Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 10 tháng 10, 2011

Nobel Kinh tế 2011 thuộc về hai người Mỹ


Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims - hai nhà khoa học người Mỹ đã được trao giải Nobel Kinh tế 2011 vì những nghiên cứu của họ về chính sách kinh tế vĩ mô.
>Nobel Kinh tế 2010/2009/2008

Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã công bố chủ nhân của giải Nobel Kinh tế học năm nay, thuộc về hai nhà khoa học Mỹ Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims.

Christopher Albert "Chris" Sims, sinh năm 1942 là nhà kinh tế học người Mỹ. Hiện ông là Giáo sư cấp cao giảng dạy bộ môn Kinh tế và Ngân hàng tại Đại học Princeton.

Còn Thomas John "Tom" Sargent, sinh năm 1943 là nhà kinh tế học chuyên nghiên cứu kinh tế vĩ mô, và tiền tệ. Ông được tôn vinh là một trong những nhà kinh tế học có ảnh hưởng nhất trên thế giới hiện nay.

Hai nhà kinh tế học vừa đoạt giải Nobel.
Hai nhà kinh tế học vừa đoạt giải Nobel.

Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển tuyên bố trao giải Nobel Kinh tế năm 2011 cho hai nhà khoa học người Mỹ Thomas Sargent và Christopher Sims vì những nghiên cứu của họ về mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của chúng lên nền kinh tế.

Hai người chiến thắng đã trả lời được những câu hỏi như kinh tế tăng trưởng như thế nào và lạm phát bị chi phối bởi sự tăng lên tạm thời của lãi suất và cắt giảm thuế ra sao. Họ thực hiện những nghiên cứu độc lập từ những năm 1970 và 1980.

Nghiên cứu của Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims chủ yếu xoay quanh quan hệ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với những biến đổi của nền kinh tế. Tương tự như câu chuyện “con gà và quả trứng”, giới kinh tế học trước đây thường tranh luận về việc các chính sách là nguyên nhân gây ra biến đổi trong nền kinh tế hay những biến động thực tế là cơ sở để hình thành chính sách.

Tuy nhiên, nghiên cứu của 2 nhà khoa học Mỹ đã góp phần xác định một cách định tính và định lượng mối quan hệ nêu trên. Chẳng hạn các chính sách của cơ quan quản lý như Chính phủ hay Ngân hàng trung ương sẽ tác động như thế nào, bao lâu và với liều lượng ra sao đối với các biến số của nền kinh tế như GDP, lạm phát…

Trong khi các nghiên cứu của Christopher A. Sims tập trung vào những biến động ngắn hạn như tăng lãi suất, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, trong khi Thomas J. Sargent tập trung vào những thay đổi mang tính hệ thống và dài hạn hơn như mục tiêu lạm phát, thâm hụt ngân sách…

Do không thể thực hiện các thực nghiệm tương tự các môn khoa học tự nhiên, nghiên cứu của 2 nhà khoa học chủ yếu dựa trên các dữ liệu quá khứ. Thông qua các dữ liệu này, họ xây dựng các mô hình toán học, lý giải và cuối cùng là mô hình phỏng đoán cho các biến động có thể xảy ra với nền kinh tế khi chính sách thay đổi trong tương lai.

"Ngày nay, các phương pháp do Sargent và Sims phát triển có vai trò rất quan trọng trong việc phân tích kinh tế vĩ mô", Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển tôn vinh hai nhà kinh tế.

Cũng như những người đoạt giải Nobel khác, hai nhà khoa học sẽ được trao giải thưởng trị giá 10 triệu kronor Thụy Điển (tương đương 1,5 triệu USD).

Kết quả này cũng trùng khớp với dự đoán trước đó của giới khoa học thế giới. Hai nhà khoa học người Mỹ được chọn từ một danh sách với hàng loạt cái tên như nhà lý thuyết học người Ấn Độ Avinash Dixit; Giáo sư người Pháp Jean Tirole với các nghiên cứu về tổ chức công nghiệp; Giáo sư từ trường MIT Jerry A. Hausman, người đã tạo ra phương pháp giúp các nhà khoa học đánh giá biểu mẫu thống kê.

Năm 2010, Nobel Kinh tế được trao cho 2 nhà khoa học người Mỹ và một người Anh: Peter A. Diamond - Học viện công nghệ Massachusetts (MIT - Mỹ); Dale T. Mortensen - Đại học Northwestern (Mỹ); Christopher A. Pissarides - Trường Kinh tế và Chính trị London (Anh).

Trước đây, Kinh tế học vốn không phải là một trong những lĩnh vực được nhà công nghiệp Thụy Điển Alfred Nobel chọn trao giải thưởng như theo di chúc của ông.

Năm 1968, giải thưởng dành cho các nhà kinh tế học bắt đầu được tổ chức. Từ năm 1969 đến 2009, lần lượt đã có 41 giải thưởng được trao cho 64 nhà kinh tế học. Trong đó có hơn 40 người Mỹ.

Người trẻ nhất từng nhận giải là ông Kenneth J. Arrow đến từ Đại học Harvard (Mỹ). Ông nhận giải thưởng này năm 1972, khi mới 51 tuổi, cùng một cộng sự hơn mình 17 tuổi. Chủ nhân già nhất của giải Nobel Kinh tế là ông Leonid Hurwicz, nhà kinh tế gốc Nga giảng dạy tại Đại học Minnesota (Mỹ). Ông nhận giải năm 2007, khi tròn 90 tuổi.

Nguồn:Thanh Bình - Nhật Minh

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

10 nước giàu nhất thế giới năm 2011

Tạp chí Forbes mới công bố danh sách 10 nước giàu nhất thế giới trong năm 2011 tính theo GDP bình quân đầu người.

10. Áo

GDP bình quân đầu người: 39.711 USD

Dân số: 8,41 triệu dân

Áo có số dân là 8,41 triệu người, đa số người dân nói tiếng Đức. Các ngành công nghiệp chủ yếu của nước này là xây dựng, lương thực và kim loại.

9. Ireland

GDP bình quân đầu người: 39.999 USD

Dân số: 4,58 triệu dân

Ireland đã từng trải qua những cuộc chiến tranh đẫm máu. Tuy nhiên, năm 2011, quốc gia này tự hào xếp thứ 9 trong danh sách những nước giàu nhất thế giới.

Các ngành công nghiệp chính của Ireland là kim loại, lương thực và dệt may.

8. Hà Lan

GDP bình quân đầu người: 42.447 USD

Dân số: 16,68 triệu dân

Hà Lan là đất nước được biết đến với tỷ lệ thất nghiệp thấp, còn GDP bình quân đầu người khá cao. Nguồn thu nhập chính của người dân Hà Lan là từ nông nghiệp, kim loại và các sản phẩm cơ khí.

7. Thụy Sỹ

GDP bình quân đầu người: 46.424 USD

Dân số: 7,86 triệu dân

Ngoài việc nổi tiếng bởi là quê hương của sôcôla, Thụy Sỹ còn được biết đến là mảnh đất màu mỡ cho giới đầu tư. Thu nhập chủ yếu của người dân Thụy Sỹ dựa vào du lịch, sản xuất máy móc và hóa chất.

6. Mỹ

GDP bình quân đầu người: 47.084 USD

Dân số: 310 triệu dân

Là một trong những quốc gia đông dân nhất thế giới với 310 triệu dân. Mỹ đứng ở vị trí thứ 6 trong danh sách những nước giàu có nhất. Một số ngành công nghiệp chính của Mỹ là xăng dầu, thép và ô tô.

5. Singapore

GDP bình quân đầu người: 56.797 USD

Dân số: 5,07 triệu dân.

Singapore là một đảo quốc nằm ở Đông Nam Á với 63 đảo lớn nhỏ. Các ngành công nghiệp chính của Singapore bao gồm điện tử, hóa chất và các dịch vụ tài chính.

4. Na Uy

GDP bình quân đầu người: 56.920 USD

Dân số: 4,97 triệu dân.

Na Uy là một trong số ít nước còn duy trì chế độ quân chủ lập hiến. Những ngành công nghiệp mũi nhọn của Na Uy là dầu khí, khí tự nhiên và chế biến hàng hóa.

3. Các Tiểu Vương Quốc Ảrập Thống Nhất (UAE)

GDP bình quân đầu người: 57.774 USD

Dân số: 8,26 triệu dân.

Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất là nước giàu thứ ba thế giới, đây cũng là đất nước có trung tâm mua sắm lớn nhất thế giới, Dubai Mall. Đất nước này là sự hợp thành từ 7 tiểu vương quốc, tổng thống là người nắm quyền điều hành cao nhất. Một số ngành công nghiệp chính của UAE là: dầu khí, hóa dầu, nhôm, và xi măng.

2. Luxembourg

GDP bình quân đầu người: 89.562 USD

Dân số: 0,51 triệu dân.

Đất nước nhỏ bé này chỉ có 0,51 triệu dân, nhưng lại dẫn đầu về tiềm lực kinh tế trong số những nước của khu vực Châu Âu. Người dân Luxembourg nói cả 3 thứ tiếng là Pháp, Đức và tiếng Luxembourg. Các lĩnh vực thế mạnh của nước này là thương mại, dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, hoá chất cao su, sản xuất thép và thực phẩm.

1. Qatar

GDP bình quân đầu người: 91.379 USD

Dân số: 1,69 triệu dân.

Quốc gia giàu nhất thế giới trong năm 2011 là Quatar, đây cũng là nơi sẽ diễn ra World Cup năm 2022. Giống như một số nước ở khu vực Trung Đông khác, nghành công nghiệp mũi nhọn của Quatar là sản xuất và tinh chế dầu thô.

Tạ Linh (theo BusinessInsider)

Nguồn

Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2011

10 điều thú vị về đồng USD


Đồng USD được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới, nhưng không phải ai cũng biết hết những sự thật thú vị xung quanh đồng tiền này.

CNBC đã điểm qua 10 câu chuyện mà có thể nhiều người chưa rõ về đồng bạc xanh, từ chuyện đồng 2 USD có giá trị bao nhiêu, tới vai trò của Mật vụ Mỹ đối với tờ USD…
1. Vì sao Benjamin Franklin được in hình trên tờ 100 USD?
Phần lớn các tờ tiền giấy của nước Mỹ đều in hình các Tổng thống của nước này như George Washington, Abraham Lincoln, Andrew Jackson… Chỉ có hai ngoại lệ là hình Alexander Hamilton in trên tờ 10 USD và hình Benjamin Franklin in trên tờ 100 USD. Trường hợp Hamilton xem ra dễ hiểu, vì ông là Bộ trưởng Bộ Tài chính đầu tiên của Mỹ. Nhưng vì sao mà Franklin, một nhà biên tập báo chí và nhà phát minh ra cột thu lôi lại được in hình trên tờ 100 USD?
Ở đây có nhiều lý do. Thứ nhất, Franklin là một trong những “khai quốc công thần” của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, có chữ ký trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước này. Thứ hai, một trong những quan điểm mang tính cốt lõi của ông là “làm việc tích cực là con đường đi tới sự giàu có đích thực” – quan điểm mang tính nền tảng cho “giấc mơ Mỹ”. Và trên hết, chính những kỹ năng về in ấn của ông đã giúp in ra đồng tiền giấy đầu tiên của nước Mỹ.
2. Tại sao lại có hình kim tự tháp trên tờ 1 USD?
Hình Tổng thống George Washington hay hình con đại bàng trên con dấu của Bộ Tài chính Mỹ in trên tờ 1 USD đều là những hình ảnh đại diện của nước Mỹ. Vậy hình ảnh kim tự tháp Ai Cập in trên tờ bạc này có ý nghĩa gì?
Trên thực tế, hình kim tự tháp là một phần trên con dấu chính thức của nước Mỹ – con dấu có hình đại bàng ở mặt trước và hình kim tự tháp ở mặt sau. Hình kim tự tháp này được cho là đại diện cho sức mạnh, 13 bậc của kim tự tháp biểu tượng cho 13 bang đầu tiên của Mỹ. Đỉnh của kim tự tháp còn chưa hoàn thành có ý nghĩa rằng, vẫn còn có những việc phải làm.
3. Một số thành phố ở Mỹ phát hành tiền riêng
Tiền địa phương khá phổ biến tại Mỹ trong thời kỳ Đại suy thoái, nhưng trong vài thập kỷ qua, nhiều thành phố ở nước này đã bắt đầu phát hành tiền riêng để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ. Các loại tiền địa phương này cũng chỉ được lưu hành riêng lẻ tại các thành phố đó.
Gần đây, xu hướng phát hành tiền địa phương được cho là bắt đầu tại Ithaca, bang New York. Vào năm 1991, một nhóm cư dân của thành phố này do Paul Glover dẫn đầu đã tạo ra đồng Ithaca Hour. Mỗi Ithaca Hour trị giá 10 USD, ngoài ra còn có những mệnh giá nhỏ và lớn hơn. Ngày nay, lượng Ithaca Hour còn trong lưu thông có tổng trị giá khoảng 100.000 USD. Các thành phố Madison của bang Wiscosin, Corvallis của bang Oregon, Traverse City của bang Michigan là vài trong số các địa phương của Mỹ từng phát hành tiền địa phương.
4. Tiền “ảo” được in nhiều hơn tiền thật
Có một thực tế là loại tiền “Monopoly” của trò chơi “Cờ tỷ phú” được in nhiều hơn tiền USD thật ở Mỹ mỗi năm. Hãng Parker Brothers, công ty tạo ra trò chơi “Cờ tỷ phú” cho hay, hàng năm, họ in hơn 30 tỷ Đôla tiền “Monopoly”. Trong khi đó, vào năm 2010, Cục In tiền của Mỹ chỉ in có 974 triệu USD tiền thật, trong đó 95% được dùng để thay thế những đồng USD đã cũ nát.

5. Mỗi tờ USD có thể được gấp đi gấp lại bao nhiêu lần trước khi rách nát?
Theo CNBC, mỗi tờ USD có thể được gấp đi gấp 4.000 lần trước khi kết thúc vòng đời. Báo cáo từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cho thấy, tuổi thọ bình quân của tờ 1 USD là 22 tháng, 5 USD là 2 năm, 10 USD là 3 năm, 20 USD là 4 năm, 50 USD và 100 USD là 9 năm. Tiền xu thì bền hơn và có thể “sống” tới 30 năm.
6. Tiền USD được “bơm hút” trong lưu thông như thế nào?
FED là cơ quan quyết định in bao nhiêu tiền USD mỗi năm, còn Cục In tiền là cơ quan thực hiện công tác in ấn. Vậy tiền cũ trong lưu thông được đổi sang tiền mới bằng cách nào?
Khi FED nhận được tiền gửi bằng tiền mặt từ các ngân hàng, cơ quan này sẽ kiểm tra tất cả các đồng tiền bằng loại máy móc đặc biệt. Thông thường, những lần kiểm tra sẽ kết luận khoảng 1/3 số tiền được kiểm không còn phù hợp trong lưu thông và phải được thay bằng tiền in mới. Tiền bị loại sẽ được xé vụn, đem chôn lấp ở bãi rác, hoặc đóng gói lại như “quà lưu niệm” dành cho các chi nhánh FED ở địa phương.
7. Mật vụ Mỹ (USSS) và đồng USD
Mật vụ Mỹ được biết tới với vai trò bảo vệ tổng thống, nhưng thực tế ban đầu là một cơ quan được thành lập để chống tiền giả. Vào năm 1865, Mật vụ ra đời trong bối cảnh tiền USD giả chiếm1/3 số tiền trong lưu thông. Ngày nay, có khoảng 250.000 USD tiền giả “ra lò” mỗi ngày.


8. Vì sao nhiều đồng xu Mỹ có cạnh dạng lượn sóng?

Vào thời mà các đồng xu được làm bằng kim loại quý như vàng hay bạc, nhiều kẻ gian đã “sống khoẻ” bằng cách mài cạnh đồng xu lấy vàng bạc mà không bị phát hiện ra. Vì vậy, cơ quan chức năng Mỹ bắt đầu tạo ra những đồng xu có cạnh dạng lượn sóng. Theo Nhà máy in tiền Mỹ, đồng 10 xu có 118 sóng, đồng 25 xu có 119 sóng và đồng 50 xu có 150 sóng.
Cho tới ngày nay, cho dù đồng xu Mỹ không còn được làm bằng kim loại quý nữa, nhưng vẫn có cạnh lượn sóng nhằm giúp cho công tác nhận dạng khi cần thiết. Riêng đồng 1 xu và 5 xu Mỹ chưa bao giờ có cạnh dạng lượn sóng vì chúng chưa bao giờ được làm bằng kim loại quý.
9. Tờ bạc 10.000 USD?
Tờ 100 USD là tờ bạc xanh có mệnh giá lớn nhất được ấn hành hiện nay. Trước đây từng có các tờ bạc mệnh giá 500 USD, 1.000 USD, 5.000 USD và 10.000 USD, nhưng đã bị ngưng phát hành vào năm 1969 do “ít được sử dụng” – theo lý do mà FED đưa ra. Lần cuối cùng những tờ bạc này được in ấn là vào năm 1945. Ngày nay, một số tờ bạc có mệnh giá “khủng” trên vẫn tồn tại trong tay các nhà sưu tập và vẫn được xem là tiền hợp pháp.
10. Tờ bạc 2 USD có giá bao nhiêu?
Tờ 2 USD được phát hành đầu tiên vào năm 1862 nhưng sau đó bị ngưng phát hành vào năm 1966, rồi lại được phát hành trở lại 10 năm sau đó. Thêm một điều đặc biệt nữa: chỉ chưa đầy 1% lượng tiền giấy USD trong lưu thông là tờ 2 USD. Tuy nhiên, những điều này không hề giúp đồng 2 USD tăng giá trị, và chúng vẫn chỉ đáng giá 2 USD mà thôi.
Sưu tầm

10 điều thú vị về… tiền

pictureTiền là thứ được mọi người sử dụng hàng ngày, nhưng không phải ai cũng biết hết những câu chuyện thú vị xung quanh những tờ bạc.

Tạp chí Time đã điểm lại 10 câu chuyện được xem là ít biết về tiền.

1. Đồng bạc có kích thước lớn nhất

Với kích thước lớn hơn cả 1 tờ giấy A4, đồng bạc có kích thước lớn nhất thế giới có mệnh giá 100.000 Peso do Chính phủ Philippines phát hành năm 1998. Được thiết kế nhằm kỷ niệm 1 thế kỷ ngày Philippines giành độc lập từ tay thực dân Tây Ban Nha, đồng bạc phiên bản giới hạn này chỉ được bán cho các nhà sưu tập. Giá bán cho các nhà sưu tập là 180.000 Peso, tương đương 3.700 USD/tờ.

2. Đồng bạc mệnh giá 1 triệu Bảng


Đồng bạc có mệnh giá lớn nhất mà Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) từng phát hành có mệnh giá 1 triệu Bảng vào năm 1948, trong thời gian tái thiết hậu chiến tranh theo kế hoạch Marshall. Đồng bạc này được thiết kế dành riêng cho Chính phủ Mỹ sử dụng. Vài tháng sau đó, việc phát hành chấm dứt, nên chỉ có rất ít đồng bạc này lọt vào tay tư nhân. Vào năm 2008, một trong những đồng bạc mệnh giá khổng lồ còn sót lại đã được bán đấu giá thành công với mức giá khoảng 120.000 USD.

3. Máy ATM đầu tiên trên thế giới


Máy ATM có lẽ là ý tưởng tuyệt vời nhất mà con người nghĩ ra khi ở trong bồn tắm kể từ thời Archimede. Khi đang tắm, John Shepherd-Barron đã phát minh ra chiếc máy rút tiền tự động (ATM) đầu tiên, cho dù vẫn còn những tranh cãi về bản quyền của ông đối với ít tưởng này. Shepherd-Barron sau đó đã đưa ý tưởng của ông lên ngân hàng Barclays của Anh và được chấp nhận ngay lập tức.

Vào năm 1967, chiếc máy ATM đầu tiên đã được lắp đặt London. Dẫu còn thô sơ so với những “hậu duệ” ATM ngày nay, nhưng có ưu điểm là không thu phí. Trong ảnh là một phụ nữ đang rút tiền từ máy ATM bên ngoài ngân hàng Westminster ở London vào ngày 19/1/1968.

4. Nguồn gốc của ký hiệu $


Không ai biết ký hiệu của đồng bạc xanh ($) từ đâu mà có, nhưng Cục In tiền của Mỹ có cách lý giải xem chừng rất hợp lý. Cơ quan này cho biết, ký hiệu $ ban đầu được sử dụng cho đồng Peso của Tây Ban Nha và Mexico, trông giống như chữ “P” viết lồng vào chữ “S”. Ký hiệu $ đã được sử dụng rộng rãi trước năm 1875, thời điểm đồng USD bằng giấy đầu tiên được phát hành. Nếu để ý, có thể thấy ký hiệu $ không hề xuất hiện trên đồng tiền của nước Mỹ.

5. Tiền mệnh giá càng nhỏ càng nhanh rách


Tất cả các đồng tiền giấy rốt cục rồi cũng rách nát. Những đồng càng có mệnh giá nhỏ lại càng được sử dụng nhiều, vòng đời càng ngắn hơn. Ước tính, đồng 1 USD chỉ tồn tại được trong 21 tháng, trong khi tờ 100 USD có thể sử dụng trong 7 năm. Trong khoảng thời gian đó, lạm phát có thể làm giá trị của đồng tiền “teo” đi. Đây có thể xem là lý do để mọi người tiêu tiền càng nhanh càng tốt!

6. Cảnh sát chống bạc giả của Mỹ


Sau cuộc Nội chiến (1861-1865), tiền giả lan tràn khắp nước Mỹ, với tỷ lệ bạc giả được cho là lên tới 1/3 số tờ bạc trong lưu thông, buộc Chính phủ phải hành động. Vào năm 1865, một bộ phận đặc biệt thuộc Bộ Tài chính Mỹ đã được thành lập để chống nạn làm giả tiền. Cơ quan này vẫn tồn tại cho đến ngày nay, với cái tên Mật vụ Hoa Kỳ (USSS), mang nhiệm vụ bảo vệ Tổng thống và các nhà lãnh đạo hàng đầu khác của nước này.

Tổng thống Abraham Lincoln là người đã trao quyền chống bạc giả cho Mật vụ vào ngày 14/4/1865. Đến năm 1901, cơ quan này được Tổng thống William McKinley giao thêm nhiệm vụ bảo vệ Tổng thống. Năm 2002, Mật vụ Mỹ - cơ quan gồm 6.500 nhân viên - được chuyển vào một bộ mới thành lập là Bộ An ninh nội địa.

7. Người có chân dung được in nhiều nhất trên tiền


Từ Australia tới Trinidad và Tobago, chân dung của Nữ hoàng Elizabeth đệ nhị ngự trị trên đồng tiền của 33 quốc gia khác nhau - nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào. Canada là nước đầu tiên in chân dung của Nữ hoàng Elizabeth lên đồng tiền vào năm 1935, khi Nữ hoàng còn là công chúa lên 9 tuổi.

Theo thời gian, 26 chân dung khác nhau của Nữ hoàng Anh đã được sử dụng trên đồng Bảng Anh cũng như đồng tiền của các thuộc địa, lãnh địa và vùng lãnh thổ của nước này. Một số nước thích sử dụng chân dung của Nữ hoàng trong trang phục hoàng gia lộng lẫy, một số khác thích chân dung giản đơn. Nhiều nước “cập nhật” chân dung của Nữ hoàng theo độ tuổi, trong khi nhiều nước chỉ thích dùng chân dung của Nữ hoàng khi còn trẻ.

8. Tiền rất bẩn


Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, phần lớn số tờ USD nằm trong lưu thông có dính một hàm lượng nhất định chất ma túy. Lý do là bọn buôn lậu ma túy thường dùng tay có dính thuốc để di chuyển tiền, nhiều con nghiện cũng sử dụng tiền để cuộn lại làm ống hít.

Tệ hơn, tiền còn được các nhà nghiên cứu chỉ ra là một ổ bệnh, với rất nhiều loại vi khuẩn và virus khác nhau, với số lượng thậm chí còn lớn hơn trong toilet của các hộ gia đình. Chẳng hạn, virus cúm được cho là có thể tồn tại trên tiền giấy tới 17 ngày. Đó là lý do vì sao người ta nên dùng thẻ nhiều hơn.

9. Tiền mệnh giá “siêu khủng” của Zimbabwe
Với tốc độ lạm phát lên tới 231 triệu %, giá một ổ bánh mì là 300 tỷ Đôla Zimbabwe, Chính phủ nước này đã phải phát hành tờ bạc mệnh giá 100 nghìn tỷ Đôla Zimbabwe vào đầu năm 2010. Đây là tờ bạc có mệnh giá lớn nhất trên thế giới từ trước tới nay.

10. Tờ tiền giấy đầu tiên


Tiền giấy được sử dụng đầu tiên ở Trung Quốc, vào thời nhà Đường (618-907), ban đầu dưới dạng tờ bạc phát hành tư nhân. Đến thế kỷ thứ 17, tiền giấy mới bắt đầu được sử dụng tại châu Âu. Và thêm khoảng 1-2 thế kỷ nữa, tiền giấy mới được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới.

Do tiền giấy được phát hành ồ ạt và gây lạm phát, Trung Quốc đã cấm tiền giấy hoàn toàn vào năm 1455 và nhiều thế kỷ sau đó mới sử dụng trở lại loại tiền này. Một sự thật mà ít người biết đến nữa là: Từ “cash” (“tiền mặt”) trong tiền Anh bắt nguồn từ từ “kai-yuan” dùng để chỉ loại tiền xu bằng đồng có đục lỗ ở giữa được sử dụng phổ biến vào thời nhà Đường.

Thứ Hai, 3 tháng 10, 2011

Paul Krugman: “Kinh tế sẽ suy yếu, nếu tiếp tục bị rút máu”


Giáo sư Paul Krugman, người từng đoạt giải Nobel kinh tế , đã đổ lỗi cho chính sách thắt chặt tài chính tiền tệ cản trở đà phục hồi kinh tế thế giới.


“Nhật báo Kinh tế” Đài Loan ngày 20/9 đăng lại bài của Giáo sư Paul Krugman, giảng dạy tại Trường đại học Princeston, người được giải thưởng Nô ben kinh tế năm 2008 cho rằng Kinh tế Mỹ và thế giới sẽ chậm phục hồi và phát triển nếu vẫn tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay.

Trong bài “Kinh tế sẽ suy yếu nếu tiếp tục bị rút máu” đăng trên chuyên mục “Vấn đề Kinh tế” của tờ New York Times, Giáo sư Paul Krugman viết: Trước đây trong giới y học, từng có các bác sĩ chủ trương rút bớt máu bệnh nhân để trị bệnh. Nhưng hiện nay đa số y bác sĩ đều cho rằng rút bớt máu có thể làm tác nhân gây bệnh càng hoành hành, bệnh nhân càng suy nhược và lâu hồi phục sức khỏe.

Nhưng điều bất hạnh hiện nay là hầu hết các nhà quyết sách kinh tế ở các nước lại áp dụng biện pháp rút bớt máu kinh tế. Rút bớt máu kinh tế chẳng những làm dân chúng đau khổ mà còn làm xói mòn cơ sở phát triển kinh tế bền vững của đất nước.

Khi kinh tế lâm vào suy thoái và khủng hoảng, những người chủ trương chính sách thắt chặt kinh tế tài chính ở Mỹ và các nước Châu Âu thắng thế, nên hơn một năm rưỡi qua, chính sách này được thực hiện rộng khắp các nơi. Lập luận của những người này là nếu các nước đều thực hiện chính sách khắc khổ, cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buộc bụng thì sẽ giảm được thâm hụt ngân sách. Từ đó, nhà nước lấy lại niềm tin trong dân chúng và kinh tế nhanh chóng phục hồi.

Vậy là cả Châu Âu thực hiện thắt chặt. Những nước kinh tế vẫn đang phát triển lành mạnh thì thắt chặt đôi chút gọi là “thắt chặt ôn hòa”, còn những nước có vấn đề lớn như Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha, Italia thực hiện “thít chặt”, đại cắt giảm chi tiêu.

Tại Mỹ từ năm 2009, chính phủ liên bang thực hiện biện pháp “thắt chặt ôn hòa”, nhưng chính quyền các bang lại “thít chặt”. Nhìn tổng thể, chính sách của Mỹ đại thể cũng giống như các nước Châu Âu.

Kết quả hơn một năm rưỡi qua cho thấy niềm tin chẳng thể lấy lại, mà còn tụt sâu xuống đáy vực. Các doanh nghiệp và người tiêu dùng đều lo ngại, việc làm chẳng có, tỉ lệ thất nghiệp vẫn cao. Tăng trưởng kinh tế nói chung đều chậm lại và tỉ lệ thất nghiệp ở hai bờ Đại Tây Dương vẫn ở mức báo động nguy hiểm. Trước tình hình này, một số nhà hoạch định chính sách biện minh cho biện pháp thắt chặt nhằm mục tiêu lâu dài chứ không phải chú trọng trước mắt. Lập luận này của họ không đúng. Bởi vì, kinh tế hiện nay ngày càng suy yếu thì làm gì có tương lai cho 10 năm sau. Thực tế cho thấy tình trạng suy yếu của nền kinh tế Mỹ và Châu Âu đã bước vào năm thứ 4. Những vấn đề kinh tế ngắn hạn do hậu quả chính sách này đã làm xói mòn cơ sở phát triển kinh tế lâu dài các nước.

Điểm lại nền kinh tế Mỹ cho thấy ngành chế tạo thông thường mức tăng trưởng hàng năm từ 2% - 3%. Do thắt chặt tiền tệ, nên so với tháng 12/2007 đã sụt giảm tới 5%, nhiều doanh nghiệp giảm công suất và tốc độ bị suy yếu do chính sách thắt chặt đã nhanh hơn rất nhiều so với dự kiến của nhà quyết sách. Ngành chế tạo suy giảm kéo theo ngành khác cũng suy giảm theo, nhất là các ngành dịch vụ, từ đó số lượng người bổ sung vào đội quân thất nghiệp càng tăng lên. Chẳng hạn ở Mỹ, do chính sách cắt giảm chi tiêu ngân sách ngành giáo dục đã làm hàng trăm nghìn giáo viên mất việc. Tương lai phát triển lâu dài của nền kinh tế đất nước bị bao phủ mây đen, nợ công tăng lên. Bởi vậy, chúng ta có thể rút ra kết luận là: Chính sách này đã phản tác dụng, tăng trưởng kinh tế thấp trong tương lai cũng có nghĩa là thuế thu được cũng giảm sút, chi tiêu của nhà nước sẽ càng khó khăn. Bởi vậy, giải pháp của chúng ta là phải ra sức thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, nó chẳng những đảm bảo cho tương lai phát triển mà còn đảm bảo giải quyết vấn đề trước mắt. Nhà nước, các ngân hàng cần tăng cường hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp mới là lối thoát cho nền kinh tế trì trệ hiện nay. Rất nhiều nhà lý luận cũng như các chủ doanh nghiệp của Mỹ và Châu Âu đều chủ trương như vậy.

Thực tế trên đã làm một số nhà quyết sách thức tỉnh. Điển hình là Tổng thống Obama vừa đưa ra phương án chính xác về giải quyết việc làm, coi đây là cái nút đầu tiên cần tháo gỡ. Tại Châu Âu, nhiều Hội doanh nghiệp, cùng một số ngân hàng đã bắt đầu kêu gọi các nhà lãnh đạo cần chuyển hướng sang quyết sách lấy tăng trưởng làm chủ đạo, sửa lại quyết sách sai lầm hiện nay. Nhưng phải nói rằng sự chuyển biến này không phải là dễ dàng, nên nhiều doanh nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn thời gian tới và kinh tế chưa thể nhanh chóng phục hồi.

Theo SAGA

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

Nợ tư cao cũng đáng ngại không kém

Lâu nay người ta chỉ cảnh báo về mức độ nợ công đang tăng cao mà quên đi một thực tế: một mức nợ tư cao so với GDP cũng là một chỉ dấu đáng lo ngại không kém.

Nói nợ tư là để dễ hình dung khi so với nợ công chứ khái niệm chính xác ở đây là tổng dư nợ tín dụng của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam mà theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) là tương đương 125% GDP, một tỷ lệ thuộc loại cao nhất khu vực. Điều đáng nói là tỷ lệ này tăng rất nhanh trong những năm qua: từ 35%/GDP năm 2000 lên 71,2% năm 2006, 93,4%% năm 2007, 90,2% năm 2008, 112,7% năm 2009 và 125% năm 2010 (Nguồn: WB).

Cho đến nay vẫn chưa ai giải đáp thỏa đáng vì sao tỷ lệ này lại tăng nhanh trong mấy năm vừa qua. Có người cho rằng đó là do bong bóng bất động sản, giá đất tăng, tín dụng cho địa ốc tăng nên tổng tín dụng tăng theo. Có người cho rằng tỷ lệ này cao là do hoạt động tài trợ tín dụng cho xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh, hiện lên trên 150% GDP nên phần tín dụng hỗ trợ cho nó cũng tăng theo. Cũng có nguồn phân tích cho là vì số lượng các tổ chức tín dụng tăng nhanh, kéo theo mức tăng tổng tín dụng chung của nền kinh tế, nhất là tăng trưởng của Việt Nam trong những năm vừa qua chủ yếu dựa vào đầu tư. Và cũng có lẽ chính sách kích cầu, qua bù lỗ lãi suất trước đây cũng là lý do cho nợ tư tăng nhanh như vậy.

Nhưng một tỷ lệ tín dụng bằng 125% GDP cho thấy nhiều điều. Một là dư nợ tín dụng tăng không tương quan với mức tăng GDP, cần một lượng tăng tín dụng cao mới làm ra một mức tăng GDP nhất định (ví dụ, năm 2007 GDP tăng 8,6%, dư nợ tín dụng tăng đến 53,4%). Hai là các kênh tài trợ vốn cho nền kinh tế không phát huy hiệu quả. Trái phiếu doanh nghiệp không phát hành được bao nhiêu; thị trường chứng khoán cũng không phải là nơi doanh nghiệp trông cậy để tìm vốn. Tất cả đều trông chờ vào tín dụng ngân hàng và từ đó dễ rơi vào những rủi ro.

Rủi ro thứ nhất là nợ xấu của ngân hàng sẽ tăng nhanh do quy mô của tín dụng. Một phần trăm nợ xấu ở một nền kinh tế có tổng dư nợ tín dụng chỉ bằng 50% GDP sẽ khác với 1% nợ xấu của nền kinh tế mà tổng dư nợ tín dụng lên đến 125% GDP. Theo TS Vũ Quang Việt, nguyên chuyên gia cao cấp Liên hiệp quốc, điều đáng quan ngại là nợ xấu theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước đã tăng lên trên 3%; tuy nhiên do cách tính không hợp chuẩn quốc tế, các tổ chức quốc tế đã cho rằng tỷ lệ nợ xấu cao hơn 3% nhiều.

Thứ nữa, doanh nghiệp phụ thuộc vào nợ vay của ngân hàng nên một khi nền kinh tế rơi vào tình huống lãi suất ở mức cao như hiện nay, doanh nghiệp dễ rơi vào chỗ đình đốn, phá sản. Ngược lại, hệ thống ngân hàng phải chấp nhận cho “đảo nợ”, nhất là với các dự án bất động sản đang đóng băng như là giải pháp khả thi duy nhất.

Bức tranh nợ nần của các nước châu Âu hiện nay cũng cung cấp nhiều bài học mang tính thời sự, ông Việt nhận định. Trước đây người ta cũng chỉ chú tâm vào con số nợ công nhưng nay đã bắt đầu có nhiều phân tích cho thấy nguyên nhân sâu xa hơn của vấn đề nợ công bắt nguồn từ tỷ lệ tín dụng trên GDP quá cao. Trích dẫn một bài báo trên tờ New York Times, ông Việt đưa ra ví dụ về Ireland, vào năm 2007 là nước mẫu mực về nợ công – chỉ có 11% GDP. Thế nhưng khi khủng hoảng tài chính nổ ra vào năm 2008, Ireland trở thành một trong những nạn nhân đầu tiên và hiện đang lâm vào cảnh nợ nần ngập đầu. Nguyên do là vì nợ tư (nợ của các hộ gia đình và doanh nghiệp phi tài chính) lên đến 241% GDP, cao nhất trong khu vực.

Phần lớn các khoản nợ này liên quan đến sự bùng nổ giá bất động sản ở nước này và sự sụp đổ thị trường địa ốc sau đó. Lúc bất động sản lên ngôi, tín dụng tăng vọt, ngân hàng ăn nên làm ra. Khi bong bóng bất động sản nổ tung, ngân hàng rơi vào bờ vực phá sản, nhà nước phải ra tay cứu, chuyển nợ tư thành nợ công.

Tỷ lệ tổng tín dụng trên GDP cao đã là chỉ báo; chất lượng tín dụng còn là chỉ báo rõ hơn nữa nếu phần lớn tín dụng rơi vào bất động sản hay các lãnh vực khác không tạo ra doanh thu. Nếu không chú ý đến những chỉ báo này, vấn đề nợ tư và nợ công Việt Nam càng đáng báo động.

Nguồn

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011

Ý nghĩa logo của các công ty lớn trên thế giới


Logo là một phần rất quan trọng trong việc quảng bá tiếp thị hình ảnh của thương hiệu đối với người tiêu dùng. Nói cách khác thì logo chính là bộ mặt của cả một thương hiệu, tập đoàn kinh doanh. Ngay cả việc thương hiệu có thể vươn xa cỡ nào, được yêu thích cỡ nào cũng do cái logo quyết định một phần. Những “siêu” thương hiệu tiếng tăm toàn cầu luôn biết cách đặt vào trong logo của mình những thông điệp quảng cáo bản thân hoặc một ý nghĩa về văn hóa nào đó… Và phải công nhận rằng những thương hiệu này đã hết sức tinh tế khi có thể truyền tải cả đăc tính cũng như thông điệp của riêng họ chỉ qua một chiếc logo "gọn gàng", xinh xắn.
Hãng xe Audi
Logo của hãng xe đắt tiền này là 4 vòng tròn đan xen lẫn nhau, tượng trưng cho 4 công ty đóng vai trò chủ chốt trong hiệp hội liên minh xe hơi vào năm 1932. 4 công ty đó là DKW, Horch, Wanderer và Audi. Như vậy logo này chứng minh cho sự tự hào về quá khứ của hãng xe Audi đấy nhỉ?

Trang web Amazon
Sách trong thư viện được phân loại từ A tới Z, đó cũng là điểm đặc trưng khi nhắc đến sách vở. Và trang web phân phối sách trực tuyến khổng lồ Amazon thực sự rất “nhạy bén” khi đánh một mũi tên nối giữa chữ “a” và “z”. Ngoài ra, gạch nối này còn có dáng vẻ của một nụ cười thân thiện nữa chứ! Đúng là đẳng cấp!
Công ty chuyển phát nhanh FedEx Express
Đây cũng là một trong những logo quen thuộc với nhiều người. FedEx là một hãng chuyển phát nhanh hàng đầu thế giới, vậy thì cái logo cũng phải xứng tầm chứ nhỉ… Để ý kĩ nhé, đây là chi tiết ít người phát hiện ra nhất đấy: có một mũi tên được tạo ra bởi 2 chữ cái E và X màu vàng ở cuối cùng. Mũi tên là thứ không gì chính xác hơn mô tả cho “vận tốc” giao hàng của hãng này. Thế mới biết chẳng cớ gì mà 2 chữ E và X lại viết hoa để tạo ra mũi tên.
Hãng truyền thông NBC
“Ông trùm” truyền thông nước Mỹ chẳng phải tay vừa khi sở hữu một trong những logo đình đám nhất thế giới. Logo của hãng này là hình một con công màu mè đang xòe rộng đuôi, vươn đầu sang bên phải. Công là loài động vật chỉ nhìn được về hướng đằng trước do bộ lông đuôi đồ sộ bành trướng của mình. Logo này biểu lộ hàm ý NBC chỉ có nhìn về phía trước mà thôi!
Socola Toblerone
Chú gấu trốn trong núi nè!
Logo của thương hiệu socola nổi tiếng nước Thụy Sĩ “che giấu” một chú gấu trên hình đỉnh núi. Con gấu này là biểu tượng của thành phố Berne, nơi sản xuất ra loại socola hình tam giác nổi tiếng khắp thế giới này.
Giải đua xe công thức 1
Thoạt nhìn thì đây là một cái logo vô cùng đơn giản nhưng thử nhìn kĩ xem. Số “1” được khéo léo lồng vào giữa chứ “F” và hàng mũi tên đỏ biểu tượng cho tốc độ xé gió của các cuộc đua. Đơn giản mà đi vào lòng người ở chỗ này đây!
Tập đoàn Unilever
Unilever là tên một tập đoàn thực phẩm, đồ uống, mỹ phẩm chăm sóc sức khỏe hàng đầu thế giới. Chính vì sự đa năng trong sản phẩm nên logo của Unilever cũng muốn truyền tải một thông điệp thật đa dạng.
Không phải ngẫu nhiên mà chữ U viết tắt kia được tạo thành bởi nhiều hình thù, chẳng cái nào giống cái nào như trong hình đâu. Mỗi hình đều mang một ý nghĩa riêng cả đấy: trái tim đại diện cho tình yêu, sự quan tâm, chăm sóc và sức khỏe, con chim biểu tượng cho sự tự do, cây lá ý muốn nói sự hòa hợp với thiên nhiên trong từng sản phẩm, v.v…
Hãng máy tính IBM
Hãng máy tính IBM với logo truyền thống rất thực dụng, đơn giản, dễ hiểu, logo này được Paul Rand thiết kế vào năm 1972. Nhưng vào năm 1981, có lẽ để thay đổi không khí và muốn biến cái logo trở nên “xì-tin” hơn, đích thân Paul Rand đã “cải biến” và cho ra đời logo phụ rất bắt mắt và gợi mở như trên. IBM- “I” có cách phát âm giống “eye”; cái mắt, “B” có cách phát âm giống “bee” con ong, thế là IBM đã có một logo rất vui nhộn và bay bổng sáng tạo.
Hãng phần mềm SUN
Hãng SUN Microsystem (chủ quản mã nền Java rất nổi tiếng) sở hữu một logo độc nhất vô nhị, có tính đối xứng tuyệt đối, có nghiêng đầu về bất cứ hướng nào bạn cũng sẽ thấy chữ “sun” hiện ra do tất cả các chữ trong từ “Sun” đều được ghép bởi chữ cái “U”.
Trên đây là hai logo của hai tờ tạp chí khá nổi tiếng ở Mỹ, chuyên về mảng hôn nhân và gia đình là Families Marriage. Khoan hãy bàn về nội dung “chưa phù hợp” với tuổi của teen mình mà hãy nhìn và khâm phục khả năng thiết kế logo của họ: 3 chữ “I” được biến tấu thành ông bố, bà mẹ và một đứa con (rất logic, rất đúng với tiêu chí “mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con nhé!). Còn 2 chữ “R” trong từ Marriage lại quay sang “nắm tay”, “hôn nhau chùn chụt” y hệt cô dâu và chú rể vậy.
Hãng điện tử LG của Hàn Quốc
Có giống nhân vật Pacman không nào?
Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực để bàn về ý nghĩa của logo LG, một số người khác phát hiện ra rằng có một khuôn mặt pacman ẩn giấu đằng sau logo của hãng này. Pacman vốn là một trò chơi điện tử rất phổ biến ở Nhật Bản và các nước phương Tây trong thập niên 80. Sức ảnh hưởng của trò chơi này lớn đến nỗi từng có cả một "văn hóa pacman" vào thời kỳ đó.
Forkwire
Forkwire là tên một trang web giao đồ ăn trực tuyến rất thông dụng ở Mỹ, "fork" có nghĩa là cái dĩa nhưng logo của hãng lại "biến ảo" cái dĩa uốn theo chữ @, một biểu tượng kinh điển của ngôn ngữ mạng. Đúng là một logo thật đỉnh, nhìn vào thôi là biết ngay chức năng và cách thức làm ăn của công ty.
...và PEPSI
Chỉ cần giơ chai Pepsi vào gương là sẽ có dòng số "bí ẩn" này!
“Giải thưởng” bí ẩn và khó hiểu nhất có lẽ thuộc về logo của Pepsi. Đầu tiên bạn hãy kiếm ngay một lon hoặc chai Pepsi, soi hàng chữ Pepsi và trong gương bạn sẽ có được dòng số “bí hiểm” từ chữ Pepsi ngược: 12939. Nếu đây là ngày tháng năm theo cách viết của người Mỹ thì nó sẽ là ngày 9 tháng 12 năm 1939 (mà cũng có thể là 1839). Nhưng dãy số trên lại trở nên vô nghĩa nếu như so với dòng lịch sử ra đời của Pepsi.
Logo cũ của Pepsi như thế này!
Năm 1898, trước cái khí hậu nóng nực tại bắc Carolina, một dược sĩ trẻ tên là Bradham bắt đầu thí nghiệm chế tạo một thứ nước giải khát mới toanh bắt đầu từ các loại gia vị, nước quả và sirô… Và anh ta đã thành công, một loại đồ uống có tên là Pepsi-Cola đã ra đời. Đầu tuên nó có tên là “Brad’s Drink” (đồ uống của Brad) và có thành phần từ hạt cây cô-la, vani và nước hương liệu. Năm 1902, Bradham thành lập công ty và đặt chung tên của công ty và loại nước uống của mình là Pepsi – Cola.
Một cách giải thích khá thuyết phục cho sự hiện diện của dòng số đó là: Năm 1939, Bradham muốn tạo một logo mới dễ nhớ về sản phẩm của mình. Nhưng sau bao tháng suy nghĩ, ông vẫn không chọn được 1 cái nào phù hợp. Vào một ngày mùa đông tuyết rơi ở New York, ông đang suy nghĩ về nó, bước ra ban công để tìm chút thư giãn. Ông lấy tay ghi lên ô cửa sổ ngày hiện tại, 12.9.39 (ngày 9 tháng 12 năm 39, viết theo cách Mỹ).
Sau khi bước vào phòng và nhìn ra ban công, qua ô cửa kính, ông thấy những con số 12 9 39 hình như tạo nên 1 chữ gì đó. Bước lại gần để xem thì ông thấy đó là nguyên chữ PEPSI do đọc các con số ở mặt bên kia của ô cửa sổ. Do ô cửa sổ dính đầy tuyết nên các con số đã hiện ra rất rõ và qua cửa kính đã được nhìn ra thành chữ PEPSI. Một sự trùng hợp khó tin và vô cùng bất ngờ, sau đó Bradham đã nghiên cứu và cho ra đời logo Pepsi theo hình thù bây giờ.