĩa như sau:
Altus (cao, sâu, xa) và sacer (thiêng liêng và sự địa ngục).
Và đây là một vài ví dụ về những sự thay đổi trong chữ gốc :
Clamere (kêu); clam (yên lặng, dịu dàng, bí mật); siccus (khô) và succus (nước, đường).
Và tiếng Đức:
Stimme (giọng nói và stumm (câm).
So sánh những sinh ngữ có họ hàng với nhau chúng ta có nhiều thí dụ cùng loại:
- Anh : lock (khoá); Đức: loch (lỗ), lucke (lỗ hổng).
- Anh: cleave (bổ đôi); Đức: klenben (dán).
Tiếng Anh without theo nghĩa đen là với và không, bây giờ chỉ còn dùng một nghĩa: không; tiếng with không những chỉ được dùng theo nghĩa thêm vào (với) mà còn dùng với nghĩa loại trừ (sau straction) thí dụ như những chữ withdraw (rút lại, rút đi) withhold (từ chối, ngăn cản). Tiếng Đức wieder cũng thế.
Một điểm đặc biệt khác trong công việc xây dựng cũng có một điểm tương tự trong việc phát triển ngôn ngữ. Trong tiếng cổ Ai Cập cũng như trong một vài thứ tiếng trẻ hơn từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác cùng một tiếng, cùng một nghĩa có thể được diễn tả bằng những thanh âm trái ngược, ví dụ như những thí dụ sau đây lấy trong tiếng Đức và tiếng Anh:
Topt (dọ) – pot. Boat (tàu thuỷ) – tub. Hurry (vội vã) – Ruhe (nghỉ) – Balken (kèo) – Kloben (củi); wait (đợi) – tawen.
So sánh tiếng La Tinh và tiếng Đức ta có:
Capere (cầm) – packen; ren (thân) – Niere.
Những sự trái ngược như thế này xảy ra trong giấc mơ bằng nhiều cách khác nhau. Chúng ta đã biết những sự trái ngược về nghĩa, sự thay thế nghĩa bằng tiếng phản nghĩa.Trong giấc mơ có những sự đảo lộn trái ngược những tình trạng, những liên quan hai người hình như mọi sự đều diễc ra trong một thế giới đảo ngược. Trong giấc mơ nhiều khi chính chú thỏ rừng lại săn người thợ săn. Sự tiếp diễn của các biến cố khởi đầu nguyên nhân cho giấc mơ nhiều khi lại đi sau những biến cố đáng lẽ phải đến sau. Đúng như trong những vở chèo trong hội chợ người anh hùng ngã lăn ra chết trước khi tiếng súng nổ trong hậu trường. Có những giấc mơ trong thứ tự các biến cố bị đảo lộn hoàn toàn thành ra muốn hiểu người ta phải bắt đầu bằng biến cố xảy ra trước mắt. Hẳn các bạn còn nhớ những điều đã được trình bày trong chương nói về tính chất tượng trưng của giấc mơ, trong đó chúng tôi đã trình bày rằng nhảy xuống nước cũng đồng nghĩa với từ dưới nước đi lên, nghĩa là sinh ra hay cho ra đời cũng thế thôi, trèo thang hay xuống thang cũng có nghĩa như nhau. Người ta nhìn thấy dễ dàng đâu là những cái lợi mà sự biến dạng của giấc mơ có thể có được vì sự tự do biểu diễn này.
Những điểm đặc biệt này của công việc xây dựng phải được coi như cổ lỗ lắm. Chúng gắn liền vào với những lối diễn tả cổ xưa, những ngôn ngữ và chữ viết thời cổ, cũng gặp những khó khăn mà sau này chúng ta sẽ nói đến.
Để kết luận, chúng ta cần đưa ra một vài nhận xét phụ. Trong công việc xây dựng, tất nhiên giấc mơ phải biến đổi những ý tưởng tiềm tàng thành những hình ảnh cụ thể, có tính cách thị giác càng tốt. Vậy mà những ý tưởng này lại bắt đầu xuất hiện bằng những hình ảnh cụ thể; những vật liệu của chúng, giai đoạn đầu tiên của chúng là những cảm giác về giác quan hay nói đúng hơn là những hình ảnh kỷ niệm của các cảm giác đó. Chỉ mãi về sau những tiếng nói mới được gắn liền vào các hình ảnh và nối lại thành những ý. Vậy công việc xây dựng làm cho các ý tưởng phải đi thụt lùi, và trong sự thụt lùi này tất cả những cái gì mà sự phạt triển các hình ảnh kỷ niệm và sự biến đổi này thành ý tưởng đã đem đến cho giấc mơ như những cái gì mới thu thập được đều phải biến mất hết.
Công việc xây dựng trong giấc mơ diễn tiến như thế đó. Sự quan tâm của chúng ta đối với giấc mơ rõ ràng phải thụt lùi về sau hậu trường. Nhưng vì giấc mơ rõ ràng là điều mà chúng ta biết rõ hơn cả một cách trực tiếp, nên chúng ta sẽ dành cho nó một ít nhận xét nữa.
Giấc mơ rõ ràng dưới mắt chúng ta quả có mất đi nhiều phần quan trọng, điều này hết sức tự nhiên. Giấc mơ này có xếp đặt thành một khối hay không bị phân chia thành những mảnh nhỏ đối với chúng ta không phải là điều quan hệ. Ngay cả khi giấc mơ đó có một ý nghĩa gì chăng nữa thì ý nghĩa đó cũng bắt nguồn ở sự biến dạng của giấc mơ và không liên quan gì đến giấc mơ tiềm tàng như là bề mặt của một toà nhà thờ bên Ý, liên quan với sự kiến trúc và đồ bản của nhà thờ đó. Trong một vài trường hợp, bề mặt của giấc mơ có thể có một ý nghĩa lấy từ những yếu tố không biến dạng hay chỉ hơi biến dạng một chút nằm trong những ý tưởng tiềm tàng. Một khi chúng ta chưa giải thích được giấc mơ, chưa hiểu được mức độ của sự biến dạng thì chúng ta không thể thấy rõ điều này được. Có một điểm nghi ngờ khi hai yếu tố trong giấc mơ có vẻ như tiến lại gần nhau đến mức hoà được vào với nhau. Từ sự kiện này người ta có thể đi đến kết luận rằng, những yếu tố tương ứng của giấc mơ tiềm tàng cũng phải xích lại gần nhau hơn, nhưng trong nhiều trường hợp khác những yếu tố kết hơp với nhau trong giấc mơ tiềm tàng lại tách rời nhau ra trong giấc mơ rõ ràng.
Chúng ta không nên giải thích một phần của giấc mơ rõ ràng bằng một phần khác, coi giấc mơ như một cái gì có mạch lạc và hợp thành một sự biểu diễn có tính cách thực tế. Trong phần lớn các trường hợp, giấc mơ giống như hòn đá ngũ sắc được kết hợp lại bằng chất xi măng, do đó những hình ảnh muôn màu xuất hiện trong đó không phải là hình ảnh xác thực của những đường vòng quanh những hòn đá được kết hợp lại. Thực ra cũng có một sự xây dựng thứ hai phụ thuộc có nhiệm vụ làm cho những dữ kiện trực tiếp có ngay của giấc mơ trở thành hơi có mạch lac, nhưng xếp đặt lộn xộn không thể nào hiểu được, khi cần đến những dữ kiện này có thể được bổ túc.
Đằng khác, không nên gán cho công việc xây dựng này một tầm quan trọng quá đáng và chấp nhận nó không dè dặt. Sự hoạt động của nó biến mất dần dần do những hậu quả của chính nó: nào sự cô đọng, sự di chuyển, sự hình dung một cách cụ thể, rồi xây dựng tất cả trong một công việc xây dựng thứ hai, nó chỉ làm được có thế thôi chứ không làm được gì hơn. Nhưng sự phán đoán, phê bình, ngạc nhiên, những kết luận xảy ra trong giấc mơ không bao giờ là kết quả của công việc xây dựng, rất ít khi là hậu quả của một sự suy nghĩ về giấc mơ: đó chính là những mảnh nhỏ trong giấc mơ tiềm tàng xâm nhập giấc mơ rõ ràng sau khi đã được thay đổi chút ít. Công việc xây dựng cũng không thể tạo lập được những diễn từ. Trừ vài trường hợp rất hiếm còn những điều nghe thấy trong giấc mơ thường là tiếng vang của những điều nghe thấy hay đã nói trong ngày, những điều này được đưa vào trong giấc mơ tiềm tàng như những vật liệu kích động giấc mơ. Những sự tính toán cũng không chịu ảnh hưởng của sự xây dựng; những tính toán thấy trong giấc mơ chỉ là sự xuất hiện lộn xộn của những con số, không có nghĩa gì hay chỉ là những bản cóp lại của những sự tính toán trong giấc mơ tiềm tàng. Trong những điều kiện đó, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu thấy người ta bớt quan tâm đến sự xây dựng này, dành sự chú ý cho những ý tưởng tiềm tàng do giấc mơ rõ ràng phát hiện ra trong một tình trạng bị biến dạng nhiều hay ít. Nhưng người ta sẽ lầm to nếu cứ theo chiều hướng đó mà cho rằng những ý tưởng tiềm tàng có thể được coi như chính giấc mơ rồi đem áp dụng cho nó những sự kiện thuộc về giấc mơ rõ ràng. Thực là kỳ khôi khi người ta lạm dụng những dữ kiện của môn Phân tâm học để lẫn lộn những sự việc này. Giấc mơ không là gì khác hơn là hậu quả của công việc xây dựng; vậy giấc mơ chính là hình thức mà công việc xây dựng bao quanh những ý tưởng tiềm tàng.
Công việc xây dựng là một sự hoạt động có tính chất đặc biệt chưa từng thấy trong đời sống tinh thần. Những sự cô đọng, di chuyển biến hoá thụt lùi của những ý tưởng để trở thành những hình ảnh cụ thể chính là những điều hết sức mới mẻ do công của môn phân tâm học tìm ra. Ngoài ra dựa vào sự kiện tương tự như công việc xây dựng, chúng ta nhận thấy có những dây liên lạc chặt chẽ giữa môn phân tâm học và các môn học khác, như sự tiến hoá của ngôn ngữ và tư tưởng, Các bạn chỉ thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề này sau khi biết rằng những sự hoạt động của công việc xây dựng sau này sẽ là nguồn gốc của sự phát sinh ra các chứng bệnh thần kinh.
Tôi biết là chúng ta chưa thể duyệt lại những điều ích lợi mà môn Tâm lý học có thể rút ra những nhận xét này. Tôi chỉ muốn các bạn để ý đến những bằng chứng mới của chúng ta về sự có mặt của những hoạt động tinh thần vô thức (những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ chẳng khác gì hơn là những sự hoạt động tinh thần vô thức này), những cánh cửa mà sự giải thích giấc mơ đã mở cho những người nào muốn khảo cứu về đời sống tinh thần vô thức này.
Và bây giờ, tôi phân tích cho các bạn xem một vài thí dụ nhỏ về các giấc mơ để hiến cho các bạn những chi tiết những điều mà từ trước tới nay tôi chỉ nói về đại thể để sửa soạn trước, hay chỉ nói một cách khái quát và vắn tắt thôi.
12. Phân tích một vài ví dụ về giấc mơ
Các bạn đừng thất vọng nếu thay vì đưa cho các bạn xem những giấc mơ đẹp đẽ to tát, tôi lại chỉ đưa ra những mảnh giải thích nho nhỏ thôi. Chắc các bạn cho rằng sau bao nhiêu sự sửa soạn vừa qua, các bạn có quyền được tôi tin cậy hơn và sau khi đã giải thích bao nhiêu giấc mơ rồi, chúng ta đã có thể tập trung được nhiều giấc mơ với đầy đủ bằng chứng về những điều đã được trình bày về công việc xây dựng giấc mơ và những ý tưởng trong đó. Các bạn có lý lắm, nhưng thực ra có nhiều lý do khiến tôi không làm hài lòng các bạn được.
Trước hết các bạn nên biết rằng chưa có người nào coi việc giải thích giấc mơ là công việc chính của mình. Khi nào người ta có dịp giải thích giấc mơ? Khi người ta giải thích một giấc mơ cho một vài người bạn hay suy nghĩ về giấc mơ của chính mình để tự luyện về kỹ thuật phân tâm học: nhưng phần lớn là người ta giải thích giấc mơ của những người bị bệnh thần kinh được đem điều trị theo phương pháp phân tâm học. Những giấc mơ này là những tài liệu rất tốt và không hề kém giá trị so với giấc mơ của những người khỏe mạnh bình thường, nhưng vì bận chữa bệnh nên nhiều khi chúng ta bị bó buộc phải theo phương pháp điều trị mà bỏ qua rất nhiều giấc mơ khác. Có nhiều giấc mơ xảy ra trong lúc điều trị không thể đem giải thích hoàn hảo được. Vì chúng xuất hiện trong toàn thể những vật liệu về tinh thần mà chúng ta chưa hiểu, chúng ta chỉ hiểu được một khi việc chữa chạy đã xong xuôi. Đưa những giấc mơ đó ra tức là đưa ra hết những bí mật của một người bệnh, điều này không hợp ý muốn của chúng ta vì chúng ta muốn khảo sát giấc mơ là chỉ cốt để sửa soạn trong việc trị bệnh thần kinh.
Nói đến đây chắc các bạn không muốn xét những giấc mơ bệnh hoạn này nữa mà muốn xét đến giấc mơ của các bạn hay giấc mơ của những người bình thường. Nhưng điều đó không làm được vì nội dung phức tạp của chúng. Chúng ta không thể tự thú với chúng ta hay thú với người khác, hay làm cho họ thú với chúng ta với một tấm lòng thành thực mà môn phân tâm học đòi hỏi bởi vì những giấc mơ đó sẽ đưa ra ánh sáng những điều bí ẩn của chính đời mình. Ngoài sự khó khăn về việc thu thập tài liệu còn có một sự khó khăn khác. Giấc mơ đối với chính người nằm mơ đã là một sự kỳ lạ rồi, tất nhiên đối với những người không biết gì về người nằm mơ. Nó phải có vẻ kỳ lạ hơn nữa chứ. Văn chương của chúng ta không hề thiếu những giấc mơ đã được giải thích hoàn hảo và đầy đủ. Chính tôi cũng đã cho in một số phân tích trong khi trị liệu. Thí dụ tốt đẹp nhất về sự giải thích phải là sự phát triển của Otto Rank. Đó là hai giấc mơ của một người con gái có dính dáng. Trình bày về nội dung của hai giấc mơ đó chỉ cần có hai trang nhưng khi giải thích lại cần tới 76 trang. Muốn làm công việc đó cho các bạn xem, tôi phải cần tới 6 tháng. Khi bắt tay vào việc giải thích một giấc mơ hơi dài, bị biến dạng nhiều hay ít, chúng ta phải làm nhiều việc đến nỗi sẽ mất rất nhiều công trình mà rút cục chẳng làm ai hài lòng cả. Vì thế tôi yêu cầu nên tạm bằng lòng với những mảnh nhỏ của các giấc mơ những người bị bệnh thần kinh, chúng ta sẽ có thể khảo sát từng yếu tố một. Dễ chứng minh nhất là những ký hiệu tượng trưng của giấc mơ và một vài đặc điểm của sự biểu diễn thụt lùi của giấc mơ. Với mỗi giấc mơ được phân tích, tôi sẽ cho các bạn rõ những lý do nào đã làm cho tôi đưa chúng ra.
1. Đây là một giấc mơ chỉ gồm có hai hình ảnh vắn tắt. Dù hôm đó là thứ bảy ông bác người nằm mơ vẫn hút thuốc lá. Một người đàn bà hôn và vuốt ve anh như con.
Về hình ảnh thứ nhất: người nằm mơ cho ta biết anh ta là Do Thái và bác anh ta cũng là Do Thái, một con người ngoan đạo không bao giờ phạm tội nặng đến nỗi hút thuốc lá trong ngày thứ bảy. Về hình ảnh thứ hai, anh ta chỉ nghĩ đến má anh. Giữa hai hình ảnh này tất nhiên phải có liên quan gì. Nhưng là liên quan nào? Vì ông bác không thể nào hút thuốc lá trong ngày thứ bảy được, chúng ta chỉ có thể cho rằng giữa hai hình ảnh đó có một sự liên lạc về thời gian. “Nếu bác tôi hút thuốc trong ngày thứ bảy thì tôi mới để cho má tôi hôn tôi và vuốt ve là điều không thể có được cũng như việc hút thuốc lá trong ngày thứ bảy đối với người Do Thái ngoan đạo. Chắc các bạn còn nhớ là tôi đã nói rằng trong khi xây dựng giấc mơ, tất cả những sự liên lạc giữa những ý tưởng đó đều bị tiêu hủy, và những ý tưởng này chỉ còn xuất hiện dưới hình thức của những vật liệu nguyên chất, công việc của sự giải thích chính là tạo lập lại những dây liên lạc đó.
2. Sau khi cho xuất bản những cuốn sách về giấc mơ, tôi gần như đã trở thành một nhà chuyên môn về giấc mơ, được nhiều người viết thư đến hỏi và kể chuyền giấc mơ cho nghe, để hỏi ý kiến. Tôi xin cảm tạ những ai đã hiến cho tôi những vật liệu đủ dùng trong công việc giải thích hay tự ý đề nghị giải thích cho tôi nghe. Đây là một giấc mơ do một sinh viên ở Munich cung cấp năm 1910. Tôi đơn cử giấc mơ này để chứng minh rằng một giấc mơ khó hiểu nếu người nằm mơ không chịu cho biết những điều cần biết. Tôi cũng cần nói là các bạn sẽ lầm to nếu cho rằng sự giải thích giấc mơ trong đó tính cách tương trưng được nhấn mạnh là cách giải thích lý tưởng và cho cách giải thích bằng những sự lầm tưởng giữa các ý xuất hiện bất thường trong giấc mơ là không quan trọng.
13 tháng 7 năm 1910. Vào một sáng tôi nằm mơ như sau: Tôi đang đi xe đạp trong thành phố thì có một con chó đen chạy theo xe và cắn vào gót chân. Tôi đi một quãng nữa rồi xuống xe, ngồi trên một bậc thềm rồi tìm cách chống lại con chó trong lúc nó vẫn sủa (tôi không bị khó chịu vì chó cắn và vì cái cảnh sau đây). Ngay trước mặt tôi có hai bà ăn mặc rất lịch sự nhìn tôi chế nhạo. Đúng lúc đó tôi tỉnh dậy và thấy giấc mơ thực sự rõ ràng.
Những ký hiệu tượng trưng trong trường hợp này chẳng giúp được gì. Nhưng người nằm mơ cho ta biết: tôi yêu một cô gái gặp ngoài phố nhưng chưa có dịp để tôi làm quen với cô ta. Làm quen được với cô ta thì tôi sẽ thích ghê lắm vì riêng tôi rất thích giống vật và có cảm tưởng rằng cô ta cũng thích. Anh thêm rằng nhiều lần anh ta can thiệp không cho chó cắn nhau ngoài phố và điều đó thường làm cho nhiều người đi đường ngạc nhiên. Cô gái luôn luôn đi ngoài phố với một con chó. Có điều là trong giấc mơ rõ ràng chúng ta không thấy có người con gái mà chỉ có con chó thôi. Có thể là hai bà đứng tuổi có vẻ chế nhạo anh chàng được gọi ra để thay thế người con gái. Những điều anh ta cho biết sau đó không đủ để giải thích. Việc anh chàng đi xe đạp trong giấc mơ có thể cắt nghĩa được lần nào gặp người yêu anh ta cũng đi xe đạp.
3. Khi một người mất đi một người thân, người ta thường nằm mơ thấy xuất hiện những hình ảnh lẫn lộn về sự tin chắc là người thân đã chết song với lòng mong muốn người đó sống lại. Có lúc người chết, dù đã chết vẫn tiếp tục sống vì không biết rằng mình chết, nếu biết thì chắc sẽ chết: có lúc anh ta nửa chết, nửa sống, hai trạng thái này được phân biệt bằng những dấu hiệu đặc biệt. Chúng ta sẽ lầm to nếu cho là những giấc mơ này vô lý; trong giấc mơ cũng như trong tiểu thuyết con người sống lại không phải là chuyện đặc biệt và vô lý. Những giấc mơ này có thể giải thích dễ dàng được và lòng ham muốn người chết sống lại được diễn tả bằng những phương tiện thực kỳ lạ. Tôi phân tích cho các bạn xem một giấc mơ loại này, một giấc mơ có vẻ kỳ khôi, vô lý nhưng sau khi phân tích xong ta mới thấy có những chi tiết mà những điều đã học từ trước có thể giúp ta đoán trước ra được. Đó là giấc mơ của một người mất cha từ nhiều năm.
Người cha đã chết nhưng được đào lên và trông không được tươi lắm. Ông ta sống lại từ khi được đào lên, và người nằm mơ dù dùng đủ mọi cách để cho ông ta không biết rằng mình sống. (Đến đây giấc mơ chuyển qua chuyện khác không liên can gì đến sự việc trên).
Người cha đã chết: Điều đó chúng ta biết, việc ông ta được đào lên không đúng với sự thực, cũng không đúng với những điều diễn ra sau đó trong giấc mơ. Nhưng người nằm mơ kể là lúc đưa đám ma về anh ta bị đau răng. Anh ta muốn chữa đau răng theo lễ nghi của giáo hội Do Thái: “Khi nào anh ta bị đau răng, anh cứ việc đi nhổ đi”. Anh ta liền đến phòng răng. Nhưng nha sĩ bảo răng chưa cần nhổ. “Tôi cho thuốc vào chỗ đau, mai ông trở lại tôi sẽ nhổ sau”.
Người nằm mơ cho rằng chính sự nhổ răng đó là sự đào mả người cha lên.
Người nằm mơ có lý không? Không hoàn toàn đúng, vì không phải cái răng sẽ bị nhổ nhưng là phần răng bị chết. Nhưng điều không chính xác này xảy ra luôn luôn trong giấc mơ. Người nằm mơ đã là một sự cô đọng coi việc người cha chết cũng giống như cái răng bị chết nhưng vẫn còn giữ được. Vậy không có gì đáng ngạc nhiên nếu trong giấc mơ có điều vô lý vì làm sao áp dụng vào người cha những điều áp dụng cho cái răng được. Vậy điểm chung giữa cái răng và người cha nằm nơi nào? Vì chính điểm chung này chính là sự cô đọng trong giấc mơ rõ ràng.
Giữa người cha và cái răng phải có một liên quan gì vì người nằm mơ nói rằng mỗi khi nằm mơ thấy gãy răng là có một người thân bị chết.
Điều mê tín này không đúng. Vì thế nên chúng ta lấy làm lạ khi thấy sự mê tín này có mặt trong mọi mảnh nhỏ của nội dung giấc mơ.
Dù không yêu cầu, người nằm mơ cũng nói cho ta nghe câu chuyện về bệnh tật và cái chết của người cha, về thái độ của mình đối với cha. Người cha bị bệnh rất lâu, tiêu tốn nhiều tiền, mất nhiều công săn sóc. Nhưng người con không hề phàn nàn, không hề tỏ ra sốt ruột hay mong muốn những sự chấm dứt. Anh ta khoe là rất có hiếu, lòng hiếu của người Do Thái và bao giờ cũng tin theo luật Do Thái. Các bạn có nhận thấy có sự mâu thuẫn giữa những ý tưởng gắn liền vào giấc mơ không? Giữa người cha và cái răng có sự đồng nhất. Đối với cái răng anh chàng muốn tuân theo luật Do Thái đem nhổ ngay khi bị đau và khó chịu. Đối với cha thì anh ta cũng lại tuân theo luật Do Thái dạy anh ta không được phàn nàn về số tiền đem tiêu trong sự chữa chạy và về những điều khó chịu gây ra, phải kiên nhẫn chịu đau khổ và không được thù ghét đối tượng gây ra những điều khó chịu. Sự giống nhau giữa hai đối tượng là cái răng và người cha đáng lẽ sẽ hoàn toàn nếu anh ta đối với cha cũng có những ý nghĩ như đối với cái răng nghĩa là đem nhổ ngay, mong muốn cho cha chết để chấm dứt những điều đau khổ, chấm dứt cuộc sống vô ích và tốn tiền đó đi.
Tôi tin chắc rằng đó mới chính là tình cảm thực của anh chàng này đối với người cha và những lời hiếu thảo ầm ĩ của anh chỉ có mục đích làm anh quên những kỷ niệm đó thôi. Trong những tình trạng đó, thường thường người ta muốn cho cha chết nhưng lòng mong muốn này đeo cái mặt nạ hiếu thảo: cái chết nếu có đến cũng chỉ làm cha thôi đau khổ thôi. Các bạn cũng nên nhận ra rằng ở đây chúng ta đã vượt quá giới hạn của những ý tưởng tiềm tàng. Sự can thiệp của những ý tưởng này chỉ có tính cách vô thức trong thời gian ngắn, trong thời gian giấc mơ thành hình thôi; nhưng những tình cảm chống đối người cha có lẽ đã có từ lâu trong tình trạng vô thức, có thể là từ ngày còn nhỏ, nhưng chỉ xuất hiện trong ý thức một cách rụt rè từ khi người cha bị bệnh. Chúng ta cũng có thể nói chắc chắn như thế đối với ý tưởng tiềm tàng đang giúp vào sự thành lập nội dung giấc mơ. Trong giấc mơ không có một dấu hiệu nào về sự chống đối người cha. Nhưng nếu đi tìm nguồn gốc của sự chống đối đó bằng cách quay trở lại thời thơ ấu, chúng ta sẽ thấy sự chống đối đó bắt nguồn từ lòng sợ hãi người cha, lòng sợ hãi này kìm hãm lòng ham muốn tình dục của đứa bé, rồi vẫn tiếp tục cấm đoán ngay trong tuổi dậy thì nhân danh những lý do về xã hội. Điều này đúng trong thái độ của người nằm mơ đối với cha: lòng yêu cha bị giảm rất nhiều bởi lòng kính trọng và sợ hãi bắt nguồn ở sự kìm hãm những hoạt động tình dục của người cha đối với người con.
Những chi tiết khác trong giấc mơ rõ ràng có thể được cắt nghĩa bằng sự thủ dâm. Câu: người cha có vẻ không được tươi; có thể ám chỉ những lời nói của nha sĩ rằng mất đi một cái răng không phải là điều làm cho người ta thích thú. Nhưng cũng có thể diễn tả vẻ mặt không được tươi của anh chàng trẻ tuổi bị kìm hãm trong tình dục trong tuổi dậy thì. Người nằm mơ thở phào khi có thể gán cái vẻ mặt không được tươi của mình cho người cha và sự việc này xảy ra nhân danh một hành động đảo ngược của công việc xây dựng giấc mơ đã nói ở trên. “Người cha vẫn tiếp tục sống”: câu này có thể vừa là lòng mong ước của người con vừa có thể là lời hứa của nha sĩ rằng cái răng có thể không bị nhổ. Nhưng đề nghị “Người nằm mơ dùng đủ mọi cách cho người cha không biết rằng mình sống” có tính cách hết sức tế nhị vì câu đó có mục đích cho chúng ta biết là người cha đã chết. Nhưng điều kết luận có ý nghĩa nhất là do sự thủ dâm vì thực là dễ hiểu khi người nằm mơ muốn dấu không cho cha biết về đời sống tình dục của mình. Các bạn nên nhớ rằng chúng ta đã nhiều lần dùng sự thủ dâm và những hình phạt do sự thủ dâm gây nên để cắt nghĩa những giấc mơ trong đó có sự đau răng xuất hiện. Bây giờ thì hẳn các bạn đã thấy một giấc mơ khó hiểu như thế đã được thành hình trong trường hợp nào. Có nhiều phương sách đã được đem dùng: sự cô đọng kỳ lạ, giả tạo, di chuyển tất cả ý tưởng ra khỏi giấc mơ tiềm tàng, tạo ra những sự việc dùng để thay thế sâu xa nhất, cũ kỹ nhất trong thời gian giữa những ý tưởng đó.
4. Chúng ta đã có dịp nói đến những giấc mơ tầm thường, không có gì vô lý và kỳ lạ hết, nhưng đối với các giấc mơ đó người ta đã đặt câu hỏi: Tại sao người ta lại mơ những sự tầm thường, vô nghĩa lý như thế?
Tôi kể cho các bạn nghe những giấc mơ loại này: ba giấc mơ của người con gái trong một đêm.
a. Cô gái đi trong phòng khách và đụng đầu vào một cái đèn treo trên trần nhà, gây nên một vết thương chảy máu.
Không có một sự việc gì xẩy ra trong ngày có thể làm nhớ lại sự việc đó cả. Những điều cô gái cho chúng ta biết lại theo một hướng khác: “Tóc tôi rụng nhiều quá nên hôm qua má bảo là nếu tóc cứ rụng mãi như thế thì chẳng mấy chốc đầu tôi sẽ nhẵn nhụi như mông đít”. Cái đầu xuất hiện để tượng trưng cho phần trái lại trong thân thể. Cái đèn treo có tính cách tượng trưng rõ ràng: tất cả những thứ gì dài đều tượng trưng cho dương vật đàn ông. Vậy vết thương là do một dương vật gây ra trong phần trong của thân thể. Điều này có thể có nhiều nghĩa; nhưng điều khác do chính người nằm mơ cho biết chứng tỏ rằng, những cô gái chưa đến tuổi thường cho rằng sở dĩ có kinh nguyệt là vì có giao hợp với đàn ông.
b. Cô ta trông thấy trong vườn nho một cái hố sâu do cây bị đào lên gây ra. Cô ta còn nhận ra rằng cái cây không còn ở đó. Cô ta tưởng là đã nhìn thấy cái cây trong giấc mơ nhưng thực ra câu nói của cô chỉ cốt diễn tả một ý khác ý nghĩa tượng trưng. Giấc mơ này gắn liền vào với lòng tin tưởng của nhiều cô gái bé rằng lúc đầu cơ quan sinh dục của con gái cũng giống như của con trai, nhưng vì sau này bị thiến đi (cái cây bị nhổ đi) nên mới có hình thức hiện thời.
c. Cô gái đứng trước một ngăn kéo trong đựng những đồ dùng quen thuộc đến nỗi có một bàn tay khác nào sờ vào là cô ta biết ngay. Cái ngăn kéo giấy, cũng như mọi ngăn kéo khác, rương hay hộp là tượng trưng cho cơ quan sinh dục của đàn bà. Cô gái biết là những dấu vết do sự giao cấu để lại (hay do sự sờ mó) đều rất dễ nhận ra và từ lâu sợ có sự đó xảy ra. Tôi cho rằng ba giấc mơ này đáng cho chúng ta chú ý ở chỗ cô gái hiểu biết nhiều: cô ta nhớ lại những kết luận thơ ấu về sự bí mật của đời sống tình dục và nhưng kết luận đã tìm ra được thường làm cho cô thấy tự hào.
5. Thêm một chút tượng trưng nữa. Nhưng lần này tôi phải trình bày vắn tắt về đời sống tinh thần. Một ông vừa qua một đêm với một bà, nói về bà này như những người mẹ mà tình ái chỉ dựa trên căn bản lòng ham muốn có một đứa con. Nhưng trong sự giao hợp, vì tình trạng đặc biệt nào đó, hai người phải tìm cách ngăn cản sự thụ thai bằng cách không cho tinh khí chảy vào trong âm hộ. Sau khi giao hợp xong rồi ngủ, lúc thức dậy bà tự kể lại giấc mơ như sau:
Một sĩ quan mặc áo tơi đỏ đuổi theo bà ta trên đường phố. Bà ta bỏ chạy, trèo bậc thang nhà mình nhưng ông kia vẫn đuổi. Thở không ra hơi, bà ta chạy vào phòng, rồi khoá cửa lại. Ông kia đứng ngoài cửa và nhìn vào cửa sổ, bà ta thấy ông ngồi lên một cái ghế dài và khóc.
Tất nhiên sự đuổi nhau trong phố và trèo bậc thang tượng trưng cho sự giao cấu. Việc người đàn bà chạy vào phòng khoá cửa lại để khỏi bị bắt hình dung sự đảo ngược thường thấy trong giấc mơ: ám chỉ sự giao cấu chưa được thoả mản. Bà ta cũng di chuyển lòng buồn rầu bằng cách gán cho ông kia: trong giấc mơ bà thấy ông khóc, điều đó ám chỉ sự xuất tinh.
Chắc các bạn cũng nói rằng trong môn phân tâm học, mọi giấc mơ đều có một ý nghĩa về tình dục. Nhưng bây giờ các bạn hẳn thấy rõ là lời phán đoán đó sai lầm. Các bạn đã biết có những giấc mơ là sự thực hiện những sự ham muốn, trong đó có sự thực hiện những nhu cầu chính yếu của con người như đói khát, được tự do, có những giấc mơ về sự tiện lợi, hay sự hấp tấp, những giấc mơ về sự hà tiện, ích kỷ. Nhưng những giấc mơ đều bị biến dạng nhiều (không phải là tất cả) đều diễn tả những sự ham muốn về tình dục.
6. Ngoài ra tôi còn có một lý do đặc biệt để áp dụng sự tượng trưng trong giấc mơ. Ngay từ buổi đầu gặp gỡ tôi đã cho các bạn biết trong việc giảng dạy môn phân tâm học thực khó có thể đưa ra được những bằng chứng về những điều mình nói để gây cho sinh viên niềm tin tưởng. Hẳn đã nhiều lần các bạn thấy tôi nói đúng. Nhưng giữa những đề luận và những điều khẳng định trong môn này có những dây liên lạc chặt chẽ đến nỗi một điều đúng ở một phần nào đó cũng có thể đúng với một phần khác hay đúng với toàn thể vấn đề. Nói về môn này người ta thường cho rằng chỉ cần giơ một ngón tay ra là đủ cho môn đó nắm lấy cả bàn tay. Bạn nào đã hiểu và chấp nhận những điều giải thích về những hành vi sai lạc, muốn hợp lý với chính mình phải chấp nhận tất cả những điều giải thích khác. Vậy mà tính cách tượng trưng cho giấc mơ khiến cho chúng ta một điểm khác cũng dễ lĩnh hội như thế. Tôi kể cho các bạn nghe một giấc mơ của một người đàn bà, vợ một cảnh sát viên, chắc chắn chưa bao giờ được nghe nói đến môn phân tâm học và tính chất tượng trưng trong giấc mơ. Các bạn sẽ có dịp tự mình phán đoán xem cách giải thích bằng những ký hiệu tượng trưng cho tình dục có võ đoán hay gượng ép hay không.
“… Có người lọt vào trong nhà, bà nằm mơ lo sợ liền gọi cảnh sát. Những cảnh sát viên này, hội ý cùng hai tên trộm khác, vào trong một nhà thờ có một quả núi bên trên có rừng rậm bao phủ. Cảnh sát viên đội cái mũ, đeo một cái cổ cồn và mặc một cái áo tơi. Bộ râu đen ngòm. Hai thằng trộm đi cùng với cảnh sát viên quấn cái tạp dề theo hình cái bao. Giữa nhà thờ và quả núi có một con đường. Hai bên đường có nhiều cỏ và bụi rậm càng lên cao càng dầy và đến đỉnh núi thì thành cả một khu rừng”.
Các bạn hẳn nhận thấy dễ dàng những ký hiệu tưởng tượng đem dùng. Ba người cùng đi tượng trưng cho cơ quan sinh dục đàn ông. Còn phong cảnh, nhà thờ quả núi tượng trưng cho cơ quan sinh dục đàn bà. Những bậc thang tượng trưng cho sự giao cấu. Quả núi trong giấc mơ cùng một tên với tên trong môn phẫu cơ thể học: núi Vénus.
7. Thêm một giấc mơ nữa cần được giải thích bằng tượng trưng nhưng lần này do chính người nằm mơ giải thích bằng mọi ký hiệu tuy không biết gì về công việc giải thích giấc mơ hết, đây là một trường hợp đặc biệt không biết đã xảy ra trong những điều kiện nào.
“Anh ta đi chơi với cha trong một nơi chắc chắn là công viên thì có trông thấy nhà thuỷ tạ với một trái bóng đã hết hơi đằng trước cửa. Cha anh hỏi trái bóng dùng làm gì: anh hơi ngạc nhiên về câu hỏi đó nhưng cũng trả lời. Hai người đi tới một cái sân to bên trên có trải một tấm tôn lớn. Người cha muốn lấy một miếng tôn nhưng còn nhìn xung quanh xem có ai thấy không. Anh bảo cha là chỉ cần cho người gác biết là muốn lấy bao nhiêu tôn đi cũng được. Từ sân đến một cái hố có bọc da như một ghế bành, gần đó có một cái cầu thang. Đầu hố có một nền đất rộng rồi lại đến một cái hố nữa”.
Chính người nằm mơ giải thích: “Nhà thuỷ tạ chính là cơ quan sinh dục của tôi. Trái bóng bị buộc chặt trước cửa là dương vật của tôi, dương vật này ít lâu nay không cương cứng lên nhanh như trước nữa. Nói cho rõ ràng hơn: nhà Thuỷ tạ chính là cái mông đít mà chú bé cho là thuộc bộ phận sinh dục. Chỗ phồng ra trước nhà Thuỷ tạ chính là hai bìu dái”.
Trong giấc mơ người cha hỏi những thứ đó dùng làm gì, nghĩa là những bộ phận sinh dục dùng làm gì. Chúng ta có thể đảo ngược lại tình thế mà không sợ bị lầm lẫn, nghĩa là trong giấc mơ chính đứa bé đã hỏi cha, vì trong đời thực ít khi người lớn hỏi như thế. Do đó chúng ta phải coi như câu hỏi có ý nghĩa là: “Nếu tôi hỏi cha tôi về bộ phận sinh dục thì…” Trong nhưng dòng sau chúng ta sẽ nói tiếp về giấc mơ này.
Cái sân có trải tấm tôn phải có một ý nghĩa tượng trưng: sân đó ở trong nhà người cha, nơi ông dùng làm chỗ buôn bán. Muốn kín đáo hơn tôi đã thay hàng hoá trong công việc buôn bán bằng miếng tôn, ngoài ra không thay đổi gì những điều người nằm mơ đã nói. Người nằm mơ giúp cha trong việc buôn bán đã tỏ ra khó chịu về lối kiếm lời của cha. Vì thế nên chúng ta phải hiểu câu nói trên như sau: “Nếu tôi hỏi cha tôi về cơ quan sinh dục thì ông sẽ lừa đối tôi như đã lừa dối khách hàng”. Người cha muốn lấy đi một ít tôn, điều này biểu hiện một ý định bất lương, nhưng người nằm mơ lại gán cho hành vi đó một ý nghĩa khác: đó là sự thủ dâm. Điều này cho biết rồi, nhưng cách giải thích này cũng phù hợp với sự kiện là sự thủ dâm thường được diễn tả bằng điều trái lại (con bảo cha là nếu muốn lấy một miếng tôn thì phải xin phép đàng hoàng người gác). Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi người con gán cho cha những hành vi thủ dâm cũng như đã gán cho cha những câu hỏi về cơ quan sinh dục lúc đầu. Còn cái hố thì chính là âm hộ. Còn xuống thang cũng như lên thang tượng trưng cho sự giao cấu.
Người nằm mơ kể lại là có một cái hố rồi đến một nền rộng, rồi đến một cái hố nữa: những chi tiết này thuộc riêng về người nằm mơ. Sau khi đã giao cấu nhiều lần anh ta lúc này thấy khó chịu khi phải tiếp tục giao cấu và hy vọng là có thể dùng thuốc chữa chạy lấy lại được sinh lực hồi xưa.
8. Hai giấc mơ sau đây của một người ngoại quốc rất muốn theo thuyết đa thê. Tôi lại để chứng tỏ các bạn là luôn luôn cái “tôi” của người nằm mơ xuất hiện trong giấc mơ dù có khi được nguỵ trang. Những chiếc rương tượng trưng cho đàn bà.
a. Anh ta đi du lịch, hành lý đem theo trong một chiếc xe. Trong hành lý có nhiều rương, có hai rương đỏ và đen vào loại rương biếu trong việc quảng cáo. Anh ta nói để tự an ủi: “Những chiếc rương này chỉ đi tới ga thôi”.
Thực tế anh ta đi du lịch với nhiều hành lý nhưng trong khi chữa bệnh, kể lại nhiều chuyện đàn bà. Hai chiếc rương đen chính là hình ảnh của hai người đàn bà tóc đen giữ một vai trò quan trọng trong đời anh. Một trong hai người muốn đi theo anh tới Viên, tôi khuyên anh không nên để cho bà ta đi.
b. Một quang cảnh khu Thuế quan: một người bạn đồng hành với anh ta mở rương ra và vừa nói, vừa hút thuốc là: Bên trong không có gì hết. Nhân viên Thuế quan làm ra vẻ tin anh, nhưng vẫn khám và tìm thấy một thứ đồ cấm. Anh ta liền nói: “Chả còn làm gì được”. Chính người nằm mơ là khách du lịch, tôi là nhân viên Thuế quan. Tuy thường thường thành thực trong khi nói chuyện với tôi, lần này anh không muốn cho tôi biết là anh vừa giao du với một bà có lẽ vì cho rằng tôi biết bà này. Anh ta gán cho người bạn tình trạng khó chịu của một người bị bắt chợt đã nói dối, và chính lý do đó anh không có mặt trong giấc mơ.
9. Đây là một ký hiệu tương trưng mà tôi chưa nói đến:
Anh ta gặp cô em gái đi cùng với hai người bạn là chị em ruột. Anh chìa tay bắt tay hai cô bạn nhưng không bắt tay em gái.
Giấc mơ này không liên can gì đến một biến cố nào cả. Anh ta nhớ lại một thời xa xưa khi hai người bạn của cô em gái chưa có bộ ngực đồ sộ. Vậy hai người bạn của cô em chính là hai cái vú mà anh muốn bóp quý hồ không phải là vú của em anh.
10. Đây là một ví dụ về cái chết trong giấc mơ.
Anh ta đi trên một chiếc cầu ao, dốc, cùng với hai người quen, nhưng khi thức dậy không còn nhớ tên nữa. Đột nhiên hai người này biến mất nhường chỗ cho một người gầy như một bộ xương, đội một cái mũ, mặc bộ quần áo bằng vải. Anh hỏi người đó có phải là điện tín viên không? Không! Có phải là người đánh xe không? Cũng không. Anh tiếp tục đi, trong lòng lo sợ phập phồng, và ngay khi thức dậy rồi anh vẫn có cảm giác là chiếc cầu sẽ sụp đổ và anh bị lao xuống vực.
Những người mà ta cho là không biết hay quên tên thường là những người rất thân. Người nằm mơ có một em trai và một em gái; nếu anh mong cho họ chết tất nhiên anh lo sợ phập phồng. Về người mang điện tín anh cho rằng những người đó luôn luôn mang đến những tin tức xấu. Theo đồng phục thì người đó cũng có thể là người đi thắp đèn ngoài phố, nhưng những người này vừa đi thắp đèn vừa đi tắt đèn y như tử thần tắt ngọn lửa của cuộc sống. Về người đánh xe, anh nghĩ đến môt bài thơ của Uhland về cuộc du hành trên mặt biển của vua Charles anh nhớ lại cuộc du hành nguy hiểm trên mặt biển với hai người bạn trong đó anh đóng vai vua Charles trong bài thơ. Về cây cầu, anh nhớ lại một tai nạn quan trọng xảy ra trước đó, nhớ lại luôn câu ngạn ngữ tối nghĩa: đời sống là một cây cầu treo.
11. Một thí dụ khác về hình dung tượng trưng của cái chết, có một người đến thăm anh và để lại một tấm danh thiếp có viền đen.
12. Giấc mơ sau đây có dính dáng đến bệnh thần kinh, sẽ được các bạn chú ý đến theo nhiều phương diện.
Anh ta du lịch bằng xe lửa. Xe dừng lại giữa đồng. Anh tưởng là một tai nạn, phải tìm cách tự cứu, đi khắp mọi toa tàu và giết hết những người mình gặp: người lái xe, người đốt than, v.v…
Giấc mơ này liên quan đến câu chuyện của một người bạn. Trên một toa xe lửa bên Ý có một người điên được chở đi trong một toa riêng, nhưng người ta vô ý đã để cho một người khách vào trong toa đó. Người điên giết người hành khách. Người nằm mơ tưởng mình là người điên và chứng minh hành vi chính đáng của mình bằng ý nghĩ anh ta phải giết tất cả những nhân chứng. Nhưng sau đó anh ta tìm được một lý do khác để cắt nghĩa đoạn đầu giấc mơ. Hôm trước, trong rạp hát, anh có gặp lại người yêu rồi bỏ vì ghen. Vì lòng ghen lên quá cao nên anh cho là nếu lấy nàng có lẽ anh sẽ trở thành điên mất. Điều đó có nghĩa: anh cho rằng nàng sẽ lẳng lơ đến nỗi anh phải giết hết những người nào mình gặp trên đường mình đi vì ghen với hết mọi người. Chúng ta đã biết là việc đi hết phòng này qua phòng khác trong giấc mơ tượng trưng cho đám cưới.
Về việc toa tàu ngừng lại giữa đồng, và về ý nghĩ sợ rằng có một tai nạn xảy ra, anh ta kể lại là một hôm đi xe lửa, xe này quả có dừng lại ở giữa hai ga thực. Một bà ngồi bên cạnh bảo anh là ngừng lại như thế, thế nào cũng xảy ra chuyện hai xe đâm nhau và trong trường hợp đó, muốn cho chắc chỉ có một việc giơ hai chân lên trời. Những cái chân giơ lên trời này cũng giữ một vai trò trong nhiều cuộc đi chơi về đồng quê với bạn gái trong lúc đầu yêu nhau. Đó là một bằng chứng khác để tỏ rằng anh phải điên lắm mới làm lễ thành hôn với nàng. Vậy mà theo những điều tôi biết về tình trạng anh ta thì tôi có thể quả quyết rằng ngay trong lúc này ý định làm điều điên rồ là thành hôn với người con gái đó vẫn còn lởn vởn trong đầu anh.
13. Những điểm cổ lỗ, tính cách ấu trĩ trong giấc mơ
Chúng ta hãy quay trở lại kết quả theo dõi, chịu ảnh hưởng của sự kiểm duyệt, công việc xây dựng đưa cho những ý tưởng tiềm tàng một phương sách diễn tả mới. Những ý tưởng tiềm tàng chỉ là những ý tưởng hữu thức của chúng ta khi thức dậy, những ý tưởng mà ta biết rõ. Phương sách diễn tả mới có nhiều điểm không hiểu. Chúng ta đã nói rằng, phương sách đó quay trở lại những tình trạng có từ lâu, ngày nay không còn nữa, của sự mở mang trí thức, của tiếng nói biểu diễn, của những liên quan có tính cách tượng trưng, có thể của những điều kiện có từ trước khi ngôn ngữ của chúng ta được mở mang. Chính vì thế nên chúng ta gọi phương sách diễn tả này là phương sách cổ lỗ, đi thụt lùi.
Từ nhận xét này, các bạn có rút ra kết luận nếu chúng ta khảo sát công việc xây dựng này, chúng ta có thể biết được những dữ kiện quý báu về những buổi đầu của sự mở mang trí thức của con người. Tôi cũng hy vọng thế, nhưng công việc này chưa ai làm cả. Thời tiền sử mà công việc xây dựng giấc mơ đưa chúng ta quay về có hai mặt: trước hết có thời tiền sử cá nhân, thời thơ ấu; sau đó là thời tiền sử của sự tiến hóa của sự mở mang các cơ quan trong người. Biết đâu một ngày kia người ta lại chẳng minh định được rõ ràng xem trong sự hoạt động của tinh thần tiềm tàng có những phần nào thuộc về thời tiền sử của sự mở mang các cơ quan trong thân thể, đó là một điều không phải là không làm được. Ví dụ như chính vì thế cho nên chúng ta mới được quyền coi sự tượng trưng hóa như một gia tài của môn khảo cứu về sự mở mang của các cơ quan trong thân thể.
Nhưng đó không phải là tính cách độc nhất cổ lỗ của giấc mơ. Kinh nghiệm hẳn đã cho các bạn biết về chứng mất trí nhớ trong thời thơ ấu. Tôi muốn nói là những năm đầu tiên trong đời sống, vào khoảng năm, sáu, hay tám tuổi gì đó thường không để lại dấu vết trong trí nhớ của mình. Có nhiều người cho rằng mình nhớ được hết mọi sự từ đầu đến cuối trong đời mình, những trường hợp không nhớ được gì cả bao giờ cũng nhiều hơn. Sự kiện này đáng lẽ phải làm cho mình ngạc nhiên mới phải. Năm hai tuổi đứa bé biết nói; chẳng mấy lúc nó biết hướng về trạng thái tinh thần phức tạp, biết diễn tả tình cảm bằng những cử chỉ và lời nói mà sau này nó sẽ quên đi và được người ta nhắc lại cho biết. Trí nhớ của đứa bé trong những năm đầu tiên tất nhiên đỡ nặng nề, mềm mỏng, bén nhạy hơn trong những năm sau đó, ví dụ như năm thứ tám chẳng hạn, và do đó nhớ những cảm giác và sự việc hơn. Vả lại không có gì cho phép ta nghĩ rằng công việc của trí nhớ là một công việc cao cả và khó khăn. Nhiều khi có những người có một trình độ trí thức thấp nhưng lại có trí nhớ rất tốt.
Thêm một điểm đặc biệt nữa: đời sống trí nhớ trong những năm đầu tiên của thời thơ ấu không đầy đủ: có những kỷ niệm nổi bật lên trên, những kỷ niệm tương ứng với những cảm giác cụ thể, không cần nhớ lại lâu. Những kỷ niệm về những biến cố sau đó được lựa chọn trong trí nhớ: điều gì quan trọng được giữ lại, điều gì không quan trọng bị bỏ đi. Đối với những kỷ niệm trong thời thơ ấu thì không thể. Chúng không tương ứng với những biến cố quan trọng trong cuộc đời, dù theo quan niệm của đứa trẻ. Những biến cố đó tầm thường vô nghĩa lý đến nỗi nhiều khi ta tự hỏi tại sao ta lại không quên đi nhỉ? Tôi đã khảo cứu nhiều về sự mất trí nhớ trong thời thơ ấu và sự việc tại sao lại có nhiều kỷ niệm còn được giữ lại trong thời đó, mặc dầu đứa bé quên hết những điều khác. Tôi đi đến kết luận là ngay cả đối với trẻ con, chỉ những kỷ niệm quan trọng mới không bị mất đi thôi. Chỉ có điều là những sự hoạt động tinh thần như sự cô đọng, sự di chuyển mà điều quan trọng được thay thế bằng những yếu tố kém quan trọng hơn trong trí nhớ. Vì sự kiện đó tôi gọi những kỷ niệm trong thời thơ ấu là những kỷ niệm bao bọc bề ngoài, chỉ cần phân tích kỹ lưỡng là chúng ta lôi được nhưng cái gì che giấu dưới cái bao đó ra.
Trong việc trị bệnh bằng phân tâm học, chúng ta luôn luôn phải lấp những chỗ trống trong các kỷ niệm về thời thơ ấu. Trong nhiều trường hợp, chúng ta đã được những kết quả khả quan, nghĩa là gợi lại được những điều xảy ra trong thời thơ ấu đã bị quên đi. Những cảm giác gợi lại được đó không bao giờ bị quên nữa, mà chỉ lùi dần vào trong phạm vi của vô thức, lúc nào cũng tiềm tàng trong đó, rất khó nhận biết. Nhưng cũng có khi chúng bất thần từ trong vô thức hiện ra, nhất là trong giấc mơ. Do đó, đời sống giấc mơ tìm được cách lọt vào trong vô thức để thấy lại những kỷ niệm của thời thơ ấu. Chúng ta có nhiều ví dụ rất hay trong văn chương, chính tôi cũng có thể hiến cho các bạn một thí dụ như thế. Đêm nọ tôi nằm mơ thấy một người nào đó giúp cho tôi một việc gì, tôi thấy người đó rõ ràng trước mắt. Đó là một người thấp, béo, mắt chột hai vai to, đầu rụt. Tôi cho rằng đó là một ông thầy thuốc. Dạo đó mẹ tôi còn sống, tôi hỏi mẹ tôi xem ông bác sĩ trong thành phố quê hương của tôi mà tôi rời bỏ khi mới có ba tuổi ra sao thì mẹ tôi cho biết rằng ông ta người thấp, béo, cổ rụt, vai so, mắt chột. Mẹ tôi cũng nói cho tôi biết ông thầy thuốc đã chăm sóc cho tôi trong trường hợp nào. Việc tìm lại những vật liệu bị quên lãng trong những năm đầu tiên của thời thơ ấu chính là một đặc điểm của tính cách cổ lỗ của giấc mơ.
Chúng ta cũng có thể giải thích như trên đối với một trong các điều bí ẩn khác mà từ trước tới nay chúng ta chưa giải thích được. Tôi đã trình bày cùng các bạn rằng, giấc mơ thường bị kích động bởi những sự ham muốn tình dục xấu xa, nhiều khi không thể kìm hãm được, đến nỗi giấc mơ phải chịu sự kiểm duyệt và biến dạng đi. Khi chúng ta giải thích những giấc mơ đó lại cho người nằm mơ nghe thì người này ầm ầm phản đối; ngay cả khi họ chấp nhận sự giải thích của chúng ta, họ cũng tự hỏi không hiểu sao lại có thể có sự ham muốn như thế, thực trái hẳn với tính tình, khuynh hướng và tình cảm thường ngày của họ. Chúng ta phải lập tức cho họ biết ngay nguồn gốc của những sự ham muốn đó. Những sự ham muốn xấu xa như thế thường bắt nguồn từ trong dĩ vãng, nhiều khi rất gần. Chúng ta có thể chứng minh được rằng ngày xưa những ham muốn đó có được người nằm mơ biết đến. Chúng ta cắt nghĩa cho một bà nghe giấc mơ của bà ta có nghĩa là bà mong muốn cho cô con gái 17 tuổi của bà chết đi, và bà công nhận rằng quả có một thời bà muốn như thế. Đứa bé được sinh ra sau một sự thành hôn gượng ép và đã đi đến sự tan vỡ. Trong lúc có mang đứa bé, trong một cuộc cãi lộn với chồng, bà ta đã lấy tay đấm thùm thụp vào bụng hy vọng là sẽ làm cho cái bào thai bị chết. Có biết bao nhiêu người mẹ bây giờ yêu con như điên, nhưng ngày xưa đã có một thời không hề mong muốn có con, mong cho đứa con chết trước khi sinh, biết bao nhiêu bà đã bắt đầu có những hành động tội ác nhưng may mắn không xảy ra sự gì. Vì thế lòng ham muốn một người mình yêu quý chết đi thường bắt nguồn từ buổi đầu gặp gỡ với người đó.
Chúng ta giải thích cho một người cha biết rằng giấc mơ của ông có nghĩa là ông mong muốn đứa con trai cả mà ông yêu quý chết đi, ông ta công nhận là có một thời quả ông có mong muốn như thế thực. Trong lúc đứa bé còn bú, ông không hài lòng về cuộc hôn nhân, thường tự nhủ là nếu đứa bé chết đi ông sẽ tự do hơn và lợi dụng được sự tự do đó một cách dễ chịu hơn. Trong nhiều trường hợp thù ghét người ta cũng tìm thấy nguyên do tương tự. Những kỷ niệm này có liên can đến những sự kiện thuộc về dĩ vãng, đã từng giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, đã từng được ý thức bởi đương sự. Các bạn sẽ nói rằng, khi thái độ của chúng ta đối với một người nào đó không thay đổi hay tỏ ra luôn tốt đẹp thì những sự ham muốn và những giấc mơ nói trên không thể có được. Tôi chấp nhận ý kiến đó, nhưng nhắc các bạn rằng các bạn cần để ý đến ý nghĩa của giấc mơ do sự giải thích đưa ra chứ không nên để ý đến sự biểu thị bằng lời nói của người nằm mơ. Có thể trong giấc mơ rõ ràng cái chết của một người thân hiện ra dưới một hình thức ghê sợ, nhưng trong thực tế lại có một ý nghĩa khác hẳn hay chỉ dùng người mình yêu quý để thay thế cho một người khác thôi.
Nhưng một trạng thái giống như thế cũng nêu lên một vấn đề quan trọng hơn nhiều. Các bạn sẽ nói đúng là dù lòng mong muốn này có thực chăng nữa và được khẳng định bằng kỷ niệm gợi lên chăng nữa thì đó cũng không thể là một cách giải thích. Lòng mong muốn này biến mất từ lâu, chỉ còn ở trong vô thức như một kỷ niệm tầm thường chẳng có gì quan trọng, chẳng có kích thích được ai. Thực tế chẳng có gì chứng tỏ rằng sự kích thích này có đủ quyền lực mạnh mẽ. Thế tại sao lòng mong muốn này lại xuất hiện trong giấc mơ? Vấn đề đặt ra rất đúng. Việc trả lời câu hỏi này sẽ đưa ta đi rất xa, bắt buộc chúng ta phải có một thái độ nhất định đối với nhiều điểm quan trọng trong thuyết về giấc mơ. Trong lúc này chúng ta nên tự giới hạn trong khung cảnh bài học này thôi, chúng ta đã chứng minh được rằng lòng ham muốn bị kìm hãm đóng vai trò của sự kích động trong giấc mơ và tiếp tục khảo sát để xem có phải những lòng ham muốn xấu xa khác cũng bất nguồn ở dĩ vãng của đương sự hay không?
Điểm cần để ý nhất là người nằm mơ thường ích kỷ nên lòng ham muốn luôn luôn gạt bỏ mọi trở lực trên đường phát triển, và chính lòng ham muốn này đã là nguyên nhân phát sinh ra giấc mơ. Mỗi khi có kẻ nào ngăn trở ta trên con đường ta đi, giấc mơ luôn luôn tìm cách tiêu hủy kẻ đó dù kẻ đó là cha, mẹ, anh em, chồng vợ, v.v… Sự độc ác này của loài người thường làm cho ta nằm mơ và ta không sẵn sàng chấp nhận những kết quả tìm ra rằng những sự ham muốn đó bắt nguồn trong dĩ vãng, chúng ta sẽ tìm thấy ngay thời gian của sự việc đó đối với chúng ta sẽ không còn làm chúng ta ngạc nhiên nữa. Chính trong những năm đầu tiên của cuộc đời mà đứa bé chỉ yêu có mình nó thôi, mãi sau này nó mới biết yêu người khác và hy sinh một phần nào cái tôi của nó. Nếu đứa bé có yêu một người nào ngay trong những năm đầu tiên đó chỉ là vì nó cần đến người đó, nghĩa là vì mục đích ích kỷ. Trong thực tế, chính lòng ích kỷ đã dạy cho nó biết yêu mến.
Chúng ta chỉ cần so sánh thái độ của đứa bé đối với anh chị em và đối với cha mẹ là thấy ngay. Đứa bé thường không yêu anh em hay chị em, cho anh chị em là người cạnh tranh với mình, thái độ này kéo dài nhiều năm sau có khi ngoài cả tuổi dậy thì nữa. Thỉnh thoảng nó cũng tỏ ra âu yếm anh em, chị em nhưng thường thì lòng thù địch bao giờ cũng vẫn đi trước. Ví dụ như thái độ của những đứa bé chừng hai tuổi rưỡi đến năm tuổi khi có em mới chào đời, thái độ đối với em thường là không thân thiện. Luôn luôn chúng nói: "Con không muốn có em, cho chim đem nó đi”. Sau đó nó dùng đủ mọi cách để làm giảm giá trị của em, kể cả những cách ác độc. Nếu giữa hai đứa bé không xa nhau lắm về tuổi, khi đời sống tinh thần dồi dào hơn, đứa bé thường sẵn sàng ghét em hơn. Nhưng khi hơn nhau khá nhiều tuổi thì đứa bé có thể có cảm tình với em một phần nào, không phải vì yêu em mà vì em nó có cái gì hay hay, coi em như một con búp bê song; khi cách nhau tám tuổi hay hơn thì đứa bé, nhất là bé gái, thường coi em như con. Nhưng nói thực, một khi trong giấc mơ người ta mong muốn cho anh em hay chị em chết đi, lòng mong muốn này thường bắt nguồn trong thời thơ ấu, có khi trong một thời kỳ chậm hơn trong cuộc sống chúng.
Giữa trẻ con với nhau ít khi không có sự va chạm mạnh mẽ, lý do là đứa nào cũng muốn chiếm độc quyền tình yêu của bố mẹ, chiếm giữ các đồ chơi và một chỗ ngồi. Những tình cảm thù nghịch này xảy ra đối với những đứa lớn cũng như đứa bé. Chính B. Shaw cũng nói: nếu có một người nào mà một người đàn bà Anh ghét hơn ghét mẹ thì đó chính là người chị cả. Sự nhận xét này làm chúng ta ngỡ ngàng. Chị em ghét nhau là một chuyện còn chấp nhận được, tại sao mẹ con lại có thể ghét nhau được.
Cố nhiên là đứa bé bao giờ cũng có cảm tình với cha mẹ hơn là đối với anh chị em: việc cha mẹ con cái không yêu nhau trái với quy luật tự nhiên là sự thù ghét giữa anh chị em. Nhưng trong thực tế người ta thường thấy tình yêu giữa cha mẹ và con cái thường không đạt tới mức lý tưởng mà xã hội đòi hỏi, và nếu không bị kìm hãm bởi lòng hiếu thảo thì sự thù ghét đó có thể xuất hiện được. Lý do của sự thù ghét này ai cũng biết: đó là cái động lực thường làm cho những người cùng giống xa nhau, ví dụ như con gái xa mẹ, và con trai xa cha. Con gái thường cho mẹ làm nhụt chí của mình và đại diện xã hội để kìm hãm bản năng tình dục của mình. Nhiều khi giữa hai mẹ con có cả một sự thù ghét cạnh tranh. Giữa cha và con trai sự giao thiệp còn căng thẳng hơn nữa. Con trai thường coi bố như tượng trưng cho những sự bó buộc của xã hội mà nó chịu không nổi. Người cha thường làm nhụt ý chí của người con, ngăn trở không cho nó thỏa mãn tình dục hay hưởng thụ của cải. Ví dụ như người con muốn nối ngôi của cha thường mong cho cha chết càng sớm càng hay. Trái lại sự giao thiệp giữa cha và con gái hay giữa mẹ và con trai thân thiện hơn nhiều. Nhất là giữa mẹ và con trai thì lòng yêu tinh khiết hơn, bớt ích kỷ hơn.
Chắc các bạn tự hỏi tại sao tôi lại nói với các bạn những điều tầm thường ai cũng biết đó nhỉ? Bởi vì luôn luôn người ta không chấp nhận điều đó và cho rằng lý tưởng xã hội luôn luôn được tôn trọng. Nhà tâm lý học cũng như những kẻ sống sượng đều nói sự thực cả, nhưng người ta thích để cho những nhà tâm lý học nói hơn. Người ta cứ muốn cho rằng lý tưởng xã hội đạt được trong đời sống thực hàng ngày, nhưng các nhà thi văn hay kịch sĩ lại được tự do nói đến sự vi phạm của xã hội đối với lý tưởng đó.
Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong giấc mơ người ta thường tỏ ý muốn tiêu diệt cha mẹ, nhất là người cùng phái với mình. Lòng ham muốn này cũng có thực trong khi ta thức, có khi trở thành cố ý khi có thể được che giấu dưới những danh từ hay nguyên cớ hợp lý hơn ví dụ như trường hợp của giấc mơ 3, trong đó lòng ham muốn cho cha chết đi được giải thích hợp lý là nếu người cha còn sống chăng nữa thì cũng chỉ kéo dài thời gian đau đớn vô ích mà thôi.
Nhưng ít khi chỉ có lòng thù ghét không thôi, nhiều khi lòng thù ghét này nấp sau tình cảm âu yếm hơn và dồn ép thù ghét vào trong vô thức phải chờ giấc mơ mới xuất hiện, được phát triển đến một mức độ quá đáng rồi lại cả trong trường hợp không có lý do gì cả trong đời sống thực, và người nằm mơ không bao giờ chịu công nhận, chúng ta vẫn thấy lòng mong đợi cho người thân chết đi xuất hiện. Ta có thể giải thích điều này bằng cách nói rằng, lòng mong đợi đó đã bắt rễ ngay từ những năm đầu tiên của cuộc sống trong thời thơ ấu và bây giờ mới xuất hiện ra ánh sáng, nhất là đối với những người cùng phái.
Nguyên do vẫn nằm trong sự cạnh tranh về đời sống tình dục. Ngay từ khi còn nhỏ, đối với mẹ đứa bé đã có một lòng yêu đặc biệt: cho rằng mẹ mình là của riêng mình và người cha thường bị coi như một người cạnh tranh, luôn luôn xâm phạm đến của riêng của nó: đối với đứa con gái cũng thế, coi mẹ như một người tranh giành tình yêu của nó đối với người cha. Sự quan sát sẽ cho chúng ta biết rõ vào tuổi nào đứa bé sẽ có cái mặc cảm mà ta gọi là mặc cảm Oedipe, bởi vì trong con người Oedipe có hai sự ham muốn giằng co; muốn giết cha và lấy mẹ. Tôi không khẳng định rằng mặc cảm Oedipe có thể cắt nghĩa được hết thái độ giữa cha mẹ và con cái vì sự thực thái độ này phức tạp hơn nhiều. Vả lại ngay mặc cảm Oedipe cũng có mức độ khác nhau, có thể bị thay đổi, nhưng dù sao mặc cảm này cũng là một yếu tố rất quan trọng, luôn luôn có mặt trong đời sống tinh thần của trẻ con, chúng ta thường không gán cho nó một giá trị đúng mức hơn là gán cho nó một ảnh hưởng và những hậu quả quá đáng. Nếu đứa bé phản ứng lại mặc cảm Oedipe thì chính do cha mẹ gây ra bởi vì do sự khác giống mà ra, một khi tình vợ chồng bị suy giảm thì người cha bao giờ cũng yêu con gái hơn và người mẹ bao giờ cũng yêu con trai hơn và trái lại cũng thế.
Loài người không hề biết ơn môn phân tâm học khi môn này tìm ra được mặc cảm Oedie. Mặc cảm này đã gặp sự chống đối rất dữ dội của xã hội, mọi người nhao nhao cho rằng mặc cảm đó không có thực. Tôi vẫn giữ nguyên lập trường cho rằng chẳng có gì đáng phủ nhận và phản đối cả. Mình phải tập cho quen dần với mặc cảm đó vì ngay chính người Hy Lạp cũng công nhận rằng đó là điều không thể tránh được. Điều thú vị là nếu xã hội kết tội mặc cảm Oedipe thì xã hội lại để cho các nhà thi văn mặc tình khai thác nó. O. Rank đã chứng minh là mặc cảm này đã hiến cho văn chương kịch nghệ những đề tài thực cao đẹp, tuy nó bị thay đổi gói ghém dưới hình thức này hay hình thức khác, giống như những sự biến dạng mà sự kiểm duyệt đã thi hành đối với giấc mơ. Mặc cảm này có cả trong những người nằm mơ không có cơ hội gì để chống đối với cha mẹ, mặc cảm này liên can chặt chẽ đến một mặc cảm khác mà chúng ta gọi là mặc cảm bị thiến, một phản ứng đối với những sự bó buộc mà người cha thường đưa ra để ngăn cản sự phát triển đời sống tình dục của con trai.
Khảo sát về đời sống tinh thần trẻ con, chúng ta có thể dùng lý luận tương tự để giải thích nguồn gốc của những sự ham muốn bị cấm chỉ khác thường xuất hiện trong giấc mơ: đó là những khuynh hướng quá đáng về tình dục và chúng ta tìm ra những sự kiện sau đây: người ta lầm lớn khi cho rằng trẻ con không có đời sống tình dục và đời sống này chỉ phát hiện sau khi đến tuổi dậy thì, khi cơ quan sinh dục phát triển hoàn toàn. Trái lại, đứa trẻ có một đời sống tình dục rất dồi dào khác đời sống tình dục về sau trên nhiều phương diện. Điều ta gọi là trụy lạc trong đời sống người lớn khác với tình trạng bình thường ở chỗ: vượt qua giới hạn của sự khác biệt giữa người và vật, giới hạn của sự kinh tởm, sự loạn luân, sự đồng tính luyến ái, sự dùng các cơ quan khác trong người thay thế vào cơ quan tình dục để thỏa mãn dục tình. Những giới hạn đó không có ngay từ đầu nhưng được phát triển mạnh sau đó theo đà tiến triển của nhân loại. Đứa trẻ chưa biết đến những giới hạn đó, không biết rằng giữa người và vật có cả một vực thẳm không vượt qua được, chỉ mãi sau này nó mới biết người ta tự hào khi khác với giống vật. Lúc đầu nó chẳng thấy kinh tởm gì phân của nó, mãi sau này nhờ giáo dục nó mới thấy kinh tởm. Lúc đầu nó cho những cơ quan sinh dục chẳng có gì khác nhau cả. Những ham muốn tình dục của nó xuất hiện đối với những người gần nó nhất: cha, mẹ, anh chị em, những người săn sóc nó. Trong đứa trẻ thấy xuất hiện một điều mà mãi sau này người lớn thường làm khi tình dục lên đến tột độ: đó là việc đứa trẻ tìm cách thỏa mãn tình dục không phải bằng cơ quan sinh dục mà bằng những chỗ khác trong thân thể cũng có tác dụng làm cho nó có cảm giác giống như cơ quan sinh dục.
Vậy ngay trong đứa bé, chúng ta thấy có một sự trụy lạc dưới nhiều hình thức, nếu những khuynh hướng này chỉ xuất hiện một cách rụt rè đó là vì chúng chưa đạt đến một cường độ mạnh như về sau khi nhiều tuổi hơn, và cũng là vì càng về sau, những khuynh hướng này càng bị giáo dục kìm hãm, dồn ép không cho xuất hiện. Sự kìm hãm này từ địa hạt thực tế qua địa hạt lý thuyết, người lớn nhắm mắt làm ngơ trước sự phát hiện tình dục của đứa bé rồi tìm cách bóp nghẹt phương diện khác của sự phát triển khuynh hướng tình dục: sau đó phủ nhận hết mọi sự là điều tiện nhất. Chính những kẻ phủ nhận này lại là những người tìm hết mọi cách để kìm hãm bản năng tình dục của đứa trẻ nhưng lại vẫn cho rằng đứa trẻ không có đời sống tình dục trụy lạc như thế. Mỗi khi trẻ được thả lỏng, hay bị ảnh hưởng gì xấu xa là lập tức nó có những cử chỉ về tình dục. Nhiều người cho rằng những sự đó cũng chẳng có hại gì và đứa bé chẳng chịu trách nhiệm gì trước tòa án tập quán xã hội và luật pháp. Tuy nhiên, những sự đó vẫn có thực, có tầm quan trọng riêng biệt, như những triệu chứng của đời sống, báo hiệu về đời sống tình dục về sau, cho ta biết nhiều điều về đời sống tình dục của trẻ con và luôn cả nhân loại nói chung. Vì vậy nếu chúng ta tìm thấy những sự ham muốn trụy lạc đó trong các giấc mơ bị biến dạng của chúng ta chính là vì giấc mơ đã đưa chúng ta lùi lại về thời thơ ấu.
Trong những ham muốn bị cấm chỉ này, chúng ta phải đặc biệt chú ý đến những sự loạn luân. Ai cũng biết thái độ của xã hội đối với sự loạn luân như thế nào rồi và xã hội đã làm gì để kìm hãm nó. Người ta đã tìm đủ mọi lý do cắt nghĩa sự chống đối sự loạn luân. Có người cho rằng sự cấm chỉ loạn luân chỉ là hình dung của sự lựa chọn của thiên nhiên, vì sự giao cấu giữa những người cùng máu mủ luôn luôn đưa đến sự suy giảm những đặc tính của xã hội. Có người cho rằng chính vì sống quá gần nhau mà người cùng máu mủ không hề nghĩ đến sự giao cấu với nhau ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng trong cả hai trường hợp, sự loạn luân đều bị tự động gạt bỏ ra ngoài lề xã hội mà không cần phải cấm đoán nghiêm khắc gì cả. Chính những sự cấm đoán này mới chứng tỏ sự có mặt của sự loạn luân, công cuộc khảo sát của môn phân tâm học đã chứng tỏ rằng, tình ái loạn luân chính là hành vi đầu tiên của tình ái và chỉ sau này nó mới gặp sức chống đối gây nên bởi tâm lý người đời.
Bây giờ ta hãy kiểm điểm lại những dữ kiện do sự khảo sát tâm lý trẻ con cung cấp có thể giúp chúng ta tìm hiểu giấc mơ. Không những chúng ta thấy rằng những vật liệu trong đời sống trẻ con đã bị quên lãng lại xuất hiện trong giấc mơ, chúng ta còn thấy đời sống tinh thần của đứa bé với mọi đặc điểm như sự ích kỷ, những khuynh hướng loạn luân, v.v…. đều sống mãi trong vô thức để xuất hiện trong giấc mơ, và giấc mơ đã đưa chúng ta quay lại thời thơ ấu. Do đó chúng ta khẳng định rằng cái vô thức trong đời sống tinh thần không gì khác hơn là giai đoạn ấu thơ của đời sống này. Nhận xét này sẽ giảm bớt cảm giác ngỡ ngàng của mọi người khi thấy sao loài người lại có thể xấu xa đến như thế. Những điểm xấu xa này chỉ là những yếu tố đầu tiên, sơ khởi, trẻ con của đời sống tinh thần, những yếu tố thường thấy trong hoạt động của đứa bé nhưng không được để ý đến vì chúng quá nhỏ, hay vì chúng ta cho là không quan trọng nên không để ý đến. Lùi lại đằng sau như thế, giấc mơ vạch cho chúng ta xem những điều xấu xa trong bản tính chúng ta. Nhưng thực ra điều này không đúng hẳn, chúng ta không đến nỗi xấu xa như những điều do sự giải thích giấc mơ đưa ra.
Chính vì những khuynh hướng trong giấc mơ chỉ là những cái gì còn sót lại của thời thơ ấu, chính vì giấc mơ đã biến chúng ta thành những đứa bé con về phương diện tinh thần và tình cảm nên chúng ta chẳng có lý do gì xấu hổ về những điều giải thích trong giấc mơ. Nhưng sự hợp lý không phải là tất cả đời sống tinh thần của chúng ta, sự không hợp lý cũng chiếm giữ một phần trong đó nên chúng ta thường xấu hổ mà không có lý do gì cả. Vì thế nên chúng ta mới kiểm duyệt giấc mơ và xấu hổ, khó chịu khi thấy những sự ham muốn bị cấm chỉ lọt vào ý thức của chúng ta, trong một vài trường hợp chúng ta còn xấu hổ cả đối với những giấc mơ bị biến dạng làm như chúng ta hiểu chúng lắm. Các bạn hãy nhớ lại cái bà lúc trước nằm mơ thấy mình đề nghị cung cấp ái tình. Vì vậy vấn đề không thể được coi là đã giải quyết, cũng có thể là nếu cứ tiếp tục khảo sát giấc mơ, biết đâu chúng ta lại chẳng tìm ra một đường lối để phán xét bản tính của con người.
Đến giai đoạn cuối của cuộc khảo sát, chúng ta đứng trước hai dữ kiện khởi đầu cho hai điều bí ẩn, nghi ngờ khác. Điều thứ nhất: sự thụt lùi do sự xây dựng giấc mơ gây ra không chỉ có tính chất hình thức mà còn có tính chất nội dung nữa. Sự thụt lùi này không những diễn tả những ý tưởng của chúng ta một cách sơ khai mà còn thức dậy những đặc tính của đời sống tinh thần cổ lỗ, sự nổi bật cũ kỹ của cái tôi, những khuynh hướng cổ sơ của đời sống tình dục, những căn bản cũ kỹ của trí thức nếu quả thực chúng ta gán cho những sự việc kể trên cái tên ký hiệu tượng trưng. Điều thứ hai: tất cả những cái gì có tính cách trẻ con đó ngày xưa quan trọng, nhưng ngày nay lùi vào vô thức. Cái gì chỉ tiềm tàng nhất thời không còn là vô thức nữa: vô thức họp thành một phạm vi tinh thần đặc biệt, có những khuynh hướng riêng biệt, cách diễn tả đặc biệt, và những sự hoạt động về tinh thần riêng cho phạm vi này thôi. Nhưng những ý tưởng tiềm tàng do sự giải thích giấc mơ tìm ra không thuộc phạm vi này: ngay trong khi thức chúng ta cũng có thể có những ý tưởng tiềm tàng đó. Vậy mà những ý tưởng đó đều vô thức cả. Làm sao giải quyết được sự mâu thuẫn đó? Có lẽ chúng ta cần phân biệt: một cái gì đó thoát ra từ ý thức của chúng ta - ta có thể gọi là dấu vết của những biến cố trong ngày - chia đôi những đặc tính ra, liên kết với một cái gì thuộc phạm vi vô thức, rồi giấc mơ thoát ra từ sự liên kết đó. Công việc xây dựng trong giấc mơ diễn biến giữa hai loại ý tưởng đó. Ảnh hưởng của vô thức đối với dấu vết của những biến cố trong ngày cung cấp điều kiện của sự thụt lùi. Đó là điều đầy đủ nhất mà chúng ta thu lượm được về tính chất của giấc mơ trong khi chờ đợi thám hiểm được những phạm vi tinh thần khác. Nhưng đã đến lúc chúng ta phải gán cho tính chất vô thức của những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ một cái tên khác để phân biệt với những yếu tố vô thức trong phạm vi tính chất ấu trĩ của giấc mơ.
Tất nhiên chúng ta có thể đặt câu hỏi sau đây: cái gì đã làm cho tinh thần thụt lùi như thế trong giấc mơ? Tại sao tinh thần lại không hủy bỏ được những sự kích động gây rối trong giấc ngủ mà không cần đến sự thụt lùi này? Và nếu tinh thần này vì sự kiểm duyệt phải thay đổi bộ mặt của các sự hình dung trong giấc mơ bằng cách quay về dĩ vãng thì việc gì nó phải làm sống lại những khuynh hướng tinh thần, những sự ham muốn, những đặc tính lỗi thời, nghĩa là thêm vào tính cách hình thức của sự thụt lùi một tính cách nội dung nữa. Câu trả lời duy nhất thỏa đáng đó là phương tiện duy nhất để hợp thành một giấc mơ, và về phương diện tác động thì không thể quan niệm khác hơn về sự hủy diệt những sự kích động gây rối trong giấc mơ. Nhưng trong tình trạng hiểu biết hiện thời của chúng ta, chúng ta chưa có quyền trả lời như thế.
Không biết tôi có phải nhắc lại cho các bạn biết về con đường mà chúng ta đã đi qua không? Không biết tôi có cần nhắc lại là vì sự áp dụng kỹ thuật của chúng ta đã đặt chúng ta trước sự biến dạng của giấc mơ mà chúng ta đã có ý định tạm gác sự biến dạng sang một bên để tìm trong những giấc mơ trẻ con những dữ kiện có tính quyết định về tính chất giấc mơ không? Tôi có cần phải nhắc lại là sau khi đạt được những kết quả này chúng ta đã tấn công sự biến dạng trong giấc mơ và loại dần từng khó khăn một đi không? Bây giờ thì chúng ta bị bắt buộc phải công nhận rằng những kết quả đạt được theo con đường thứ nhất không phù hợp với những kết quả trong con đường thứ hai. Do đó chúng ta phải kiểm điểm lại hai loại kết quả này cho phù hợp với nhau.
Trong cả hai trường hợp chúng ta đều biết rằng công việc xây dựng giấc mơ chính là một sự biến đổi những ý tưởng thành những biến cố ảo giác. Sự biến đổi đó là cả một điều bí mật, nhưng đó là một vấn đề thuộc phạm vi tâm lý học tổng quát không liên can gì đến chúng ta. Nhưng giấc mơ trẻ con đã cho thấy là công việc xây dựng giấc mơ có mục đích dùng sự thực hiện một ham muốn để huỷ diệt một sự kích động gây rối trong giấc mơ. Chúng ta không thể nói như thế đối với sự biến dạng của giấc mơ trước khi có thể giải thích được sự biến dạng đó. Nhưng ngay từ lúc đầu chúng ta đã chờ đợi để có thể đem những giấc mơ bị biến dạng về cùng một phương diện với những giấc mơ trẻ con. Kết quả thứ nhất của sự chờ đợi đó là chúng ta đã tìm ra rằng mọi giấc mơ đều là những giấc mơ trẻ con, hoạt động với những vật liệu trẻ con, những khuynh hướng và diễn biến trẻ con. Vì vấn đề biến dạng của giấc mơ được coi là đã giải quyết xong, chúng ta cần xét đến vấn đề xem sự thực hiện những ham muốn có thể áp dụng được cho những giấc mơ bị biến dạng hay không?
Trong phần trên chúng ta đã đem nhiều giấc mơ ra giải thích nhưng không để ý đến sự thực hiện các điều ham muốn. Tôi tin rằng hơn một lần các bạn đã tự hỏi: “Sự thực hiện các điều ham muốn đi đến đâu rồi, khi giáo sư cho rằng đó chính là mục đích của việc xây dựng?”. Câu hỏi đó có nhiều ý nghĩa: đó là câu hỏi của tất cả mọi người dù không chuyên môn. Nhân loại thường ghê sợ những sự mới mẻ trong bình diện tri thức, cho nên sự mới mẻ nào cũng bị thu hẹp lại thành một cuốn phim rất nhỏ. Trong lý thuyết về giấc mơ, sự thực hiện các điều ham muốn chính là cái phim thu nhỏ đó. Vừa nghe nói giấc mơ là sự thực hiện các điều ham muốn, người ta đã vội vã hỏi ngay xem sự thực hiện đó ở chỗ nào? Và cả ngay khi vừa mới đặt vấn đề xong người ta đã trả lời bằng một lời phủ nhận. Sực nhớ lại những kinh nghiệm của chính mình trong đó người ta gặp bao nhiêu sự khó chịu lo âu vì những giấc mơ, người ta tuyên bố ngay rằng thuyết của phân tâm học về giấc mơ không đúng sự thực. Chúng ta trả lời dễ dàng rằng trong những giấc mơ bị biến dạng, sự thực hiện những điều ham muốn thường không rõ ràng, cần phải tìm ra cho nên không thể chứng minh được trước khi đem ra giải thích giấc mơ. Chúng ta cũng biết rằng những điều ham muốn trong những giấc mơ thường là những sự ham muốn bị cấm đoán, bị kiểm duyệt dồn ép, chính là nguyên nhân của sự biến dạng, lý do cho sự can thiệp của kiểm duyệt. Nhưng khó làm cho những người không chuyên môn hiểu được là trước khi giải thích giấc mơ người ta không thể đi tìm sự thực hiện các điều ham muốn được. Họ sẽ luôn luôn quên điều đó. Thái độ của họ đối với vấn đề thực hiện các điều ham muốn thực ra chỉ là kết quả của sự kiểm duyệt trong giấc mơ. Thái độ đó thay thế cho những sự ham muốn bị kiểm duyệt và là hậu quả của sự phủ nhận sự có mặt của những điều ham muốn này.
Tất nhiên chúng ta còn phải giải thích những giấc mơ nặng nề, lo sợ phập phồng, những ác mộng. Đây là lần đầu tiên chúng ta đứng trước vấn đề tình cảm trong giấc mơ, một vấn đề quan trọng nhưng chưa thể đem ra phân tích ở đây được. Nếu quả giấc mơ là sự thực hiện các điều ham muốn thì không thể có các giấc mơ nặng nề được: những nhà phê bình không chuyên môn có vẻ như đã nói đúng. Nhưng có ba điều phức tạp mà họ không để ý tới.
Điều thứ nhất: công việc xây dựng có thể không thành công hoàn toàn do đó có một số cảm giác nặng nề từ những ý tưởng tiềm tàng đi qua giấc mơ rõ ràng. Sự phân tích sẽ có nhiệm vụ chứng minh rằng, những ý tưởng tiềm tàng này nặng nề hơn những ý tưởng trong giấc mơ rõ ràng. Đến lúc đó chúng ta phải công nhận rằng công việc xây dựng chưa đạt được mục đích cũng như người ta không hết khát khi thấy mình uống trong giấc mơ. Người ta tha hồ mơ thấy mình uống nước trong giấc mơ nhưng muốn cho hết khát phải thức dậy mới được. Tuy vậy giấc mơ đó vẫn là giấc mơ thực tuy sự ham muốn không được thực hiện. Chúng ta phải nói: “Dù sự ham muốn chưa được thực hiện nhưng ý đó vẫn là ý đáng khen”. Những trường hợp không thành công không hiếm. Vì những tình cảm rất dai dẳng nên công việc xây dựng rất khó khăn trong việc tìm cách thay đổi ý nghĩa của chúng. Chính vì thế mà ngay cả khi công việc xây dựng đã thành công trong việc biến những ý tưởng tiềm tàng thành những sự thực hiện ham muốn, những tình cảm nặng nề vẫn len lỏi qua giấc mơ rõ ràng. Trong những giấc mơ như thế, có sự mâu thuẫn giữa tình cảm và nội dung mà các nhà phê bình có thể cho rằng giấc mơ không phải là thực hiện những ham muốn là vì nội dung không có gì quan trọng cũng có thể có một cảm tưởng nặng nề. Để bài bác lý luận này chúng ta nói rằng chính trong những giấc mơ đó những khuynh hướng thực hiện sự ham muốn xuất hiện rõ ràng hơn hết vì ở trong tình trạng cô độc. Sở dĩ có sự lầm lẫn là vì những người không biết gì đến các chứng bệnh thần kinh tưởng tượng rằng giữa tình cảm và nội dung giấc mơ có một dây liên lạc chặt chẽ, không hiểu rằng nội dung có thể bị thay đổi mà tình cảm thì vẫn y nguyên.
Một điều rắc rối nữa quan trọng, sâu xa hơn là như sau: Sự thực hiện ham muốn chắc chắn là một điều khoan khoái. Nhưng cho ai? Tất nhiên cho kẻ nào có sự ham muốn đó. Nhưng chúng ta thấy thái độ của người nằm mơ đối với sự ham muốn này rất đặc biệt. Anh ta gạt bỏ, kiểm duyệt chúng, không muốn nghe nói đến chúng. Vậy sự thực hiện không thể gây cho anh ta một sự khoan khoái nào, trái lại nữa. Kinh nghiệm cho ta thấy là điều mâu thuẫn này xuất hiện dưới hình thức một điều lo ngại phập phồng. Người nằm mơ có vẻ như hai người tuy vẫn bị ràng buộc vào với nhau. Tôi kể cho các bạn nghe một giấc mơ thuộc loại đó. Có một bà tiên hứa hẹn thực hiện cho một cặp vợ chồng ba điều ước muốn đầu tiên của họ. Người vợ muốn có một cặp xúc xích. Loáng một cái là xúc xích có ngay trước mặt: một điều đã thực hiện. Giận dữ người chồng muốn những chiếc xúc xích đó treo toòng teng trên mũi vợ. Vừa nói xong là điều ước của người chồng thực hiện ngay. Tất nhiên người vợ chẳng khoái gì tình trạng đó. Câu chuyện tiếp tục ra sao khỏi phải nói. Vì vợ chồng tuy hai nhưng chỉ là một nên điều ước thứ ba của họ là những miếng xúc xích rời khỏi mũi người vợ. Câu chuyện này chứng tỏ rằng điều mong muốn của người này không phải là điều mong muốn của người khác mỗi khi có sự bất hoà giữa hai bên.
Bây giờ thì chẳng còn một khó khăn trong việc tìm hiểu những cơn ác mộng nữa. Những cơn ác mộng thường không bị biến dạng, không bị kiểm duyệt. Ác mộng thường là sự thực hiện của một giấc mơ, nhưng sự ham muốn này không được hoan nghênh, mà bị dồn ép, xua đuổi. Nỗi lo âu phập phồng thay thế cho sự kiểm duyệt. Giấc mơ trẻ con là sự thực hiện thành thực một ham muốn được chấp nhận, giấc mơ bị biến dạng thường thường là sự thực hiện giả tạo của một ham muốn bị dồn ép, cơn ác mộng là sự thực hiện thành thực của một sự ham muốn bị xua đuổi. Sự lo âu phập phồng là dấu hiệu chứng tỏ rằng lòng ham muốn mạnh hơn cả sự kiểm duyệt, cứ việc thực hiện mặc dù có sự kiểm duyệt. Do đó đối với chúng ta, những người luôn luôn đứng về phe kiểm duyệt, sự thực hiện này chỉ gây ra những cảm giác nặng nề và là một cơ hội cho chúng ta đề phòng. Sự lo âu phập phồng trong giấc mơ là sự lo âu trước sức mạnh của lòng ham muốn mà trước đây người ta đã kìm hãm được.
Cái gì đúng với những cơn ác mộng không biến dạng cũng đúng với những cơn ác mộng có biến dạng chút ít và những giấc mơ khó chịu khác trong đó những cảm giác nặng nề cũng gần những nỗi lo âu phập phồng. Sau cơn ác mộng người ta thường thức dậy trước khi lòng ham muốn bị kìm hãm được thực hiện hoàn toàn. Trong trường hợp này, giấc mơ không làm xong nhiệm vụ tuy tính chất chẳng có gì thay đổi. Chúng ta đã so sánh giấc mơ như một người gác đêm có nhiệm vụ bảo vệ cho giấc ngủ khỏi bị quấy rối. Mỗi khi thấy mình quá yếu không bảo vệ được giấc ngủ, người gác đêm thường đánh thức người đang ngủ dậy. Ngay cả khi nằm mơ bắt đầu xoay chiều, đáng nghi ngờ, sắp trở thành nỗi lo âu, chúng ta vẫn tiếp tục ngủ, vừa ngủ vừa tự nhủ: “Mình nằm mơ đấy mà”.
2. Có nhiều bạn cho rằng, những giải pháp mà chúng ta bắt buộc phải chấp nhận thường có tình cách gượng ép, giả tạo, không đúng chỗ và nhiều khi khôi hài. Tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện mới nhất thuộc loại này. Tại Thụy Sĩ một ông Giám đốc một Đại chủng viện bị cách chức vì đã khảo cứu Phân tâm học. Tất nhiên ông ta phản đối dữ đội, một tờ báo ở Berne, kinh đô Thụy Sĩ đã đăng bản án của các nhà chức tránh học đường. Tôi trích một vài đoạn dính dáng đến môn Phân tâm học: “Có nhiều thí dụ lấy trong cuốn sách của bác sĩ Pfister đáng được chú ý đến vì tính cách giả tạo và cầu kỳ. Quả là một điều kỳ khôi khi thấy một ông Giám đốc Đại chủng viện chấp nhận những điều đó mà không có một lời phê bình chỉ trích nào”. Họ muốn chúng ta coi những lời phê phán này là những lời của một vị thẩm phán vô tư. Chúng ta hãy xét kỹ lời phê phán này với hy vọng là thêm một chút suy nghĩ và một chút khả năng nữa cũng chẳng hại gì.
Quả thực là một điều thú vị khi thấy loài người chỉ cần dựa vào những cảm nghĩ đầu tiên của mình thôi mà cũng dám đưa ra những lời phê phán rất nhanh chóng và quả quyết về một vấn đề gai góc như vấn đề tâm lý vô thức. Họ cho rằng lời giải thích của chúng ta có vẻ cầu kỳ, gượng ép, họ không thích nên cho ngay rằng lời đó sai, chả có giá trị gì cả. Không một phút nào họ nghĩ rằng nếu những giải thích này có vẻ gượng ép và cầu kỳ, tất nhiên cũng phải có những lý do gì chắc chắn mà mọi người cần tìm hiểu.
Kết quả chính trong việc giải thích này là sự di chuyển và sự di chuyển là một phương tiện mạnh nhất giúp cho sự kiểm duyệt hoạt động. Sự kiểm duyệt dùng phương tiện này để tạo ra những cái gì dùng thay thế sự việc mà chúng ta gọi là sự ám chỉ. Những sự ám chỉ này thường gắn liền vào một thực chất bởi một số các sự liên tưởng, thực chất này là thể nào chúng ta cũng chưa biết được rõ ràng. Chỉ có điều rằng đó là tất cả những điều gì người ta cần giấu giếm. Khi có những điều cần giấu giếm chúng ta không thể chờ đợi tìm thấy chúng ở nơi chúng phải có mặt. Những uỷ ban kiểm soát tại biên giới ngày nay lâu hơn những nhà chức trách học đường Thuỵ Sĩ nhiều. Muốn tìm các tài liệu và hình vẽ người ta không chỉ lục soát các túi và cặp da mà còn phải xét cả những nơi không chờ đợi nhất như những gót giầy hai lớp. Nếu họ tìm ra được những đồ quốc cấm bằng những cách khám xét tỉ mỉ đó thì sự chịu khó của họ quả không phải là vô ích.
Dù giữa yếu tố tiềm tàng và điều thay thế nó trong giấc mơ rõ ràng có những liên quan rất xa vời, kỳ lạ, khi thì khôi hài, khi thì khéo léo, chúng ta cũng chẳng làm gì khác hơn là làm theo đúng những kinh nghiệm do những giấc mơ cung cấp mà chúng ta đã không tự mình tìm ra được những lời giải đáp. Rất ít khi chúng ta tự mình tìm được cách giải thích một giấc mơ; không một ai có thể tự mình tìm ra được liên quan giữa một yếu tố tiềm tàng và điều thay thế cho yếu tố này trong giấc mơ rõ ràng. Có khi nhờ một ý kiến đột nhiên nảy ra trong đầu, người nằm mơ cho ta biết dễ dàng liên quan đó, có khi chúng ta được cung cấp đủ tài liệu để giải thích. Nếu người nằm mơ không chịu giúp thì chúng ta sẽ không làm sao hiểu được một vài yếu tố trong giấc mơ rõ ràng. Tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện mới xảy ra. Một thân chủ của tôi bị mất cha trong lúc đang điều trị. Bà ta tìm đủ mọi cách làm cho cha sống lại. Trong một giấc mơ bà ta thấy cha hiện ra và bảo: “Bây giờ là mười một giờ mười lăm, mười một giờ rưỡi, mười hai giờ kém mười lăm”. Bà ta giải thích sự kiện này bằng cách nói rằng thuở còn sinh thời người cha rất thích các con về đúng giờ ăn cơm. Giữa kỷ niệm này và yếu tố trong giấc mơ tất nhiên phải có một liên quan gì dù chúng ta không thể dựa vào kỷ niệm này để biết rõ yếu tố kia bắt nguồn từ đâu. Nhưng trong khi chữa chạy, tôi nghi ngờ rằng có một thái độ phê bình chỉ trích nào đó đối với người cha yêu quý có dính dáng đến sự phát sinh ra giấc mơ. Bà nằm mơ kể cho chúng ta nghe, có một lần trong câu chuyện về vấn đề tâm lý, bà ta có nghe một người bà con nói: “Người cổ sơ (der Urmensh) sống lại trong mỗi chúng ta”. Câu nói này giúp chúng ta hiểu được thái độ của bà khách. Đó là một cơ hội rất tốt cho bà ta làm cho cha sống lại. Bà ta biến cha thành một người của thời đại (home de I’heure, Urmensch), do đó người cha mới cứ mười lăm phút lại báo giờ một lần.
Trong câu chuyện này có điều gì làm ta nghĩ đến một lối chơi chữ. Nhiều khi người ta cho rằng người giải thích giấc mơ muốn chơi chữ trong khi sự thực người chơi chữ chính là người nằm mơ. Trong nhiều thí dụ khác chúng ta không thể biết rõ đó là một lối chơi chữ hay một giấc mơ. Chúng ta đã gặp trường hợp tương tự như thế trong một vài sự lỡ lời. Một người nằm mơ thấy mình ngồi cùng ông bác trong một chiếc xe hơi (xe tự động). Theo ông ta thì giấc mơ đó có ý nghĩa là ông ta đã tự mình thoả mãn tình dục của mình không cần sự giúp đỡ của người khác (do chữ antoérotisme chơi chữ với autômbile có nghĩa là xe tự động hay xe hơi). Có phải ông này muốn nói đùa và nói rằng mình nằm mơ trong khi thực sự chỉ muốn chơi chữ không? Tôi không tin như thế. Theo ý tôi ông ta quả đã nằm mơ thực. Nhưng do đâu mà có sự giống nhau giữa việc tự thoả mãn về tình dục với chiếc xe hơi? Câu hỏi này đã làm tôi suy nghĩ rất lâu và khảo cứu thực kỹ càng về sự chơi chữ. Sau cùng tôi đi đến kết luận là đã có một loạt ý tưởng hữu thức len lỏi vào trong vô thức và tái xuất hiện dưới hình thức một sự chơi chữ. Chịu ảnh hưởng của vô thức, những ý tưởng hữu thức này chịu tác dụng của sự di chuyển và cô đọng trong công việc xây dựng giấc mơ và sự chơi chữ. Nhưng giấc mơ chơi chữ không gây cho người ta cái khoái cảm như một trò chơi chữ thực sự. Tại sao lại như thế? “Giấc mơ hí từ” không làm cho ta cười, trái lại chỉ làm cho ta dửng dưng.
Về điểm này chúng ta tiến đến gần lối đoán mộng ngày xưa. Tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện đoán mộng này vì tính lịch sử của nó. Giấc mơ của Đại đế Alexandre được Plutarque và Artémodore ở Êphese kể lại. Trong lúc công phá thành Tyr, Đại đế Alexandre nằm mơ thấy một con quỷ nhảy nhót trước mặt mình. Thầy bói Aristadre đoán rằng thế nào thành Tyr cũng thất thủ vì phân tích chữ satyros (con quỷ) ra, người ta thấy có nghĩa là: thành Tyr thế nào cũng thuộc về ông. Quả nhiên về sau thành Tyr bị hạ thực. Sự giải thích này có vẻ như giả tạo nhưng đúng từ đầu đến cuối.
3. Các bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng ngay cả những người chuyên khảo cứu về phân tâm học và sự giải thích giấc mơ cũng nhằm phản đối quan niệm trên của chúng ta về giấc mơ. Sự lầm lẫn này đã đưa đến nhiều điều sai lầm rất gần quan niệm của y học về giấc mơ. Một trong các điều đó cho rằng giấc mơ chỉ là một mưu toan thích ứng vào hiện tại và giải quyết các việc trong tương lai, nghĩa là giấc mơ có khuynh hướng khảo cứu tương lai để tổ chức hiện tại (A.Macder). Chúng ta đã có dịp chứng tỏ rằng quan niệm này lẫn lộn giấc mơ rõ ràng với những ý tưởng tiềm tàng nghĩa là chú trọng đến công việc xây dựng trong giấc mơ. Vì muốn biểu thị cho đời sống tinh thần vô thức có chứa đựng những ý tưởng tiềm tàng nên quan niệm này không mới mẻ mà cũng không đầy đủ, vì ngoài sự xây dựng tương lai ra, sự hoạt động tinh thần còn làm nhiều việc khác nữa. Vì một sự lầm lẫn đáng tiếc hơn nữa, người ta đã cho rằng đằng sau giấc mơ bao giờ cũng có ý tưởng chết chóc. Tôi không hiểu người ta định nói gì trong công thức này nhưng chắc chắn là nó bắt nguồn ở chỗ người ta lẫn lộn giấc mơ và cá tính của người nằm mơ.
Tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện nữa để chứng tỏ rằng có người thường cho rằng giấc mơ có thể được giải thích bằng hai cách: một cách có tính chất phân tâm, một cách theo kinh thánh không biết gì đến sự có mặt của các sự ham muốn, chỉ nói đến những hoạt động tinh thần cao cấp thôi. Tất nhiên cũng có những giấc mơ loại này nhưng đó chỉ là những trường hợp đặc biệt không thể coi là có tính chất chung. Theo điều họ nói, chúng ta không thể nào quan niệm rằng giấc mơ lại có thể có tính chất tình dục và là sự gặp gỡ của giống đực và giống cái được (A.Adler). Tất nhiên cũng có một vài giấc mơ như thế và sau này bạn sẽ biết chúng chỉ là những triệu chứng loạn thần kinh. Tôi kể ra những sự tìm tòi mới về tính chất giấc mơ nói trên để các bạn biết mà đề phòng hay ít nhất cũng để bạn biết rõ ý kiến tôi về vấn đề.
4. Người ta đã tìm cách làm giảm giá trị khách quan của những công trình này bằng cách cho rằng những người bình thường thu xếp sao cho giấc mơ của mình hợp với ý kiến của các bác sĩ: người cho rằng mình có những giấc mơ về quyền lực, người cho rằng mình có những giấc mơ sống lại sau khi dã chết thực, (W.Setkel). Nhưng lý luận này không còn một chút giá trị gì khi mọi người thấy rằng trước khi khoa học phân tâm ra đời, người đời đã nằm mơ rồi và ngay cả khi khoa học đó đã ra đời thì bao giờ người ta cũng nằm mơ rồi mới đến hỏi nhà phân tâm học về giấc mơ. Những sự kiện do quan niệm này đưa ra rất dễ hiểu và không làm hại gì cho thuyết về giấc mơ cả. Những “cái gì còn sót lại trong ngày” phát sinh ra giấc mơ thường bắt nguồn ở đời sống con người khi họ thức. Nếu những lời nói về đề nghị của bác sĩ có một tầm quan trọng nào đối với con bệnh, những lời này cũng chẳng khác gì những cái gì còn sót lại tinh thần, chẳng khác gì những ham muốn chưa được thoả mãn, cũng có tác dụng chẳng khác gì những sự kích động cơ thể ảnh hưởng đến người nằm mơ trong lúc ngủ. Cũng như những yếu tố kích động giấc mơ khác, những ý tưởng do thầy thuốc gợi ra cũng có thể xuất hiện trong giấc mơ rõ ràng hay trong những ý tưởng tiềm tàng. Chúng ta biết là chúng ta có thể tạo ra giấc mơ và những vật liệu giúp cho giấc mơ phát hiện. Trong trường hợp này người thầy thuốc cũng không làm gì khác hơn công việc của thí nghiệm viên Maury Vold khi ông này đặt chân tay của người nằm ngủ theo một chiều hướng nào đó để gây ra giấc mơ như ý muốn.
Chúng ta có thể gợi ra cho người nằm mơ đối tượng của giấc mơ chứ không thể ảnh hưởng gì đến những điều người đó sắp mơ. Sự hoạt động của công việc xây dựng và sự ham muốn vô thức không chịu ảnh hưởng gì từ bên ngoài vào. Khảo sát những sự kích động cơ thể giấc mơ thường được tỏ rõ trong phản ứng thể xác. Do đó lời bài bác nói trên về giá trị khách quan của những công trình khảo cứu về giấc mơ bắt nguồn ở chỗ đã lẫn lộn giấc mơ với những vật liệu xây dựng giấc mơ.
Đó là tất cả những điều tôi muốn trình bày cùng các bạn về giấc mơ. Chắc các bạn cũng đoán rằng tôi bỏ sót rất nhiều điều. Sở dĩ có sự thiếu sót đó là vì giấc mơ còn liên lạc chặt chẽ với những chứng bệnh thần kinh. Chúng ta khảo sát giấc mơ với mục đích sửa soạn cho việc khảo sát các chứng bệnh thần kinh. Điều này hợp lý hơn là việc để chuẩn bị cho việc khảo sát giấc mơ. Giấc mơ có thể giúp hiểu được các chứng bệnh thần kinh. Trái lại chúng ta chỉ hiểu giấc mơ một cách hoàn bị hơn, chi tiết hơn nếu chúng ta hiểu rõ về chứng bệnh thần kinh.
Tôi không biết các bạn nghĩ gì về vấn đề đó nhưng phần tôi, tôi không hề hối tiếc khi dành thực nhiều thì giờ cho sự khảo sát giấc mơ và yêu cầu các bạn chú trọng đặc biệt về vấn đề giấc mơ. Không có môn học nào có thể giúp cho chúng ta một ý niệm đúng hơn về môn phân tâm học. Muốn chứng tỏ rằng những triệu chứng của bệnh thần kinh có ý nghĩa, có ích lợi cho ta trong việc tìm hiểu người bệnh, có thể giải thích được khi khảo sát đời sống người bệnh, cần phải làm việc trong nhiều tháng, có khi nhiều năm. Trái lại chỉ cần làm việc một số giờ thôi cũng đủ hiểu được giấc mơ, những tiền đề của môn phân tâm học về tính cách vô thức của các hoạt động tinh thần. Xem chúng chịu những ảnh hưởng khuynh hướng nào và chúng hoạt động ra sao. Và nếu chúng ta có thể thêm vào tính cách tương đồng giữa giấc mơ và bệnh thần kinh, một sự biến đổi nhanh chóng khiến cho ngươi nằm mơ trở thành một người thức tỉnh, biết điều, thì chúng ta có thể chắc chắn rằng căn bệnh thần kinh cũng chỉ là sự suy sụp của những liên quan thông thường giữa những động lực khác nhau trong đời sống tinh thần.
15. Những điều mơ hồ và phê bình.
Tôi không muốn rời bỏ phạm vi giấc mơ mà không nói đến những điểm nghi ngờ và mơ hồ chính trong những quan niệm mới vừa được trình bày. Những bạn nào chăm chú theo tôi từ đầu hẳn biết rõ những điểm này.
1. Mặc dù chúng ta áp dụng đúng kỹ thuật như thế nào chăng nữa, những kết quả thu lượm được cũng hãy còn mơ hồ đến nỗi người ta không thể đi ngược từ những ý tưởng tiềm tàng về giấc mơ rõ ràng. Có bạn cho rằng trước hết, người ta không biết phải hiểu một yếu tố nào đó theo nghĩa thông thường hay theo nghĩa tượng trưng vì những đồ dùng để tượng trưng vẫn có giá trị thực của chúng. Vì không có một tiêu chuẩn nào cả nên sự giải thích phải để tuỳ thuộc người giải thích. Ngoài ra vì có những điểm trái ngược nhau lẫn lộn trong công việc xây dựng, thành ra người ta không được hiểu theo nghĩa âm hay nghĩa dương, theo nghĩa trực tiếp hay nghĩa phản trái: đó cũng là một điểm tuỳ theo người giải thích. Điều thứ ba, vì trong giấc mơ có nhiều sự đảo ngược, người ta có thể coi bất cứ đoạn nào trong giấc mơ như một sự lộn ngược. Sau cùng, rất ít khi có trường hợp mà chỉ có một sự giải thích thôi: vì có nhiều lối giải thích cho nên khó biết lối nào đúng. Kết luận là giới hạn của sự võ đoán của người giải thích quá rộng không phù hợp với tính cách thiết thực của những kết quả. Và các bạn có thể cho rằng những lầm lẫn không hẳn đã từ giấc mơ mà ra nhưng có thể bắt nguồn ở chỗ lầm lẫn của chính những quan niệm của chúng ta.
Lý luận đó rất đúng nhưng tôi nghĩ là chúng phù hợp với những điều kết luận của các bạn, theo đó thì trong sự giải thích có nhiều điểm ước đoán và những điểm sai của phương pháp chúng ta đem dùng không thể làm cho chúng ta tin cậy được. Nhưng nếu thay vì nói đến những sự võ đoán vủa người giải thích, các bạn nói rằng sự giải thích tuỳ thuộc vào sự khéo léo, kinh nghiệm và sự thông minh của người giải thích thì tôi chịu ngay. Người ta không thể nào gạt bỏ yếu tố cá nhân ít nhất cũng trong trường hợp đứng trước một sự giải thích khó khăn như thế này. Người này giải thích đúng hơn, hay hợp lý hơn người khác là một điều không thể tránh được, cũng như trong mọi kỹ thuật khác. Trong sự giải thích giấc mơ điều gì có vẻ như võ đoán sẽ không còn là võ đoán nữa khi người ta có thể chọn trong những cách giải thích được đưa ra cách nào người ta coi là thoả đáng nhất, và vứt bỏ những cách giải thích khác, đưa vào những dây liên lạc giữa những ý tưởng trong giấc mơ, giữa giấc mơ và đời sống người nằm mơ và vào tình trạng tinh thần của giấc mơ. Sở dĩ trong vấn đề giải thích giấc mơ có những điểm chưa được hoàn hảo chính là vì tính chất của giấc mơ là một cái gì vô định và người ta có thể gắn cho giấc mơ bất cứ ý nghĩa nào người ta muốn.
Tôi đã nói là công việc xây dựng trong giấc mơ làm cho những ý tưởng tiềm tàng phát biểu ra dưới một hình thức cổ lỗ giống như lối viết tượng hình. Vậy mọi sự biểu thị theo lối cổ lỗ đều bất định, thường có hai nghĩa làm cho ta không thể quyết đoán nên theo nghĩa nào. Sự gặp gỡ của các điểm trái nhau trong công việc xây dựng cũng giống như những nghĩa phản trái nhau trong các ngôn ngữ cổ xưa. Nhà ngôn ngữ học R.Abel (1884) thường nói rằng, khi ta gặp trong các ngôn ngữ cổ những chữ có nhiều nghĩa, ta đừng cho rằng trong câu chuyện những tiếng đó bao giờ cũng có hai nghĩa. Giọng nói và cử chỉ của người nói chuyện đủ chỉ cho ta biết người đối thoại định dùng nghĩa nào trong các nghĩa đó. Trong chữ viết không thể dùng được cử chỉ, người ta thường ghép thêm vào bên cạnh chữ hình vẽ, không đọc lên ví dụ như hình một người ngồi xổm hay một người đứng thẳng bên cạnh chữ “ken” tuỳ theo chữ đó có nghĩa là yếu hay khoẻ. Do đó người ta tránh được những sự hiểu lầm mặc dù có rất nhiều nghĩa và dấu hiệu.
Trong những ngôn ngữ cổ xưa có nhiều điểm bất định không thể có mặt trong những ngôn ngữ hiện nay của chúng ta. Trong một vài ngôn ngữ Do Thái chẳng hạn, chúng chỉ có phụ âm mà không có nguyên âm. Người đọc hay người nghe phải chiếu theo câu nói hay chữ viết mà đoán ra những nguyên âm vắng mặt. Chữ viết cổ Ai Cập cũng thế vì chúng ta không biết tiếng cổ Ai Cập đọc ra sao. Chữ viết thiêng liêng của Ai Cập cũng có những điều bất định như thế. Người đọc cứ tự do xếp những hình ảnh từ phải sang trái hay từ trái sang phải tuỳ theo ý muốn. Muốn đọc phải tuỳ theo những hình ảnh của những con chim hay súc vật khác. Người viết cũng có thể viết từ trên xuống dưới tuỳ theo quan niệm về nghệ thuật. Điều khó chịu nhất trong chữ cổ Ai Cập là không hề viết chữ này xa chữ nọ. Những dấu hiệu cứ xuất hiện theo một khoảng cách đều đều khiến cho người ta không biết rõ một chữ thuộc chữ trên hay chữ dưới. Trong chữ viết Ba Tư trái lại giữa hai chữ có một chữ nghiêng chứng tỏ hai chữ khác nhau.
Chữ viết và ngôn ngữ Trung Hoa rất cổ hiện nay hãy còn dùng cho 400 triệu người. Các bạn đừng cho là tôi hiểu tiếng Trung Hoa. Tôi chỉ khảo cứu với hy vọng tìm thấy những điểm giống nhau như những điều vừa nói, và tôi đã không bị thất vọng. Ngôn ngữ Trung Hoa đầy rẫy những sự bất định như thế đủ làm chúng ta rùng mình. Ngôn ngữ đó gồm có nhiều vần có thể đọc riêng biệt hay cùng với những vần khác. Một trong các thổ ngữ Trung Hoa có tới 400 vần. Ngữ vựng gồm có 4000 chữ thành ra có chữ có tới 10 nghĩa, có chữ có ít hơn hay nhiều hơn. Vì toàn thể không giúp cho người nghe đoán được người nói định nói gì. Người ta đã đặt ra không biết bao nhiêu là phương sách để tránh sự hiểu lầm. Trong những phương sách đó có phương sách cần phải kể việc ghép hai vần thành một tiếng và đọc tiếng đó theo bốn thanh âm khác nhau. Ngôn ngữ đó không có văn phạm. Không phân biệt được trong một ngữ xem chữ đó là danh từ hay tính từ hay động từ, giống đực hay giống cái, số nhiều hay số ít. Thời gian nào hay thể nào. Ngôn ngữ chỉ có những nguyên liệu cũng như tiếng nói trừu tượng của chúng ta phân chia ra thành những nguyên liệu bằng cách xoá bỏ những sự biểu thị các dây liên lạc giữa những tiếng. Trong tiếng Trung Hoa mỗi khi có điều gì bất định, người nghe phải dựa vào toàn thể mà quyết định tuỳ theo trí thông minh của mình. Tôi ghi một câu tục ngữ Trung Hoa nói từng tiếng một như sau: ít, nhìn, nhiều, điều kỳ diệu.
Câu tục ngữ này không có gì khó hiểu: nó có thể có nghĩa là: càng trông ít bao nhiêu càng thấy nhiều điều kỳ diện bấy nhiêu, hay: đối với những người trồng càng ít, càng có nhiều điều kỳ diệu. Giữa hai bản dịch khác nhau chỉ khác nhau về văn phạm nay tất nhiên thực khó quyết định xem nên dùng bản nào. Vậy mà người ta thường nói rằng tiếng Trung Hoa là thứ tiếng tuyệt hảo trong công việc trao đổi tư tưởng. Vậy sự có nhiều nghĩa không hẳn đã đưa đến sự bất định trong ngôn ngữ.
Tuy nhiên đối với sự biểu thị trong giấc mơ, tình trạng không được chắc chắn như trường hợp của các ngôn ngữ thời cổ. Những ngôn ngữ này được dùng làm phương tiện giao tiếp, phải được hiểu bằng cách này hay cách khác. trong khi giấc mơ không cần ai hiểu cả. Cho nên chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy giấc mơ có nhiều nghĩa, bất định, khiến cho chúng ta không thể quyết định một cách chắc chắn. Kết quả độc nhất chắc chắn thu lượm được trong sự so sánh này là những sự bất định nói trên luôn có mặt trong mọi cách diễn tả trong thời cổ.
Chỉ có kinh nghiệm làm đi làm lại nhiều lần mới giúp cho ta thực sự hiểu rõ giấc mơ. Theo ý tôi, tính bất định này không đưa chúng ta đi xa được và công trình khảo cứu của nhiều nhà khoa học khác đã chứng tỏ rằng tôi nói đúng. Những người không chuyên môn thường tỏ vẻ coi thường, bi quan trước những sự khó khăn và tính bất định của những công trình khoa học. Thái độ đó thực bất công. Nhiều người trong các bạn chắc không lạ gì khi thấy một tình trạng bi quan khinh khi như thế khi người ta gặp khó khăn trong việc đọc các tấm bia trong thành Babylone. Có một thời những người đọc các tấm bia này bị coi là những tay đại bịp và công trình của họ là cả một sự lường gạt. Nhưng đến năm 1857, Hội hoàng gia khảo cứu về Á châu đã làm một cuộc thí nghiệm có tính chất quyết định. Hội này yêu cầu bốn nhà chuyên môn nổi danh nhất thời đó gửi đến cho mình bốn bản dịch của một tấm bia. Mỗi bản đều đựng trong phong bì dán kín, rồi sau khi mở bốn phong bì đó ra Hội có thể tuyên bố rằng cả bốn đều phù hợp với những điều đã tìm ra quả là công trình đọc bia của họ đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Những lời chế giễu của bọn người ưa bài bác nhờ đó mới dịu đi và công việc đọc bia mới càng ngày càng tiến triểu được.
2. Có nhiều bạn cho rằng, những giải pháp mà chúng ta bắt buộc phải chấp nhận thường có tình cách gượng ép, giả tạo, không đúng chỗ và nhiều khi khôi hài. Tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện mới nhất thuộc loại này. Tại Thụy Sĩ một ông Giám đốc một Đại chủng viện bị cách chức vì đã khảo cứu Phân tâm học. Tất nhiên ông ta phản đối dữ đội, một tờ báo ở Berne, kinh đô Thụy Sĩ đã đăng bản án của các nhà chức tránh học đường. Tôi trích một vài đoạn dính dáng đến môn Phân tâm học: “Có nhiều thí dụ lấy trong cuốn sách của bác sĩ Pfister đáng được chú ý đến vì tính cách giả tạo và cầu kỳ. Quả là một điều kỳ khôi khi thấy một ông Giám đốc Đại chủng viện chấp nhận những điều đó mà không có một lời phê bình chỉ trích nào”. Họ muốn chúng ta coi những lời phê phán này là những lời của một vị thẩm phán vô tư. Chúng ta hãy xét kỹ lời phê phán này với hy vọng là thêm một chút suy nghĩ và một chút khả năng nữa cũng chẳng hại gì.
Quả thực là một điều thú vị khi thấy loài người chỉ cần dựa vào những cảm nghĩ đầu tiên của mình thôi mà cũng dám đưa ra những lời phê phán rất nhanh chóng và quả quyết về một vấn đề gai góc như vấn đề tâm lý vô thức. Họ cho rằng lời giải thích của chúng ta có vẻ cầu kỳ, gượng ép, họ không thích nên cho ngay rằng lời đó sai, chả có giá trị gì cả. Không một phút nào họ nghĩ rằng nếu những giải thích này có vẻ gượng ép và cầu kỳ, tất nhiên cũng phải có những lý do gì chắc chắn mà mọi người cần tìm hiểu.
Kết quả chính trong việc giải thích này là sự di chuyển và sự di chuyển là một phương tiện mạnh nhất giúp cho sự kiểm duyệt hoạt động. Sự kiểm duyệt dùng phương tiện này để tạo ra những cái gì dùng thay thế sự việc mà chúng ta gọi là sự ám chỉ. Những sự ám chỉ này thường gắn liền vào một thực chất bởi một số các sự liên tưởng, thực chất này là thể nào chúng ta cũng chưa biết được rõ ràng. Chỉ có điều rằng đó là tất cả những điều gì người ta cần giấu giếm. Khi có những điều cần giấu giếm chúng ta không thể chờ đợi tìm thấy chúng ở nơi chúng phải có mặt. Những uỷ ban kiểm soát tại biên giới ngày nay lâu hơn những nhà chức trách học đường Thuỵ Sĩ nhiều. Muốn tìm các tài liệu và hình vẽ người ta không chỉ lục soát các túi và cặp da mà còn phải xét cả những nơi không chờ đợi nhất như những gót giầy hai lớp. Nếu họ tìm ra được những đồ quốc cấm bằng những cách khám xét tỉ mỉ đó thì sự chịu khó của họ quả không phải là vô ích.
Dù giữa yếu tố tiềm tàng và điều thay thế nó trong giấc mơ rõ ràng có những liên quan rất xa vời, kỳ lạ, khi thì khôi hài, khi thì khéo léo, chúng ta cũng chẳng làm gì khác hơn là làm theo đúng những kinh nghiệm do những giấc mơ cung cấp mà chúng ta đã không tự mình tìm ra được những lời giải đáp. Rất ít khi chúng ta tự mình tìm được cách giải thích một giấc mơ; không một ai có thể tự mình tìm ra được liên quan giữa một yếu tố tiềm tàng và điều thay thế cho yếu tố này trong giấc mơ rõ ràng. Có khi nhờ một ý kiến đột nhiên nảy ra trong đầu, người nằm mơ cho ta biết dễ dàng liên quan đó, có khi chúng ta được cung cấp đủ tài liệu để giải thích. Nếu người nằm mơ không chịu giúp thì chúng ta sẽ không làm sao hiểu được một vài yếu tố trong giấc mơ rõ ràng. Tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện mới xảy ra. Một thân chủ của tôi bị mất cha trong lúc đang điều trị. Bà ta tìm đủ mọi cách làm cho cha sống lại. Trong một giấc mơ bà ta thấy cha hiện ra và bảo: “Bây giờ là mười một giờ mười lăm, mười một giờ rưỡi, mười hai giờ kém mười lăm”. Bà ta giải thích sự kiện này bằng cách nói rằng thuở còn sinh thời người cha rất thích các con về đúng giờ ăn cơm. Giữa kỷ niệm này và yếu tố trong giấc mơ tất nhiên phải có một liên quan gì dù chúng ta không thể dựa vào kỷ niệm này để biết rõ yếu tố kia bắt nguồn từ đâu. Nhưng trong khi chữa chạy, tôi nghi ngờ rằng có một thái độ phê bình chỉ trích nào đó đối với người cha yêu quý có dính dáng đến sự phát sinh ra giấc mơ. Bà nằm mơ kể cho chúng ta nghe, có một lần trong câu chuyện về vấn đề tâm lý, bà ta có nghe một người bà con nói: “Người cổ sơ (der Urmensh) sống lại trong mỗi chúng ta”. Câu nói này giúp chúng ta hiểu được thái độ của bà khách. Đó là một cơ hội rất tốt cho bà ta làm cho cha sống lại. Bà ta biến cha thành một người của thời đại (home de I’heure, Urmensch), do đó người cha mới cứ mười lăm phút lại báo giờ một lần.
Trong câu chuyện này có điều gì làm ta nghĩ đến một lối chơi chữ. Nhiều khi người ta cho rằng người giải thích giấc mơ muốn chơi chữ trong khi sự thực người chơi chữ chính là người nằm mơ. Trong nhiều thí dụ khác chúng ta không thể biết rõ đó là một lối chơi chữ hay một giấc mơ. Chúng ta đã gặp trường hợp tương tự như thế trong một vài sự lỡ lời. Một người nằm mơ thấy mình ngồi cùng ông bác trong một chiếc xe hơi (xe tự động). Theo ông ta thì giấc mơ đó có ý nghĩa là ông ta đã tự mình thoả mãn tình dục của mình không cần sự giúp đỡ của người khác (do chữ antoérotisme chơi chữ với autômbile có nghĩa là xe tự động hay xe hơi). Có phải ông này muốn nói đùa và nói rằng mình nằm mơ trong khi thực sự chỉ muốn chơi chữ không? Tôi không tin như thế. Theo ý tôi ông ta quả đã nằm mơ thực. Nhưng do đâu mà có sự giống nhau giữa việc tự thoả mãn về tình dục với chiếc xe hơi? Câu hỏi này đã làm tôi suy nghĩ rất lâu và khảo cứu thực kỹ càng về sự chơi chữ. Sau cùng tôi đi đến kết luận là đã có một loạt ý tưởng hữu thức len lỏi vào trong vô thức và tái xuất hiện dưới hình thức một sự chơi chữ. Chịu ảnh hưởng của vô thức, những ý tưởng hữu thức này chịu tác dụng của sự di chuyển và cô đọng trong công việc xây dựng giấc mơ và sự chơi chữ. Nhưng giấc mơ chơi chữ không gây cho người ta cái khoái cảm như một trò chơi chữ thực sự. Tại sao lại như thế? “Giấc mơ hí từ” không làm cho ta cười, trái lại chỉ làm cho ta dửng dưng.
Về điểm này chúng ta tiến đến gần lối đoán mộng ngày xưa. Tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện đoán mộng này vì tính lịch sử của nó. Giấc mơ của Đại đế Alexandre được Plutarque và Artémodore ở Êphese kể lại. Trong lúc công phá thành Tyr, Đại đế Alexandre nằm mơ thấy một con quỷ nhảy nhót trước mặt mình. Thầy bói Aristadre đoán rằng thế nào thành Tyr cũng thất thủ vì phân tích chữ satyros (con quỷ) ra, người ta thấy có nghĩa là: thành Tyr thế nào cũng thuộc về ông. Quả nhiên về sau thành Tyr bị hạ thực. Sự giải thích này có vẻ như giả tạo nhưng đúng từ đầu đến cuối.
3. Các bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng ngay cả những người chuyên khảo cứu về phân tâm học và sự giải thích giấc mơ cũng nhằm phản đối quan niệm trên của chúng ta về giấc mơ. Sự lầm lẫn này đã đưa đến nhiều điều sai lầm rất gần quan niệm của y học về giấc mơ. Một trong các điều đó cho rằng giấc mơ chỉ là một mưu toan thích ứng vào hiện tại và giải quyết các việc trong tương lai, nghĩa là giấc mơ có khuynh hướng khảo cứu tương lai để tổ chức hiện tại (A.Macder). Chúng ta đã có dịp chứng tỏ rằng quan niệm này lẫn lộn giấc mơ rõ ràng với những ý tưởng tiềm tàng nghĩa là chú trọng đến công việc xây dựng trong giấc mơ. Vì muốn biểu thị cho đời sống tinh thần vô thức có chứa đựng những ý tưởng tiềm tàng nên quan niệm này không mới mẻ mà cũng không đầy đủ, vì ngoài sự xây dựng tương lai ra, sự hoạt động tinh thần còn làm nhiều việc khác nữa. Vì một sự lầm lẫn đáng tiếc hơn nữa, người ta đã cho rằng đằng sau giấc mơ bao giờ cũng có ý tưởng chết chóc. Tôi không hiểu người ta định nói gì trong công thức này nhưng chắc chắn là nó bắt nguồn ở chỗ người ta lẫn lộn giấc mơ và cá tính của người nằm mơ.
Tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện nữa để chứng tỏ rằng có người thường cho rằng giấc mơ có thể được giải thích bằng hai cách: một cách có tính chất phân tâm, một cách theo kinh thánh không biết gì đến sự có mặt của các sự ham muốn, chỉ nói đến những hoạt động tinh thần cao cấp thôi. Tất nhiên cũng có những giấc mơ loại này nhưng đó chỉ là những trường hợp đặc biệt không thể coi là có tính chất chung. Theo điều họ nói, chúng ta không thể nào quan niệm rằng giấc mơ lại có thể có tính chất tình dục và là sự gặp gỡ của giống đực và giống cái được (A.Adler). Tất nhiên cũng có một vài giấc mơ như thế và sau này bạn sẽ biết chúng chỉ là những triệu chứng loạn thần kinh. Tôi kể ra những sự tìm tòi mới về tính chất giấc mơ nói trên để các bạn biết mà đề phòng hay ít nhất cũng để bạn biết rõ ý kiến tôi về vấn đề.
4. Người ta đã tìm cách làm giảm giá trị khách quan của những công trình này bằng cách cho rằng những người bình thường thu xếp sao cho giấc mơ của mình hợp với ý kiến của các bác sĩ: người cho rằng mình có những giấc mơ về quyền lực, người cho rằng mình có những giấc mơ sống lại sau khi dã chết thực, (W.Setkel). Nhưng lý luận này không còn một chút giá trị gì khi mọi người thấy rằng trước khi khoa học phân tâm ra đời, người đời đã nằm mơ rồi và ngay cả khi khoa học đó đã ra đời thì bao giờ người ta cũng nằm mơ rồi mới đến hỏi nhà phân tâm học về giấc mơ. Những sự kiện do quan niệm này đưa ra rất dễ hiểu và không làm hại gì cho thuyết về giấc mơ cả. Những “cái gì còn sót lại trong ngày” phát sinh ra giấc mơ thường bắt nguồn ở đời sống con người khi họ thức. Nếu những lời nói về đề nghị của bác sĩ có một tầm quan trọng nào đối với con bệnh, những lời này cũng chẳng khác gì những cái gì còn sót lại tinh thần, chẳng khác gì những ham muốn chưa được thoả mãn, cũng có tác dụng chẳng khác gì những sự kích động cơ thể ảnh hưởng đến người nằm mơ trong lúc ngủ. Cũng như những yếu tố kích động giấc mơ khác, những ý tưởng do thầy thuốc gợi ra cũng có thể xuất hiện trong giấc mơ rõ ràng hay trong những ý tưởng tiềm tàng. Chúng ta biết là chúng ta có thể tạo ra giấc mơ và những vật liệu giúp cho giấc mơ phát hiện. Trong trường hợp này người thầy thuốc cũng không làm gì khác hơn công việc của thí nghiệm viên Maury Vold khi ông này đặt chân tay của người nằm ngủ theo một chiều hướng nào đó để gây ra giấc mơ như ý muốn.
Chúng ta có thể gợi ra cho người nằm mơ đối tượng của giấc mơ chứ không thể ảnh hưởng gì đến những điều người đó sắp mơ. Sự hoạt động của công việc xây dựng và sự ham muốn vô thức không chịu ảnh hưởng gì từ bên ngoài vào. Khảo sát những sự kích động cơ thể giấc mơ thường được tỏ rõ trong phản ứng thể xác. Do đó lời bài bác nói trên về giá trị khách quan của những công trình khảo cứu về giấc mơ bắt nguồn ở chỗ đã lẫn lộn giấc mơ với những vật liệu xây dựng giấc mơ.
Đó là tất cả những điều tôi muốn trình bày cùng các bạn về giấc mơ. Chắc các bạn cũng đoán rằng tôi bỏ sót rất nhiều điều. Sở dĩ có sự thiếu sót đó là vì giấc mơ còn liên lạc chặt chẽ với những chứng bệnh thần kinh. Chúng ta khảo sát giấc mơ với mục đích sửa soạn cho việc khảo sát các chứng bệnh thần kinh. Điều này hợp lý hơn là việc để chuẩn bị cho việc khảo sát giấc mơ. Giấc mơ có thể giúp hiểu được các chứng bệnh thần kinh. Trái lại chúng ta chỉ hiểu giấc mơ một cách hoàn bị hơn, chi tiết hơn nếu chúng ta hiểu rõ về chứng bệnh thần kinh.
Tôi không biết các bạn nghĩ gì về vấn đề đó nhưng phần tôi, tôi không hề hối tiếc khi dành thực nhiều thì giờ cho sự khảo sát giấc mơ và yêu cầu các bạn chú trọng đặc biệt về vấn đề giấc mơ. Không có môn học nào có thể giúp cho chúng ta một ý niệm đúng hơn về môn phân tâm học. Muốn chứng tỏ rằng những triệu chứng của bệnh thần kinh có ý nghĩa, có ích lợi cho ta trong việc tìm hiểu người bệnh, có thể giải thích được khi khảo sát đời sống người bệnh, cần phải làm việc trong nhiều tháng, có khi nhiều năm. Trái lại chỉ cần làm việc một số giờ thôi cũng đủ hiểu được giấc mơ, những tiền đề của môn phân tâm học về tính cách vô thức của các hoạt động tinh thần. Xem chúng chịu những ảnh hưởng khuynh hướng nào và chúng hoạt động ra sao. Và nếu chúng ta có thể thêm vào tính cách tương đồng giữa giấc mơ và bệnh thần kinh, một sự biến đổi nhanh chóng khiến cho ngươi nằm mơ trở thành một người thức tỉnh, biết điều, thì chúng ta có thể chắc chắn rằng căn bệnh thần kinh cũng chỉ là sự suy sụp của những liên quan thông thường giữa những động lực khác nhau trong đời sống tinh thần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét