Nguồn
Thứ Hai, 9 tháng 4, 2012
Nhà Khoa Học Albert Einstein và Đạo Phật
Nguồn
Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2011
TINH HOA TRÍ TUỆ CỦA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG VÀ VAI TRÒ THIỀN
PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ
Nghĩ về giá trị tư tưởng của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, nếu không nói là giá trị văn hóa nhân loại, đã tạo nên một thời đại vàng son nhất của dân tộc ta trên nhiều lĩnh vực có tầm cỡ lịch sử vĩ đại, vượt cả không gian và thời gian, không những trong phạm trù ý thức mà siêu cả ý thức, thì không thể diễn đạt qua đôi điều suy luận với vài trang giấy trắng mà phải thân chứng thực nghiệm.
Tuy nhiên, qua cái nhìn của hành giả thiền môn, chúng tôi hy vọng có thể góp phần nhỏ bé của mình, cho những ai hữu duyên tìm đến giá trị tư tưởng Trần Nhân Tông và thực tại nhiệm mầu của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử qua những nội dung được khái quát như sau :
I. CỐT TỦY TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN NHÂN TÔNG LÀ THIỀN TÔNG:
Dân tộc ta có những sự kiện trọng đại và cũng có những con người vĩ đại, thời thế có khi tạo anh hùng, nhưng quả thật đã là anh hùng thì phải biết xoay chuyển thời thế. Một trong những nhân vật tiêu biểu kiệt xuất có một không hai trong lịch sử dân tộc đó là Trần Nhân Tông.
Ngài sinh đúng vào ngày 11 tháng 11 năm Mậu Tý (1258), con của vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng Thái Hậu. Năm 21 tuổi Ngài lên ngôi Hoàng Đế (1279); năm 1285 lần đầu tiên lãnh đạo quân dân chiến thắng quân Nguyên Mông xâm lược; theo Thánh Đăng Lục năm 1299 Ngài xuất gia và viên tịch lại ngay vào giờ Tý nhằm đúng ngày 1. 11 thọ 51 tuổi; là người đầu tiên mở ra dòng Tổ Sư Thiền Việt Nam; là Tổ thứ nhất Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, và cũng là người duy nhất được dân ta tôn vinh là vị vua Phật hay Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Theo phả hệ Bồ Đề Đạt Ma, vào thế kỷ XIII Việt Nam ta có ba phái Thiền chính, đó là dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Trần Nhân Tông có một lần vượt thành định trốn vào núi Yên Tử tu hành, chứng tỏ là người có chí xuất trần từ thuở nhỏ, lại vốn ảnh hưởng truyền thống mộ đạo sức sống Thiền của ông, cha là Trần Thái Tông rồi đến Trần Thánh Tông, và được "Thiền Tủy" nơi Tuệ Trung Thượng Sĩ theo phả hệ dòng Vô Ngôn Thông. Ngài tu hành chứng ngộ về sau lập nên Thiền Phái Trúc Lâm. Vì vậy Sự nghiệp của Ngài cũng chính là sự nghiệp của Thiền gia, và càng vĩ đại bao nhiêu thì vai trò của Thiền tông càng có ý nghĩa thực tiễn bấy nhiêu và ngược lại !
II. TƯ TƯỞNG TRẦN NHÂN TÔNG-THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ "HÒA QUANG ĐỒNG TRẦN" :
1. Đặc điểm Thiền Tông và Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử :
* Thiền là tên gọi khác của chân lý thực tại tối hậu, cũng có nghĩa là Phật, là Tâm, là Đạo, là cái gì thật mình … không đâu xa, vốn hiện hữu ngay nơi thân năm uẩn mỗi chúng ta. Người tu thiền là tham cứu làm sáng tỏ chân lý ấy để lợi mình lợi người, phổ độ quần sinh.
* Thiền tông không phụ thuộc bởi không gian và thời gian, không phải do tu hay chẳng tu" Nếu nói tu mà đắc, tu mà thành thì đồng hàng Thanh Văn. Còn nếu nói không tu mà có, thì khác gì phàm phu" thế nên: "Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh Thánh hiền, đó là hạnh Bồ tát". Còn Sơ Tổ Trúc Lâm viết: "Ai trói mà mong cầu giải thoát, chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên"
* Thiền không một pháp cho người, nhưng hành tất cả pháp cốt để trị tâm bệnh chúng sinh, bệnh hết thuốc cũng không cần…
2. Tư tưởng nhập thế Trần Nhân Tông :
Vì Trần Nhân Tông lấy thiền làm gốc, bởi vậy khi Ngài chưa rõ việc "Bổn phận tông chỉ", nên đã thưa hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ và được trả lời như sau:"Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được"( Phản quan tự kỷ bổn phận sự bất tùng tha đắc) nghe xong, Ngài thuật lại: "Tôi thông suốt đường vào, bèn vén áo lễ thờ làm thầy".
Phản quan tự kỷ là yếu chỉ của Thiền Phái Trúc Lâm và cũng là yếu chỉ của Phật pháp, được Trần Nhân Tông thấm nhuần đạo lý này để đi vào cuộc đời, và được thể hiện cụ thể rõ nét qua bài "Cư Trần Lạc Đạo" như sau:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc san hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền
"Ở đời vui đạo" Như vậy đời và đạo không trái nhau, không ngăn ngại cho nhau, mà còn làm thành cho nhau.
Phật dạy: Sống trăm năm không biết đạo không bằng sống một ngày biết đạo. Còn LụcTổ bảo: Phật pháp tại thế gian, lìa thế gian mà cầu giác ngộ không thể có giống như tìm sừng thỏ với lông rùa. Thế là Đạo giác ngộ chỉ có thể viên thành trên cõi đời này, mà viên thành bằng cách nào? Chỉ "tùy duyên": Đói ăn, mệt ngủ thế thôi.
Chúng ta cũng đói ăn, mệt ngủ thế nhưng, chưa hẳn gọi là tùy duyên. Bởi vì, tùy duyên mà chẳng biến, chẳng biến mới được tùy duyên ( tùy duyên nhi bất biến bất biến nhi tùy duyên). Chẳng biến là thường có Đạo, sống với Đạo làm tất cả việc cần làm, làm tất cả việc cần làm mà không rời Đạo nên mới thật đúng nghĩa "Ở đời vui đạo hãy tùy duyên".
"Trong nhà có báu…". Báu là Đạo, không đâu xa, chỉ chính tâm ta, ngay trong đời thường bình dị nên Tổ bảo "thôi tìm kiếm".
Muốn được vậy thì "Đối cảnh vô tâm". Vì đối cảnh vô tâm đã là Thiền, nên nói "Chớ hỏi thiền". Đối cảnh là đối diện với tất cả cảnh giới thiện ác thế gian mà vô tâm tức không dính mắc đúng như "Mình ngồi thành thị, nết dùng sơn lâm". Vô tâm ở đây chính là vô phàm tâm, chớ chẳng phải vô đạo tâm; cũng chẳng như gỗ đá vô tri mà rõ ràng thường biết. Vì vậy, chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác. Thế nên Sơ Tổ Trúc Lâm nói "Ai trói mà mong cầu giải thoát, chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên".
Trên cơ sở tư tưởng nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Sơ Tổ Trúc Lâm "Như hoa sen mọc từ bùn, sống trong đời ngũ trược mà chẳng bị nhiễm ô, xây dựng thế gian mà không bị buộc ràng danh lợi…Ngài nhập thế mà xuất thế, là vua anh minh, là anh hùng dân tộc, là Nhà văn hóa lớn và cũng là Tổ Sư Thiền…
Có thể nói Trần Nhân Tông là mẫu người toàn diện. Ngày nay hình ảnh của Ngài là biểu trưng cho Đạo pháp gắn liền với dân tộc, trở thành truyền thống cao quý có ý nghĩa thực tiễn trong mọi thời đại. Đây là điểm khác biệt so với các bậc tiền bối anh hùng xưa nay, sánh cùng các bậc vĩ nhân trong mọi thời đại".
IV. NHỮNG GIÁ TRỊ THIẾT THỰC VỀ TƯ TƯỞNG TRẦN NHÂN TÔNG VÀ THIỀN HỌC NƯỚC NHÀ NGÀY NAY CẦN ĐƯỢC BẢO TỒN PHÁT HUY :
1. Trần Nhân Tông tiếp nối truyền thống ý chí cao thượng của Tổ tiên:
Nếu như Trần Thái Tông bỏ ngôi vua trốn lên núi Yên Tử xin Quốc Sư Phù Vân xuất gia cầu làm Phật, nhưng gặp phải Trần Thủ Độ đòi lập cung đình trên núi, cùng với lời khuyên của Quốc Sư nên bất đắc dĩ phải trở về, thì Trần Nhân Tông lại phát huy nhân cách của Ông mình, khi được lập làm Hoàng Thái Tử, Ngài cố từ chối nhường ngôi cho em, nhưng vua cha không cho. Chứng tỏ trong nhà có báu thôi tìm kiếm. Các Ngài làm vua là vì trách nhiệm, bổn phận với non sông đất nước chớ không phải vì lòng tham vọng với quyền uy. Đây là đạo lý vô ngã, cao thượng, là nhân tố tích cực để xây dựng thời đại tốt đẹp.
- Nếu trước đó đời nhà Trần chiến thắng quân Nguyên Mông vào năm 1258, thì năm 1285 và 1288 Trần Nhân Tông lại liên tiếp hai lần lãnh đạo quân dân cũng lập nên chiến công hiển hách, giữ vững non sông đất nước, tạo thành truyền thống cao quý cho dân tộc Việt Nam, chúng ta cần phải tôn vinh và bảo vệ.
- Không những Ngài phát huy ý chí cao thượng của Tổ tiên mà còn tiếp nối phát huy thiền học của Đạo Phật, làm ngọn đuốc soi đường cho dân tộc và cho tất cả chúng sinh trong đời thường tội lỗi, chẳng biết chính tà, chẳng rõ lối đi, không phân thiện ác, sống trong những đêm dài tối tăm, mê muội, được hướng đến chân trời rộng mở hạnh phúc an vui hay liễu sinh thoát tử.
2. Tư tưởng Trần Nhân Tông thiết thực, hữu dụng cho mọi thời đại:
Sơ Tổ nói " Ở đời vui đạo hãy tùy duyên" làm tất cả việc đời mà vẫn vui với Đạo. Thế nên, Ngài là mẫu người lý tưởng cho mọi thời đại thể hiện trên các phương diện Đạo pháp, kinh tế xã hội, chính trị, quân sự, ngoại giao thật kiệt xuất, được minh chứng bằng thành quả trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Đồng thời hạnh phúc cũng hết sức bình dị, gần gũi, thiết thực qua bài Phú Cư Trần Lạc Đạo : "Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc; sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công" nghĩa là ở trong cõi trần tục này mà nên tốt đẹp, thì phước ấy đáng cho người yêu quý rất mực đến tột cùng, bằng ngược lại ở núi non mà chẳng biết đạo lý, không chỉ mang họa mà còn phí uổng công vô ích. Vì vậy mà Ngài bảo:" Vô minh hết Bồ đề thêm sáng, phiền não rồi đạo đức càng say". Tuy nhiên, cũng chớ lầm buông xả vào cõi đời với tâm đầy dục vọng cho là nên thì điều đó không thể có. Ngài dạy như sau: Đối với "Áng tư tài tỉnh sáng chẳng tham" thì mới chẳng "vì ở cánh diều Yên Tử", còn "Răn thinh sắc niềm dừng chẳng chuyển…" thì mới thật không cần "am Sạn non Đông" .
Mặc khác: "Bụt ở cong(trong) nhà, chẳng phải tìm xa", hay "Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương; Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc"thế cho nên "Miễn được lòng rồi, chẳng còn phép khác". Đây cũng chính là đạo lý thể hiện tinh thần tự chủ, đức tính tự tin và quả cảm của Thiền gia, được vua Trần vận dụng vào đời xây dựng nước nhà độc lập một cách toàn diện.
Thiền phái Trúc Lâm thời đại nhà Trần là một minh chứng cho nền giáo lý thâm sâu vi diệu Phật Đà bình dị mà vĩ đại, gần gũi nhưng siêu nhiên là một trong những đặc điểm nổi bật của một thời đại Phật giáo Thiền tông Việt Nam, cần được khôi phục bảo tồn giá trị thiết thực này, làm phong phú thêm cho nền văn hóa dân tộc hiện nay.
3. Giá trị cao thượng của bậc xuất gia: Vua Phật-Trần Nhân Tông đã công hiến cho đời:
- Ở điểm vinh quang tột đỉnh của đời thường, thế nhưng Ngài lại từ bỏ ngai vàng, ngôi vị Thái Thượng Hoàng đi tu. Điều đó chứng minh rằng: hạnh phúc chân thật không ở chỗ địa vị cao sang mà chỉ có ở con người biết Đạo. Ngài đã vạch ra con đường cho những ai với nhiệt huyết tuôn trào, đang lạc lối chưa tìm đâu lẽ sống. Quả là giá trị của Đạo Phật và Thiền tông đã được Ngài nâng cao, đồng thời lấy đó làm mục tiêu lý tưởng, sự nghiệp của đời mình và cho hậu thế.
- Lý luận cũng chỉ là màu xám còn thực tiễn mới quả là cây Bồ đề mãi mãi xanh tươi, muốn xây dựng gia đình và xã hội trước hết phải xây dựng chính mình, Trần Nhân Tông không những chiến thắng giặc ngoại xâm mà còn tự chiến thắng lấy mình-bỏ ngai vàng điện ngọc, cung phi mỹ nữ…lên núi tu hạnh đầu đà. Làm sao có thể hiểu nổi một vị vua mà lại "Áo rách che mây sáng ăn cháo, bình xưa tưới nguyệt tối uống trà"có những khi "Yên bề phận khó, kiếm chốn dưỡng thân" để rồi "Dốc chí tu hành, giấy sồi vó vá" mà "học đòi chư Phật; cho được viên thành; xướng khúc vô sanh; an thiền tiêu sái". Quả là Ngài thật bình thường mà vĩ đại, giản dị mà thâm thúy, thuận theo dòng thế tục mà chẳng mất bổn tâm xuất trần thượng sĩ.
4. Tinh thần tùy duyên vô ngã vị tha của vua Trần Nhân Tông:
Dân tộc ta rất yêu chuộng hòa bình, thường lấy đạo nghĩa để đối trị bạo tàn. Chiến đấu là điều bất đắc dĩ, chiến đấu là vì hòa bình. Thế nên, hàng loạt tù binh được trao trả, do không hạ thủ người dưới ngựa hay đầu hàng. Có công thưởng có tội trừng, thế nhưng không thưởng người đánh giặc trên đường rút lui như Hưng Trí Vương Nghiễn, khi có lệnh không được cản trở chúng mà ông vẫn tiến công; Sau chiến tranh Vua Trần còn sai đốt cả những giấy tờ chứng cứ nhân vật tiếp tay hay đầu hàng giặc để tạo sự an ổn, xóa tan những mặc cảm cho đời thường vì ham sống sợ chết; gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân tạo mối quan hệ tốt đẹp láng giềng, mở mang bờ cõi; chính sách nhân nhượng, ôn hòa nhưng cũng rất cương quyết với giặc phương Bắc để xác định chủ quyền dân tộc, độc lập hạnh phúc cho quần sinh.
Vì thế "chiến đấu không phải do lòng căm thù mà phát xuất từ lợi ích và lòng từ bi đối với nhân loại, thuận theo dòng đời, đúng như lời Quốc Sư Phù Vân nói:"Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm tâm của mình".
Điều đó đã trở thành truyền thống cao quý của dân tộc Việt Nam ta, đã được minh chứng trong việc bảo vệ hòa bình, ấm no hạnh phúc cho quần sinh.
5. Tinh thần bình đẳng tuyệt đối của Đạo Phật được vua Trần vận dụng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc bảo vệ đất nước:
- Phật dạy"Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành" hay "Phật là bậc vô thượng tôn", nghĩa là không ai hơn Phật nhưng có người bằng, cho nên kinh nói hằng hà sa số chư Phật. Do thế Đạo Phật được xem là Đạo bình đẳng tuyệt đối, tôn trọng tất cả mọi người. Trên cơ sở lấy tâm làm gốc, Thiền tông vượt ngoài khuôn khổ ở chỗ trước khi một niệm dấy khởi nó không có giai cấp, kể cả tôn giáo. Trong ĐVSKTT tờ 61a 4-8 ghi: "vua từng ngự chơi bên ngoài gặp các chú mục đồng đều gọi hỏi và răn các vệ sĩ không được la đuổi." Cho nên thời Trần chủ trương Tam giáo đồng nguyên, qua hai lần đại hội Diên Hồng, Bình Than, đã tạo nên sức mạnh đoàn kết, là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc chiến vệ quốc vĩ đại.
6. Giá trị Thiền Phái Trúc Lâm ra đời và những tác phẩm văn Nôm của Trần Nhân Tông:
- …"Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được hình thành, là dòng Thiền đầu tiên của người Việt, do chính người Việt làm Tổ, kế tục sự nghiệp của Ngài còn có Nhị Tổ Pháp Loa và Tam Tổ Huyền Quang, Kim Sơn …đã đánh dấu bước ngoặc lịch sử trọng đại của Phật giáo Việt Nam, đồng thời mở ra nền văn hóa Thiền học nước nhà. Nó có tính phổ thông gần gũi với dân tộc. Trong nước đã sáng tạo và dùng chữ nôm như: văn tế "Cá Sấu" của Nguyễn Thuyên chẳng kém Hàn Dũ, biệt tài thơ Việt khôi hài của Nguyễn Sĩ Cố có khác gì với Đông Phương Sóc thời Hán hay Chu văn An…,các bậc Tổ Sư thiền gia cũng có văn Nôm như "Cư Trần Lạc Đạo Phú", "Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca" của Sơ Tổ Trúc Lâm ,"Vịnh Vân Yên Tự Phú"ù của Tam Tổ Huyền Quang, hay Giáo Tử Phú của Mạc Đỉnh Chi." ".
Chỉ riêng 2 bài Cư Trần Lạc Đạo Phú và Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca của Trần Nhân Tông có khoảng 2000 từ vựng khác nhau được xem như quyển từ điển nhỏ để nghiên cứu ngôn ngữ tổ tiên ta thời bấy giờ, là di sản văn hóa thật sự vô cùng quý báu.
Ngoài ra, Ngài còn để lại cho đời những tác phẩm bất hủ như Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Đại Hương Hải Ấn Thi Tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ. Tuy những tác phẩm này hiện nay không còn đầy đủ, nhưng nó cũng phản ánh giá trị và vị trí văn hóa Thiền học và những cống hiến cho đời của Sơ Tổ Trúc Lâm.
7. Đạo lý Thiền tông thâm sâu nhưng thiết thực tuỳ cơ là nền tảng đạo đức thời Trần:
Có người hỏi Sơ Tổ Trúc Lâm:"Thế nào là Phật?" được Ngài trả lời như sau: "Nhận đến như xưa vẫn không phải". Chứng tỏ Thiền tông vượt ngoài phạm trù ý thức, nếu như có nhận được cũng là vật từ ngoài, chẳng phải của báu nhà mình. Cùng câu hỏi đó, Ngài trả lời cho Pháp Loa như sau: "Cùng hầm đất không khác". Rõ ràng nếu không phải con cháu nhàThiền thì không sao thấu triệt.
Tuy nhiên cũng tùy căn cơ, Ngài không những lập am, mở tịnh xá, khai giảng đường tiếp độ tăng chúng như ở chùa Phổ Minh và Trại Bố Chính mà Sơ Tổ còn vân du khuyên dân chúng tu thập thiện và phá bỏ những dâm từ ( miếu thờ thần không chính đáng).
Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi:"Phật giáo Thiền tông thời Trần không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người…"Thật vậy, các vua quan thời Trần phần nhiều là những hành giả tham thiền ngộ đạo, đem đạo lý thiền cai trị muôn dân. Tuệ Trung là tướng sĩ mà cũng là Thiền gia lỗi lạc, là thầy của Trần Nhân Tông, không những hàng cư sĩ mà ngay cả tu sĩ cũng tìm đến Ngài tham học, cho đến Trạng nguyên như Ngài Huyền Quang, hay thứ dân như Pháp Loa, đều thấm nhuần đạo lý Thiền Tông Phật giáo và tu hành giác ngộ làm Tổ.
Đây là một minh chứng cho đời sống đạo đức tinh thần văn hóa dân tộc, đặc biệt là Thiền học đã mở ra chân trời cao rộng của một thời đại và cho con cháu mai sau, mà vai trò của Sơ Tổ Trúc Lâm đã cống hiến thật vô cùng to lớn. Điều đó đã chứng minh rằng, người tu không phải yếm thế, siêu hình, xa rời thực tế, dị đoan mà là một sự hy sinh, cống hiến cho đời thêm tươi đẹp, đem lại thái bình cho dân tộc, ấm no hạnh phúc và lẽ sống cho quần sinh. Hơn thế nữa, đệ tử Phật còn có những giá trị siêu nhiên liễu sinh thoát tử, ngay trong đời thường bình dị, giữa cuộc đời dù có đứng trước những nghịch cảnh bão táp với phong ba.
8. Ánh sáng giác ngộ được minh chứng thực tiễn:
Theo Thánh Đăng Lục, Sau khi thăm công chúa Thiên Thụy, Ngài dừng lại ở Am Bình Dương vì Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu mời thọ trai Ngài biết được "Đây là bữa cúng dường rốt sau". Ngày 21.10 năm Mậu Tý 1308) khi Bảo Sát đến am Ngọa Vân, Ngài trông thấy mĩm cười bảo:"Ta sắp đi đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Đối với Phật pháp ngươi có chỗ nào chưa rõ hãy nói mau !". Rồi vào lúc canh ba ngày 1 tháng 11 Tổ hỏi Bảo Sát "Hiện giờ là giờ gì ?" Bảo Sát bạch: "Giờ Tý". Ngài vén màn cửa sổ nói:" Đến giờ ta đi !" Bảo Sát hỏi : "Tôn đức đi đâu ?" Ngài dùng kệ đáp:
Tất cả pháp không sinh,
Tất cả pháp không diệt.
Nếu hay hiểu như thế,
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi ấy vậy.
Bảo Sát hỏi: " ví như chẳng sinh chẳng diệt thì thế nào ?"
Ngài liền nhằm vào miệng Bảo Sát tát cho một cái khai thị "Chớ nói mớ!" Nói xong Ngài bèn nằm như sư tử an nhiên thị tịch.
Sống chẳng biết từ đâu đến, khi chết đến chẳng biết lúc nào? Chết rồi cũng chẳng biết sẽ ra sao, có khi lại mê mờ hay hoảng sợ, đây là chỗ vô minh tăm tối chẳng rõ số phận của mình là đặc điểm của phàm phu. Thế nhưng đối với bậc giác ngộ "Sinh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ" còn duyên thì sống, hết duyên sống thì chết ngay. Chết rồi sống lại, đến đi tự tại, làm chủ sinh tử là một đặc điểm của các bậc tiền bối Tổ Sư Thiền.
Sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông đã minh chứng là bậc chứng ngộ Thiền Tổ qua hình ảnh trước lúc viên tịch thể hiện sức sống với trí tuệ cao minh, và lòng từ đối với hàng môn đệ thật vô cùng rộng mở, thấm thiết như người cha lành dặn dò dạy bảo con trước lúc đi xa…
Hơn thế nữa, khi ở am Tử Tiêu Ngài leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, Bảo Sát thấy thế bạch:"Tôn đức đã già mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có bề gì thì mạng mạch Phật pháp biết trông cậy vào ai ?" Tổ bảo: "Thời giờ ta đã đến, ta muốn tạo kế lâu dài vậy!". Có lẽ vì thế mà tông phong của Thiền phái Trúc Lâm dù trãi qua những biến cố thăng trầm lịch sử, nhưng vẫn còn sống mãi trong lòng dân tộc và tồn tại đến hôm nay và còn cho cả mai sau.
V. PHÁT HUY GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG SƠ TỔ TRÚC LÂM VÀ TINH HOA THIỀN HỌC THIỀN PHÁI TRÚC LÂM :
Bởi vì ai ai cũng có tâm, cho nên mọi người đều có thể đến với Thiền, giác ngộ trở thành Phật, Tổ và cũng đều có thể là ngọn đuốc thắp sáng trí tuệ Thiền tông. Ở một niệm trước khi sinh khởi nó không có giai cấp và tôn giáo… là chỗ trí tuệ bình đẳng chúng ta đều được gặp nhau trong thâm tình pháp lữ. Hãy học theo gương hạnh của Tổ Sư "Ở đời vui đạo hãy tùy duyên" thuận theo dòng đời mà chẳng mất bổn tâm xuất trần thượng sĩ !
Với lòng thành, chúng tôi nguyện cầu ánh sáng trí huệ này sáng mãi, mọi người đều được thấm nhuần, đều nhận được bản tâm và đồng thành Phật đạo.
Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 700 năm ngày viên tịch của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, đúng nghĩa hơn chính là tìm hiểu, học tập tư tưởng và phát huy thời đại vàng son nhất của hồn thiêng dân tộc, mà tổ tiên ta đã dày công tạo dựng. Chúng ta hàng hậu học cần phải làm sáng tỏ những đặc điểm và giá trị văn hóa vĩ đại có tầm cở lịch sử nhân loại, đặc biệt là Thiền tông trên mảnh đất địa linh Yên Tử và phổ rộng trong cộng đồng xã hội, tạo thành truyền thống cao quý tiếp nối cho muôn đời con cháu mai sau. Không những chỉ viên thành trên cơ sở lý luận mà còn phải có những hành giả chân chính thực hành những hạnh nguyện Tổ tông, thì công trình văn hóa được xây dựng mới phản ánh được giá trị chân thật và thiết thực trong đời sống của dân tộc Việt nam ta.
Chùa Lân - Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử
Thứ Tư, 5 tháng 10, 2011
Sự vĩ đại của Đức Phật
"Nếu bạn muốn thấy người cao đẹp nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin. Chính là Phật đó. Siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại giữa con người."
Đức Phật là một con người có nhân cách đặc biệt siêu phàm, có một không hai trong lịch sử của nhân loại. Một nhà văn hào Âu châu nhận định rằng:
"Không có nơi nào trong thế giới tôn giáo, sùng bái và tín ngưỡng mà chúng ta có thể tìm thấy một vị giáo chủ chói sáng như thế ! Trong hàng loạt các vì sao, ngài là vì tinh tú khổng lồ, vĩ đại nhất. Một số các khoa học gia, triết gia, các nhà văn hóa đã tuyên bố về ngài "Con người vĩ đại nhất chưa từng có." Ánh hào quang của vị Thầy vĩ đại nầy soi sáng cái thế giới đau khổ và tối tăm, giống như ngọn hải đăng hướng dẫn và soi sáng nhân loại." (Phật Giáo dưới Mắt các Nhà Trí Thức)
I. ĐỨC PHẬT LÀ AI?
Đức Phật là ai? Một câu hỏi được đặt ra hơn 25 thế kỷ; những nhận định, phê phán đầy tính hoài nghi, rồi những phát biểu, tán dương đầy xác định tin tưởng ở nơi con người đối với Đức Phật, cho đến nay vẫn là nguồn cảm hứng vô tận. Bởi lẽ như Carl Jung, một nhà tâm lý học, phát biểu rằng: "Bao giờ cái nhìn của bạn cũng bị giới hạn bởi những gì bạn đang có và đang là." Vì vậy với các góc độ nhìn khác nhau, người ta sẽ có những cảm xúc, những cái nhìn khác nhau về Đức Phật.
Giáo thuyết của Đức Phật xuất phát từ kinh nghiệm tu chứng tự thân ngài, một loại kinh nghiệm khác với các kinh nghiệm thông thường phổ biến. Cho nên hiểu một cách chính xác về Đức Phật là điều bất khả, như trong kinh nói chỉ có Phật với Phật mới hiểu được nhau.
Thời Đức Phật còn tại thế, những kẻ chống đối ngài thường lên tiếng chỉ trích, vu khống ngài với những lời lẽ tầm thường hay những luận điệu triết học, như nói ngài còn ham muốn danh vọng, ngài là người chủ trương phá hoại sự sống (Kinh Magandiya), chê ngài không có khả năng đặc biệt của các bậc thánh (Kinh Sư tử hống) cho ngài là một Sa-môn xử dụng huyễn thuật (Kinh Ưu-ba-li) v. v… Bên cạnh những chỉ trích thì những lời lẽ ca ngợi tán dương cũng rất phong phú. Những người trí thức của xã hội thường ca ngợi ngài rằng: "Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối" (Trung Bộ Kinh). Dù Ngài bị chỉ trích hay được ca ngợi ngài vẫn an nhiên tự tại, không giao động, không bất mãn, không hoan hỷ. Một người ngoại đạo ca ngợi Phật rằng:
"Thật kỳ diệu thay! Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay ! Tôn giả Gotama ! Dầu cho Tôn giả Gotama bị chống đối một cách mĩa mai, dầu cho bị công kích với những lời lẽ buộc tội trong cuộc đối thoại, màu da tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt tôn giả vẫn hoan hỷ như một A-la-hán Chánh đẳng giác." (Đại kinh Saccaka)
Ngài thường được mọi người gọi là bậc Đạo sư hay vị Lương y, vì ngài chỉ cho mọi người con đường giải thoát và ngài chữa trị bịnh khổ cho nhân loại.
Một số bài kinh trong kinh tạng nguyên thủy có ghi lại một cách thú vị những lời tuyên bố của Đức Phật về chính Ngài. Dưới đây là vài dẫn chứng:
Một hôm, trên đường đến vườn Lộc Uyển để vận chuyển bánh xe chánh pháp, ngài gặp một vị Đạo sĩ tên là Upaka. Đạo sĩ hỏi: "Nầy hỡi Đạo hữu ! Ngũ quan của Đạo hữu thật vô cùng trong sáng. Nước da của Đạo hữu thật trong trẻo và tươi tắn. Hỡi nầy Đạo hữu, vì sao Đạo hữu từ bỏ đời sống gia đình? Thầy của Đạo hữu là ai? Đạo hữu truyền bá giáo lý của ai? Đức Phật trả lời:
"Như Lai đã vượt qua tất cả,
Như Lai đã thông suốt tất cả.
Như Lai đã vượt bỏ mọi trói buộc
Như Lai đã thoát ly tất cả
Như Lai đã chú hết tâm lực tận diệt tham dục.
Đã thấu triệt tất cả, Như Lai còn gọi ai là thầy?
Không ai là thầy của Như Lai
Không ai đứng ngang hàng với Như Lai.
Trên thế gian nầy, kể cả chư thiên và Phạm thiên
Không ai có thể sánh với Như Lai.
Quả thật, Như Lai là một vị A-la-hán trên thế gian nầy.
Như Lai là Tôn sư vô thượng;
Chỉ một mình Như Lai là bậc tòan giác, vắng lặng và thanh tịnh.
Như Lai đang đến thành Kàsi để vận chuyển bánh xe Pháp bảo giữa thế giới mù quáng.
Như Lai sẽ gióng lên hồi trống vô sanh bất diệt."
Upaka hỏi vặn: "Nầy đạo hữu, vậy phải chăng đạo hữu đã tự nhận là A-la-hán, là bậc siêu hùng quyền lực vô biên?" Đức Phật xác định:
"Tất cả những bậc siêu hùng đã chinh phục mọi ô nhiễm của mình đều giống Như Lai. Như Lai đã chinh phục, tận diệt tất cả những gì xấu xa tội lỗi. Vậy, nầy Đạo sĩ Upaka, Như Lai là bậc siêu hùng" (Kinh Thánh cầu TBK).
Đức Phật xác định rất rõ ngài là người đã chinh phục mọi ô nhiễm, do vậy, ngài là người cao thượng nhất trên đời. Đây là lời tuyên bố đầu tiên về giá trị cao thượng tuyệt đối của Phật đối với mọi loài chúng sanh, ma về蠳au lời tuyên bố nầy đã được khái quát hóa thành câu nói đặt trong bối cảnh biểu tượng Đản sanh: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn" (Trên trời dưới trời chỉ có Như Lai là tối thượng). Cuộc đời hoằng hóa của ngài đã chứng tỏ những gì mà ngài đã tuyên bố như trên là sự thật. Một lần có giáo phái ngoại đạo muốn đến tham vấn về đạo lý với Đức Phật bởi họ nghe nói Phật là người đã vượt qua mọi ô nhiễm, đạt được sự thanh tịnh hoàn toàn. Họ đã bàn nhau và cử người giám sát Đức Phật liên tục trong bảy ngày để xem Phật có thật sự thanh tịnh như người ta đồn không. Cuối cùng người được cử đi giám sát trở về báo lại rằng: Quả thực Sa-môn Gotama là người hoàn thiện trong lúc ngủ cũng như lúc thức cho đến những cử động nhỏ bé nhất như khi Ngài bước qua một vũng nước hay Ngài vén chéo áo lên . . . đều đầy thánh thiện. (Trung Bộ Kinh)
Lần khác khi bị chỉ trích về khả năng và mục đích của Phật, sau khi phân tích những sai lầm của họ, Đức Phật dạy rằng:
"Nầy Sari putta, những ai muốn nói về ta một cách đúng đắn thì phải nói như thế nầy: (Đức Phật là) Một hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ỡ đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người" (Kinh Sư Tử Hống, Trung Bộ Kinh).
Lời tuyên bố nầy nói lên phẩm chất của một vị Phật là Trí tuệ viên mãn (không bị si chi phối) và lòng thương yêu cứu giúp muôn loài vô tận.
II. SỰ CHỨNG NGỘ CỦA PHẬT
Tất cả những năng lực của Đức Phật đều xuất sinh từ Tuệ giác của Ngài, nghĩa là từ nội dung chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác dưới cội Bồ đề. Có lần một Du sĩ ngoại đạo tên là Vacchagotta hỏi Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, con nghe người ta nói rằng Sa-môn Gotama là bậc nhất thiết trí, là bậc nhất thiết kiến, ngài tự cho là mình có tri kiến hoàn toàn, khi đi, khi đứng, khi ngủ, khi thức tri kiến luôn luôn tồn tại và liên tục.
Bạch Thế Tôn, những điều mà người ta nói như vậy có đúng với sự thực không, họ có vu khống Đức Thế Tôn không? Đức Phật đáp rằng, họ nói như vậy là không đúng với điều ngài đã nói, là vu khống ta. Như vậy Đức Phật phủ nhận ngài có một loại Trí tuệ lúc nào cũng hiện diện và thấy biết cùng khắp, trong lúc thức cũng như trong lúc ngủ. Vacchagotta hỏi: vậy phải nói như thế nào mới đúng? Đức Phật dạy rằng nếu muốn nói đúng thì phải nói Sa-môn Gotama là bậc có Ba minh.
Khi nào ta muốn, ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời…cho đến nhiều đời sống qúa khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết. Nầy Vacchagotta, nếu ta muốn thì với Thiên nhãn thuần tịnh, ta thấy được sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẻ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh…đều do hành nghiệp của họ. Này Vacchagotta, với sự đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thượng trí giác ngộ, ta an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Nói như vậy là nói đúng về ta. (Kinh Ba minh Vacchagotta)
Như vậy Tam Minh: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh là nội dung chứng ngộ của Phật. Đặc biệt chỉ có Phật mới có một cách đầy đủ Ba minh, mặc dù trên lộ trình tu tập Ba minh luôn được coi là những thành quả sau cùng của một hành giả đắc đạo. Đây có thể là một trong những điều khác biệt giữa Đức Phật và đệ tử. Tiến trình giác ngộ bắt đầu từ :
"Ly dục ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Diệt tầm và tứ chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh."
Đức Phật và các Thánh đệ tử đều đi qua Tứ thiền, trên cơ sở thiền thứ tư, tâm định tĩnh và nhu nhuyến, dễ xử dụng, hành giả có thể hướng tâm đến các đối tượng Sáu Thần thông hay Ba minh, chứng ngộ tối hậu. Đây là lộ trình thứ nhất. Lộ trình nầy được khuyến khích và trở nên rất phổ biến. Phần lớn các thầy đều theo hướng nầy. Lộ trình thứ hai là từ thiền thứ tư, đi qua Không vô biên xứ, là vượt qua sắc tưởng, chướng ngại tưởng. Hướng tâm đến hư không là vô biên chứng và trú Không vô biên xứ. Vượt qua tiếp tục chứng và trú thức vô biên xứ. Vượt qua thức vô biên chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vượt qua vô sở hữu xứ chứng và trú Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ. Vượt qua Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt Thọ Tưởng Định. Từ định nầy chứng đắc Ba minh. Lộ trình nầy Đức Phật cũng đã đi qua. (Kinh Phân Biệt Sáu Xứ, Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy)
Trong kinh tạng Nguyên thủy không thấy ghi chép vị thánh đệ⠴ử nào tự tuyên bố là mình đã chứng được Ba minh. Thường thì các ngài được giới thiệu đã chứng A-la-hán, chứng Diệt Thọ Tưởng định, và đoạn trừ các lậu hoặc (tương đương với Lậu tận minh). Trong kinh Sáu Thanh Tịnh (Trung Bộ Kinh) Đức Phật dạy về tiến trình tu tập của một vị Tỳ kheo khi chứng được thiền thứ tư xong thì:
"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ xử dụng, vững chắc bình thản như vậy, tôi dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Tôi biết như thật: Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là khổ diệt, đây là con đường đưa đến khổ diệt. Biết như thật: Đây là những lậu hoặc, đây là Nguyên nhân của lậu hoặc, đây là lậu hoặc được diệt trừ, đây là con đường đưa đến các lậu hoặc được diệt trừ."
Như vậy điều cần thiết cho các đệ tử là phải thoát khỏi "dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu" để đạt được "sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; không còn trở lui trạng thái nầy nữa." Từ đó chúng ta có thể thấy rỏ rằng khả năng Thần thông của các đệ tử đều có giới hạn, và vấn đề tu chứng không gắn liền với khả năng thần thông, vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ngài Mục-kiền-liên được cho là đệ tử Thần thông số một trong các Thánh đệ tử. Đức Phật không khuyến khích các đệ tử đi vào các thần thông như Thần túc, Thiên nhãn, Tha tâm, Túc mạng, và Thiên nhãn; ngài chú trọng và khích lệ các đệ tử hướng tâm vào Lậu tận Minh để thành tựu mục đích tối hậu, giải thoát sinh tử. Các khả năng thần thông không giúp ích gì cho một người chưa đoạn trừ các ô nhiễm của tâm thức.
Quá trình chứng đạo của Phật là một chuổi đột phá, vượt qua mọi thử thách bằng thực nghiệm. Tất cả các pháp có tính giao động đều vượt qua, thành tựu an trú các bất động pháp. Đặc biệt trong các trạng thái của Tứ thiền đều phát sinh một cảm giác hạnh phúc (lạc thọ), ngay cả trong Ba minh cũng có cảm giác hạnh phúc, nhưng những cảm giác ấy tồn tại mà không chi phối tâm ngài (Kinh Saccaka).
Đối với các Thần thông ngài đã tuần tự chứng đắc Thần túc thông, Thiên nhỉ thông, Tha tâm thông trước khi ngài thành Phật. Trong đêm thành đạo ngài mới chứng tiếp 3 Thần thông sau cùng theo thứ tự Túc mạng thông, Thiên nhãn thông và Lậu tận thông. Phật dạy:
"Khi ta chưa chứng Chánh Đẳng Giác ta đã nổ lực tu tập 5 pháp: Ta đã tu tập Thần túc với Dục định tinh cần hành, Tinh tấn định tinh cần hành, Tâm định tinh cần hành, Tư duy định tinh cần hành và Tăng thượng tinh tấn, tùy theo ta hướng tâm đến pháp nào, ta có thể chứng đạt pháp ấy" (Tăng Chi II).
Không có pháp nào làm chướng ngại đức Phật, không có pháp nào mà Đức Phật không thấy rõ, biết rõ, vì vậy đệ tử thường gọi ngài là Đấng Pháp Vương.
III. KẾT LUẬN
Nhân ngày kỷ niệm Đức Phật Thành Đạo Phật lịch 2545, đôi lời nói về sự vĩ đại, sự
thanh tịnh, sự chứng ngộ của Đức Phật chỉ để bày tỏ lòng kính ngưỡng của người con Phật và để tri ân Người đã khai sinh ra con đường giải thoát cho nhân loại. Với những ngôn từ hữu hạn giữa cuộc đời đầy ô nhiễm, con người không thể ca ngợi hết được sự vĩ đại của Đức Phật. Ngài A-nan-da cũng đã từng nói về sự vĩ đại của Phật rằng:
"Này Bà-la-môn, Đấng Thế Tôn ấy là bậc làm cho khởi dậy con đường trước đây chưa từng được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo."
Để kết thúc, xin mượn lời của một thi nhân Hồi giáo, Abdul Atahiya ca ngợi Đức Phật:
"Nếu bạn muốn thấy người cao quý nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin. Chính là Phật đó. Siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại giữa con người." (Đức Phật dưới mắt các nhà tri thức)
Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011
Lợi ích của niềm tin tôn giáo

Thiên Chúa đã “gặp khó khăn” trong vài năm qua. Trên ti-vi, báo chí và internet, việc tranh luận về mối liên quan trong thế giới hiện đại đa nghi có niềm tin hay không xuất hiện tràn lan và dữ dội. Và vấn đề khá rõ là phe nào nổi nóng nhất.
Từ những cuộc bút chiến vô thần dữ dội (atheist polemics) của Richard Dawkins tới sự nhạo báng công khai của Christopher Hitchens về việc ông Tony Blair gia nhập Công giáo và lời tuyên bố của Stephen Hawking rằng “nhân loại không cần Thiên Chúa”. Điều đó có vẻ như những người không có niềm tin cũng đã tin. Họ có vậy không?
Khi nghiên cứu cuốn tiểu thuyết Bible Of The Dead (Kinh thánh của kẻ chết), tôi đã mất nhiều tháng tìm hiểu khoa học đức tin đối với thuyết vô thần (atheism), và phát hiện những chứng cớ rất bất ngờ. Có thể chỉ cần thay đổi cách suy nghĩ của bạn về toàn bộ cuộc tranh luận, vì nó đã thay đổi quan điểm của tôi.
Tôi không là người cuồng tín (zealot). Ngược lại, tôi là người vô thần niên thiếu (teenage atheist). Dù tôi đã trưởng thành, tôi vẫn có cảm giác mơ hồ rằng “phải có cái gì đó ở bên ngoài”. Tôi không thường xuyên đi nhà thờ. Trong quá trình tìm hiểu khoa học đức tin, điều mà tôi khám phá ra đã khiến tôi sửng sốt.
Bắt đầu từ 2 năm trước, khi tôi du lịch ở bang Utah, cái nôi của giáo phái đa thê (mormonism). Trong tuần lễ đầu tiên ở đó, tôi tiếp cận tôn giáo kỳ cục này của Mỹ với thuyết khuyển nho (cynicism) chủ yếu của Âu châu. Tôi ghẹo mấy ông nhiều vợ về sở thích “nội y tâm linh” (spiritual undergarments) của họ. Tôi thất vọng vì không thể tìm ra cà-phê sữa đứng đắn (decent cappuccino) – quý ông đa thê không được uống cà-phê, uống rượu, uống trà, hút thuốc lá hoặc “ăn cơm trước kẻng” (premarital sex).
Nhưng rồi tôi có cái để biết rõ. Một đêm nọ, sau khi ăn tối, tôi trở về khách sạn ở Salt Lake City lúc 2 giờ sáng, tôi bất ngờ nhận ra: Mình an toàn. Như mọi du khách đều biết, đây là một kinh nghiệm khá khác thường ở một thành phố Mỹ sau nửa đêm.
Tại sao tôi cảm thấy an toàn? Vì tôi ở trong một thành phố rất nhiều ông đa thê, và các ông này không bao giờ đi cướp giật. Họ có thể làm bạn chán hoặc làm phiền bạn khi họ đến gõ cửa nhà bạn, rình mò niềm tin của bạn, nhưng họ sẽ không tấn công bạn.
Lòng sùng đạo và sự tử tế của những ông đa thê làm cho thành phố của họ tốt lành hơn. Điều đó khiến tôi suy nghĩ: Tại sao tôi quá khinh khỉnh với những người hiếu khách và vui vẻ như vậy? Điều gì cho phép tôi chế nhạo tôn giáo của họ? Từ lúc đó, tôi quan tâm nhiều hơn tới những lợi ích khả dĩ của niềm tin tôn giáo. Không phải một tôn giáo mà tất cả các tôn giáo. Và tôi đã ngạc nhiên với những gì tôi phát hiện.
Suốt 30 năm qua, khoa học chứng minh rằng niềm tin tôn giáo có lợi ích về y học, xã hội và tâm lý. Năm 2006, Hội Cao huyết áp Hoa kỳ (American Society of Hypertension) đã chứng minh rằng những người đi nhà thờ có huyết áp thấp hơn người không có niềm tin.
Cũng vậy, năm 2004, các nhà nghiên cứu tại ĐH California, ở Los Angeles, chứng tỏ rằng các học sinh có liên quan các hoạt động tôn giáo có thể có sức khỏe tâm thần và tình cảm tốt hơn những người khác. Trong khi đó, năm 2006, các nhà nghiên cứu tại ĐH Texas thấy rằng càng thường xuyên đi nhà thờ thì càng sống thọ.
Việc tham dự các hoạt động tôn giáo kết hợp với tỷ lệ tử vong ở người lớn theo kiểu có chắt lọc: có sự chênh lệch 7 năm về tuổi thọ giữa những người không đi nhà thờ và người đi nhà thờ hằng tuần.
Kết quả tương tự đã được tường trình trên báo American Journal of Public Health, họ đã nghiên cứu 2.000 người dân ở bang California trong 5 năm. Những người đi nhà thờ ít tử vong hơn 36% trong 50 năm so với những người không đi nhà thờ. Ngay cả những tham dự việc thờ phượng không thường xuyên – ngụ ý niềm tin không mạnh – cũng vẫn thọ hơn những người không bao giờ tham dự việc thờ phượng. Khá ấn tượng. Nhưng còn nữa.
Năm 1990, báo American Journal of Psychiatry phát hiện rằng những người có niềm tin tôn giáo bị nứt xương hông thì ít bị trầm cảm hơn, mau xuất viện hơn và có thể bước đi xa hơn so với những người không có niềm tin tôn giáo.
Không chỉ là xương hông. Các khoa học gia phát hiện rằng những người có niềm tin tôn giáo bị ung thư vú, nghẽn động mạch vành và viêm khớp cũng phục hồi mau hơn những người không có niềm tin tôn giáo, trẻ em cũng ít bị viêm màng não (meningitis). Cuộc nghiên cứu năm 2002 cho thấy những người có niềm tin tôn giáo thụ tinh trong ống nghiệm cũng tốt hơn những người không có niềm tin tôn giáo.
Cuộc nghiên cứu năm 1999 cho thấy những người tham dự các hoạt động thờ phượng hoặc cầu nguyện thì có hệ miễn nhiễm mạnh. Các lợi ích này tích lũy với sự thật rằng những người có niềm tin tôn giáo ít hút thuốc lá, ít uống rượu và ít lạm dụng ma túy hơn. Quả thật, tôn giáo có lợi cho xã hội.
Niềm tin không chỉ chữa lành cơ thể mà còn cứu chữa tinh thần. Năm 1998, báo American Journal of Public Health phát hiện rằng các bệnh nhân trầm cảm có niềm tin “tự bản chất” (sâu sắc, không a-dua) có thể phục hồi nhanh hơn 70% so với bệnh nhân có niềm tin không mạnh. Năm 2002, một cuộc nghiên cứu khác cho thấy rằng việc cầu nguyện làm giảm bất lợi ở các bệnh nhân bệnh tim.
Năm 2008, GS Andrew Clark thuộc Trường Kinh tế và TS Lelkes thuộc Trung tâm Âu châu về Chính sách và Nghiên cứu Phúc lợi Xã hội (European Centre for Social Welfare Policy and Research) đã nghiên cứu nhiều về dân Âu châu. Họ thấy rằng những người có niềm tin tôn giáo – so với những người không có niềm tin tôn giáo – ít bị stress, có thể xử lý tốt vấn đề mất việc và ly hôn, ít tự tử, tự tin hơn, có “mục đích sống” (life purpose) và sống hạnh phúc hơn.
Điều gây ngạc nhiên về cuộc nghiên cứu này là nhóm nghiên cứu không chủ ý tìm kết quả này – kết quả đó xảy ra bất ngờ. GS Clark nói: “Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu để tìm nguyên nhân một số nước Âu châu có tiền trợ cấp thất nghiệp nhiều hơn các nước khác”. Nhưng khi tiếp tục tìm hiểu thấy có biểu hiện của đức tin. Phân tích của chúng tôi cho thấy những người có niềm tin tôn giáo ít bị tổn hại tâm lý vì thất nghiệp những người không có niềm tin tôn giáo. Những người có niềm tin tôn giáo bằng lòng với cuộc sống hơn.
Vậy tại sao tôn giáo tác dụng minh nhiên như vậy?
Một trong các cuộc nghiên cứu công bố năm 2010, do GS Chaeyoon Lim và GS Robert Putnam thuộc ĐH Harvard thực hiện, cho thấy rằng những người có niềm tin tôn giáo hạnh phúc hơn những người không có niềm tin tôn giáo. Họ thấy rằng có nhiều lợi ích về sức khỏe nhờ niềm tin tôn giáo nếu bạn thường xuyên đi nhà thờ và có những bạn tốt ở đó. Nói cách khác, đó là phần tôn giáo được tổ chức đã tạo nhiều điều tốt.
Đến nhà thờ, đền đài hoặc chùa chiền tạo cho bạn một mạng lưới xã hội rộng và có người hỗ trợ, điều này giúp bạn có cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống và được nâng đỡ khi bạn cần. Các khoa học gia của ĐH Harvard đã ngạc nhiên vì các phát hiện của họ khiến họ cân nhắc việc thay đổi thái độ đối với tôn giáo. GS Lim nói: “Tôi không có niềm tin tôn giáo, nhưng… tôi bắt đầu suy nghĩ về việc tôi có nên đến nhà thờ hay không. Điều này hẳn sẽ làm mẹ tôi vui”. Nhưng nếu “hiệu quả giáo đoàn” (congregation effect) là một cách giải thích về sức khỏe tốt của những người đi nhà thờ thì đó không là cách giải thích duy nhất. Các cuộc nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng thực chất niềm tin cũng quan trọng.
Chẳng hạn, một cuộc nghiên cứu với 4.000 người cao tuổi của báo U.S. Journal of Gerontology cho thấy rằng những người vô thần có nhiều nguy cơ tử vong trong khoảng 6 năm so vói những người có niềm tin tôn giáo. Những người có niềm tin tôn giáo sống thọ hơn những người không có niềm tin tôn giáo dù họ không thường xuyên tham dự các giờ thờ phượng. Nghiên cứu này cho thấy có lợi ích trong niềm tin tôn giáo thuần túy – có thể tính tôn giáo tác dụng nhờ việc tạo ra ý nghĩa sâu sắc về mục đích nội tâm và sự an ủi khi đau buồn.
Thử đặt vấn đề: Cứ cho là các chứng cớ cho rằng tôn giáo tốt cho bạn, vậy làm sao những người vô thần có vẻ chống lại điều đó? Họ hãnh diện về sự hợp lý của họ, nhưng rất nhiều chứng cớ theo kinh nghiệm (empirical evidence) cho thấy Thiên Chúa tốt cho bạn. Đúng vậy, đó là người vô thần, không là người sùng đạo, ai hành động bất hợp lý? Không lạ gì tất cả những điều này xảy đến với nhiều sinh viên khoa di truyền học và tiến hóa, từ lâu họ vẫn nghĩ rằng niềm tin tôn giáo có thể đã được “kết nối phần cứng” (hard-wired) với đầu óc con người.
Chẳng hạn, các cuộc nghiên cứu về song sinh (nghiên cứu về sự giống nhau của các cặp song sinh được tách ra lúc sinh) cho thấy rằng tôn giáo là một đặc tính di truyền (heritable characteristic): nếu một người song sinh có niềm tin tôn giáo thì người kia có thể trở thành người có niềm tin tôn giáo, cho dù hai người không được cùng cha cùng mẹ nuôi dưỡng.
Các nhà thần kinh học đang tạo một tiến trình thú vị trong việc định vị các vùng não, mới đầu là vỏ não thùy trán (frontal cortex), vùng “đảm nhiệm” về niềm tin tôn giáo – các vùng não có vẻ được tạo để “ăn khớp” với niềm tin tôn giáo. Nghiên cứu này có tên là “thần học thần kinh” (neurotheology).
Tại sao chúng ta được “nối kết phần cứng” để có niềm tin tôn giáo? Chính xác là vì tôn giáo làm cho chúng ta hạnh phúc hơn và khỏe mạnh hơn, do đó khiến chúng ta có nhiều con cái hơn. Theo thuật ngữ thuần túy nhất của Darwin: “Trời không chỉ tốt cho bạn mà còn tốt cho gen của bạn” (God isn’t just good for you, He’s good for your genes, too).
Ngược với điều mong đợi, tất cả những điều đó nghĩa là người vô thần lập dị (eccentric), bất toàn (flawed) và không thích nghi (maladaptive), còn người sùng đạo khỏe mạnh (healthy), thích nghi (well-adjusted) và bình thường (normal). Theo thuật ngữ tiến hóa, thuyết vô thần là ngõ bí (atheism is a blind alley). Trên khắp thế giới, những người có niềm tin tôn giáo có nhiều con hơn những người không có niềm tin tôn giáo, còn các xã hội vô thần là các xã hội có tỷ lệ sinh thấp nhất.
Cộng hòa Séc (Czech Republic) là một ví dụ cũ. Nước này tuyên bố là nước vô thần nhất Âu châu, nếu không nhất thế giới. Họ còn có tỷ lệ sinh thấp là 1,28 đối với một phụ nữ, một trong các tỷ lệ thấp nhất thế giới (và rồi không người Séc nào dám tuyên bố vô thần nữa). Tuy nhiên, sự hiện hữu của thuyết vô thần là điều gì đó bất thường. Nhưng rồi những điều bất thường đó được nhận ra trong sự phát triển.
Nghĩ về loài chim cưu (dodo, thuộc họ bồ câu) hoặc loài vẹt không biết bay (flightless parrot), chúng đều bị tuyệt chủng. Đó không là điều để tôi nói mà để bạn suy nghĩ. Những gì tôi biết là việc đánh giá nghiên cứu đã thay đổi cách nghĩ của tôi về niềm tin tôn giáo. Ngày nay, tôi đi nhà thờ khá nhiều, nhất là khi tôi đi đây đó và nghiên cứu sách vở.
Chẳng hạn, có một ngày tôi thấy mình ở Cambridge – quê hương của Stephen Hawking – và có dịp tham quan những nơi đặc biệt của thành phố này. Tôi đi ngang qua phòng nghiên cứu mà Hawking làm việc, ghé vô quán rượu mà họ thông báo đã tìm ra DNA và ngắm nhìn thư viện mà Charles Darwin đã nghiên cứu. Khi đó, tôi sợ những thành tựu của con người.
Sau đó tôi đến dự lễ chiều tại một nhà nguyện. Thật đẹp đẽ, tuyệt vời và hướng thượng.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Daily Mail)