Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển đông-Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển đông-Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2012

“Đường lưỡi bò” trong hộ chiếu


Cho dù bạn có một kế hoạch marketing xuất sắc,nhưng lại dành cho một sản phẩm tồi thì sớm hay muộn nó cũng sẽ thất bại mà thôi.


Mẫu hộ chiếu mới của Trung Quốc có in đường 9 đoạn phi lý mà họ đòi hỏi trên Biển Đông. Ảnh: People Daily.


Đóng dấu 'Hủy' vào hơn 110 hộ chiếu TQ có in 'đường lưỡi bò'
Đoàn khách du lịch Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai chiều 23-11, trong số này có bốn hộ chiếu bị đóng dấu hủy vì có đường lưỡi bò
Xem thêm tại đây

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC QUA HỒI KÝ CỦA CỰU ĐẠI SỨ VIỆT NAM




Nguyễn Trọng Vĩnh
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến năm 1987. Dưới đây là câu chuyện của ông về thời gian ông làm Đại sứ tại Bắc Kinh.
1. Đầu năm 1974, thấy tôi xong nhiệm vụ ở Lào rồi mà chưa có việc gì khác, nhân đồng chí Ngô Thuyền đau ốm xin về, trên Trung ương Đảng mới quyết định cử tôi sang làm Đại sứ nước ta ở Trung Quốc.Lúc đó Việt Nam còn coi Liên Xô, Trung Quốc như anh cả anh hai cho nên để tỏ ý trọng thị, ta vẫn cử Ủy viên Trung ương Đảng làm Đại sứ hai nước đó. Trước khi lên đường đi sứ, nhân còn thời gian rỗi, tôi tranh thủ đi thăm một số tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để nắm bắt một số tình hình cần thiết cho việc làm Đại sứ, hơn nữa tôi cũng muốn biết tình hình đất nước mình nói chung vì từ khi nhận nhiệm vụ giúp bạn Lào, tính ra đã mười năm xa rời thực tế của đất nước mình rồi. Lúc đó đất nước còn đang chiến tranh, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, ở đâu quang cảnh cũng đìu hiu, trầm trầm không có gì là khởi sắc. Ngay cả những nơi bây giờ là khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng như Tam Đảo, Sa Pa cũng thưa thớt bóng người, dân chỉ trông vào trồng lúa, nuôi lợn, nuôi gà đủ ăn và làm nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh thôi. Nhà cửa lâu đài biệt thự ở Tam Đảo, Sa Pa bỏ hoang phế, đổ nát, mặc cho dơi bay cú rúc… Nhưng lúc đó cũng có cái hay là môi trường còn nguyên sơ trong lành lắm, động vật hoang dại còn chưa bị săn lùng ráo riết như bây giờ. Còn nhớ khi lên Tam Đảo, một bác nông dân đang chăm ruộng lúa, bắt được con rùa vàng, bác liền vui vẻ tặng ngay cho cu Dũng nhà tôi vì thấy nó có vẻ lạ lùng và thích thú lắm. Một tối chúng tôi và trú nhờ ở huyện lỵ Bảo Thắng (lúc đó thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn), ăn cơm với huyện ủy, đồng chí Bí thư huyện còn tỏ ý rất tự hào vì “cả huyện tôi không có một cái chợ nào”, cho rằng quản lý như vậy là chặt chẽ và giữ được địa bàn trong sạch, không để cho việc buôn bán làm vẩn đục môi trường xã hội, chỉ có sản xuất mới là việc làm đúng đắn cần thiết. Lúc đó cả tôi cũng chẳng lấy thế làm ngạc nhiên, mà cũng chưa biết rõ rằng không có chợ buôn bán thì chính sản xuất cũng không thể phát triển nổi, chỉ quẩn quanh trong vòng tự cấp tự túc mà thôi.
 Khoảng giữa năm 1974, tôi lên đường sang Trung Quốc. Từ khi đó cho đến tháng tư năm 1975 thì quan hệ Việt – Trung vẫn còn bình thường. Sau ngày thắng lợi của ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, Trung Quốc có cử một đoàn đại biểu cao cấp do ông Đặng Tiểu bình dẫn đầu đến Sứ quán ta chúc mừng thắng lợi. Ngày hôm sau, Trung Quốc tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Thiên An Môn để chào mừng chiến thắng của Việt Nam. Trong cuộc mít tinh đó, Đặng Tiểu Bình đọc diễn văn, tôi đọc đáp từ. Trong đáp từ tôi cũng có nói “nhân dân Việt Nam rất biết ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Việt Nam không tách rời khỏi sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc”. Trong thực tế, khách quan mà nói Trung Quốc giúp ta nhiều thật: vũ khí, lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, nếu không có sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc, ta cũng khó thắng Mỹ. Nhưng việc đánh ta, giết hại đồng bào ta, phá sạch nhà cửa của cải của ta năm 1979 đã xóa sạch ân nghĩa đó.
Cũng trong thời gian đó, ông Xi-ha-núc (Quốc vương Cam-pu-chia) và bà hoàng Mô-nic cùng sống ở Bắc Kinh, họ được Trung Quốc dành cho một biệt thư riêng. Họ quan hệ khá tốt với Đại sứ quán ta, với tôi. Có lúc ông Xi-ha-núc mời tôi và một số Đại sứ thân tình đến đánh cầu lông trong biệt thự riêng. Ngày Quốc khánh của Việt Nam, ông ta cũng đến chúc mừng. Cũng có lúc tôi viết thiếp mời hai ông bà sang Sứ quán ta ăn cơm. Trước đây đã có thời Xi-ha-núc ở Việt Nam khá lâu, cũng được dành một biệt thự ở phố Nguyễn Du Hà Nội, ăn Tết Nguyên đán ở Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời, ông ta có vẻ thân và kính trọng Thủ tướng lắm. Có lần ở Bắc Kinh, ông ta còn ngỏ ý với tôi là muốn được sang Việt Nam ăn Tết. Tuy ăn ở tại Trung Quốc nhưng xem ra ông ta thích ở Việt Nam hơn Trung Quốc. Ngay cả bọn Pôn-pốt Yêng-sa-ri sau này phản bội đem quân đánh Việt Nam, thi hành tội ác diệt chủng ở Cam-pu-chia, nhưng trước đó cũng có quan hệ tốt với Việt Nam, vì cùng chung kẻ thù là bọn Mỹ xâm lược. Khi Mỹ dựng lên chính phủ Lon-non, lật đổ Xi-ha-núc thì Đảng của Pôn-pốt đứng ra đánh Lon-non. Đã có vài lần chính Yêng-sa-ri sang xin viện trợ của Trung Quốc đã phải đến Sứ quán ta nhờ tôi điện về xin Chính phủ ta chuyển giúp vũ khí của Trung Quốc vào Cam-pu-chia giúp họ; cũng có lúc tôi đã mời Yêng-sa-ri ăn cơm ở Sứ quán. Nhớ lại lúc tôi còn làm việc ở Lào, ba nước còn chiến đấu chống Mỹ và bọn tay sai của Mỹ, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn cũng đã từng mời đồng chí Kay-xỏn Phôm-vi-hản và Pôn-pốt (lúc đó gọi là đồng chí Thanh) sang hội đàm giữa ba Tổng bí thư. Hôm chiêu đãi hai Tổng bí thư Đảng Lào và Cam-pu-chia, tôi cũng được mời đến dự.
Lại nói chuyện Trung Quốc đối với Việt Nam, năm 1976, không khí quan hệ đã bắt đầu đi xuống. Phía Việt Nam cử đoàn quân sự cao cấp do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu mục đích chính là để cảm ơn Trung Quốc. Trước khi đi, đồng chí Giáp đã nghe Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta báo cáo tình hình, nhưng có lẽ bản báo cáo của đồng chí Hoàng Bảo Sơn lúc đó còn quá lạc quan nên đồng chí Giáp chưa tin, khi sang đến Trung Quốc đồng chí gọi tôi đi dạo nói chuyện riêng. Tôi báo cáo là thấy tình hình xấu đi, đồng chí Giáp cũng đồng ý như vậy. Quả thật, chuyến đó Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm Tỉnh Cương sơn (di tích cách mạng của Trung Quốc) cùng với đoàn Tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, thì cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì. Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, cố dọn cho đoàn có cả một chiếc bát mẻ miệng (thật chẳng xứng mặt nước lớn chút nào?).
Tiếp đó lại đến vụ “nạn kiều”, ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam bắt tay với Mỹ để tìm kiếm nguồn vốn là kỹ thuật từ Mỹ và đồng minh, để họ thực hiện mục tiêu “Bốn hiện đại hóa” của họ. Nói cho khách quan, thì phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ 5 của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh. Không những gây ra vụ “nạn kiều”, lên án Việt Nam xua đuổi Hoa kiều, Trung Quốc còn ngầm xui Khơ-me đỏ (Pôn-pốt Yêng-sa-ri) quay giáo đánh vào biên giới Tây Nam của ta, khiến Việt Nam vừa kết thúc cuộc chiến tranh lâu dài gian khổ với đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với chiến tranh Tây Nam, đánh nhau với người “bạn cũ”, hòng làm cho Việt Nam không bao giờ đủ mạnh để thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Xét về nguyên nhân sâu xa, có thể nói: với tư tưởng bá quyền nước lớn vốn thâm căn cố đế, đã từ lâu, Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng của họ, bắt ta phải thuần phục họ. Hơn nữa, những người cầm quyền Trung Quốc cũng thường có thói quen đối xử với các nước nhỏ theo phương châm “thuận ngã giả xương, nghịch ngã giả vong” (theo lời ta thì được tốt đẹp, chống lại ta thì ta cho chết). Tuy biết họ như vậy nhưng phía ta mà khôn khéo hơn thì khó để họ lấy cớ gây hấn với ta, bởi vì Trung Quốc lại còn cái bệnh giả nhân giả nghĩa, rất muốn và rất cần che đậy dã tâm của mình. Trong thời gian sau năm 1976, ở Việt Nam cũng có những cái đầu nóng, khi Trung Quốc cố ý gây hiềm khích qua vụ “nạn kiều” thì phía ta lại cũng có ý “tát nước theo mưa”, thành kiến với người Hoa, kỳ thị người Hoa ở Việt Nam, bất kể có người đã là Đảng viên là anh hùng đã đóng góp thực sự cho cách mạng Việt Nam. Tiếp đó ta lại vội vã ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô (vào tháng 11 năm 1978) nên cũng góp thêm phần làm cho Trung Quốc ra mặt thù địch với Liên Xô). Cho đến khi Việt Nam buộc phải đánh cho Pôn-pốt một đòn đau, tiến quân vào tận Nông-pênh thì Trung Quốc càng có cớ để động binh, thực sự gây chiến tranh với Việt Nam mà theo Trung Quốc nói công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” (về “tội” câu kết với Liên Xô và đánh Cam-pu-chia), Trung Quốc nói cần phải “chi viện” các đồng chí Khơ-me đỏ. Cuộc chiến tranh tháng 2/1979 tuy trên phương diện quân sự thì Trung Quốc thua, buộc phải rút quân về nước còn bị ta bắt sống nguyên một đại đội; nhưng Trung Quốc cũng đã đạt được nhiều mục đích riêng của họmà mục đích hàng đầu vẫn là để cầu thân với Mỹ (vốn là kẻ thù số một của ta vừa bị Việt Nam đánh cho thua đến “lấm lưng trắng bụng”) và phá hoại ba tỉnh của ta là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.
2. …Lược lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, thì thấy: ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con đường như sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc cải cách ruộng đất đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức cũng tổ chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ. Sau này, khi phát hiện cải cách ruộng đất là sai lầm, gây tổn thất nghiêm trọng, ta mới tỉnh ngộ, từ bỏ tư tưởng Mao Trạch Đông và không tổ chức thực tiễn theo phương pháp của Trung Quốc nữa. Thất bại trong việc chinh phục bằng lý luận tư tưởng, Trung Quốc chuyển sang chính sách chinh phục ta bằng kinh tế. Từ năm 1954 về sau. Trung Quốc đã giúp ta xây dựng hàng loạt nhà máy xí nghiệp (như Gang thép Thái Nguyên, Phân đạm Bắc Giang, Cao su – xà phòng – thuốc lá Thượng Đình Hà Nội, Bóng đèn phích nước Rạng Đông v.v….) nhưng chất lượng sản phẩm không cao bằng được Trung Quốc, một mặt vì họ cung cấp thiết bị và công nghệ cũ, mặt khác dù có công nghệ tốt họ cũng không chuyển giao cho ta.
Giúp nhiều như vậy, một mặt họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo; mặt khác, buộc ta phải lệ thuộc họ về phụ tùng nguyên liệu. Vì vậy họ tiếp tục giúp ta về tiền và vật chất mãi đến khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cũng còn một mục tiêu là giúp Việt Nam là để giữ an toàn cho phía Nam Trung Quốc (nếu để Mỹ chiếm được cả Việt Nam thì sẽ diễn ra việc như vụ Mỹ ném bom sông Áp-lục sát biên giới và cả vào đất Trung Quốc hồi chiến tranh Triều Tiên). Sau khi ta ký hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta chia làm hai miền, Trung Quốc gợi ý ta xây dựng miền Bắc trước và thực hiện trường kỳ mai phục ở chiến trường miền Nam. Ý đồ là giữ chúng ta luôn ở thế yếu thì họ mới dễ khống chế (vì ta chỉ có một nửa nước). Họ không muốn ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, trở thành một nước mạnh tuột khỏi tay Trung Quốc. Nhưng khi Mỹ đã gây hấn ném bom ra miền Bắc, đổ quân vào miền Nam thì Trung Quốc vẫn giúp ta về vũ khí trang bị, về quân nhu hậu cần để an toàn cho họ. Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ giao động quyết tâm, ta cũng thấy có thời cơ thương lượng, thì Trung Quốc không muốn ta đàm phán mà muốn ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” vừa để cho ta kiệt quệ vừa để Mỹ sa lầy phải tìm đến Trung Quốc.
Qua nhiều sự việc Việt Nam chỉ làm theo ý mình mà không làm theo ý họ, rồi các nhà máy giúp Việt Nam cái thì kém hiệu quả, cái thì bị chiến tranh làm hư hại… Trung Quốc thấy việc lấy kinh tế để điều khiển Việt Nam có vẻ không thành công họ bèn chuyển sang thời kỳ ép ta về quân sự từ hai phía hòng khiến ta phải quy phục: phía Bắc nước ta thì họ làm nhiều con đường ra sát biên giới Việt Nam, phía Nam nước ta thì họ giúp tài chính và trang bị cho Pôn-pốt để nắm vững quân bài, hình thành hai gọng kìm kẹp hai đầu đất nước ta và đồng tình cho Pôn-pốt đánh ta làm cho ta tổn thất và không yên ổn để xây dựng lại đất nước.
Trong bối cảnh như vậy, quá trình tôi làm Đại sứ ở Trung Quốc đúng là một quá trình chủ yếu là tranh cãi và đối phó. Thường xảy ra việc như thế này: Mỗi khi có đoàn đại biểu nào của Việt Nam sang Trung Quốc thì tối hôm đó, trên đài truyền hình và phát thanh của Trung Quốc đều nói đến vấn đề “chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa là không thể tranh cãi” (tức các quần đào Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam). (Đối với các đoàn từ cấp Phó thủ tướng là họ đều làm như thế). Từ khi xảy ra vụ “nạn kiều” và việc ta ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô thì các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc lúc nào cũng ra rả lăng mạ “tập đoàn Lê Duẩn”. Khi tôi cho trưng bày hình ảnh Pôn-pốt đánh phá biên giới Tây Nam nước ta ở bảng thông tin của sứ quán (đặt ngoài hàng rào) từ phía Trung Quốc mời tôi lên Bộ Ngoại giao để gặp Thứ trưởng Hàn Niệm Long, ông ta lên tiếng phản đối, đòi ta phải dỡ bỏ những hình ảnh và lời tố cáo đó. Nhưng tôi lại nói: “Những việc mà tôi trưng bày ra, đó đều là sự thật, chẳng lẽ Trung Quốc lại sợ sự thật? Hơn nữa, cái bảng thông tin mà chúng tôi treo ảnh trên hàng rào Sứ quán đó là nằm trong phạm vi chủ quyền của nước tôi, tôi không dỡ bỏ”. Ông ta nói: “Trung Quốc không cho phép nước nào nói xấu nước thứ ba trong lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”. Tôi nói: “Đồng chí nói sai rồi, cách đây ba hôm, tôi thấy đồng chí còn giúp cho Đại sứ của Pôn-pốt họp báo nói xấu Việt Nam chúng tôi và cuộc họp báo đó có nhiều cán bộ Trung Quốc làm phiên dịch cho họ”. Nói xong tôi ra về.
Ngày đến ngày 19-5, Sứ quán ta dự định chiếu phim Hồ Chủ Tịch vào buổi tốm hôm 19-5, đúng ngày sinh nhật Người. Ta đã gửi giấy mời đến Sứ quán các nước (lúc đó ở Bắc Kinh có độ trăm Sứ quán nước ngoài) trước đó bảy ngày. Đúng buổi chiều hôm ta đã mời, Trung Quốc lại điện tất cả các Sứ quán, mời đích danh các vị Đại sứ đúng 17 giờ đến Đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh để xem triển lãm về Thủ tướng Chu Ân Lai. Thong thông lệ quốc tế, bao giờ các Đại sứ cũng phải ưu tiên đối với nước chủ nhà. Thế nên cũng chiều hôm ấy, chúng tôi phải huy động toàn lực ra làm giấy mời, rời buổi chiếu phim của ta sang 18 giờ chiều tối hôm sau. Thật là vất vả với cái trò trẻ con của phía Trung Quốc! 
Rồi lại rất buồn cười là dạo đó Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn luôn “chầu chực” ở hai cửa của Sứ quán ta, cán bộ sứ quán mình đi đâu nó theo đấy, ngay Đại sứ đi nó cũng đi theo.
Một lần nữa Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên, đưa công hàm phản đối Chính phủ Việt Nam xua đuổi và tước đoạt “nạn kiều” Trung Quốc. Tôi nói: “Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước đã làm lỡ cả một số công việc của chúng tôi tại nơi mà họ đang đảm nhiệm trong cơ sở sản xuất và công sở. Hơn nữa, vào năm 1953, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thỏa thuận với nhau là người Hoa ở Việt Nam được coi như công dân Việt Nam, do Việt Nam quản lý. Do đó, ở miền Bắc nước tôi đã không có Hoa kiều nữa. Vậy lẽ nào chúng tôi lại xua đuổi công dân của chúng tôi, cho dù họ là gốc Trung Quốc. Còn ở miền Nam, trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, người Hoa đều đã đăng ký quốc tịch Việt Nam. Vậy cho đến nay trên cả nước Việt Nam đều không có ai là Hoa kiều nữa”. Hàn (Niệm Long) nói: “Vậy các ngài cũng công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu à?” – Rồi cuộc đối thoại cũng kết thúc.
Trong năm 1977, lại một lần nữa Trung Quốc mời tôi, cũng lại tranh cãi vấn đề Hoa kiều và người Hoa, không bên nào chịu bên nào. Sau khi đấu khẩu như vậy, Trọng Hi Đông (Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên là tướng trong quân đội) nói: “Sống hòa bình với nhau thì tốt hơn, chiến tranh thì phức tạp đấy”. Tôi nói: “Tôi cũng đã là tướng, tôi cũng biết thế nào là chiến tranh. Và chúng tôi đã thắng Pháp và thắng Mỹ”.
Một lần khác, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên gặp một Thứ trưởng Ngoại giao. Ông ta nhờ tôi gửi công hàm về cho Chính phủ ta, đồng thời thông báo: “Do chính phủ Việt Nam bức hại Hoa kiều nên Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định đưa hai tàu Trường Lực và Minh Hoa vào cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn để đón nạn kiều của chúng tôi”. Tôi nói: “Tôi sẽ chuyển công hàm về cho Chính phủ. Nhưng trước hết tôi nói ở Việt Nam không có nạn kiều. Và Chính phủ chúng tôi còn xem xét, tàu Trường Lực và Minh Hoa có được phép vào Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh hay không đã, vì hai cảng đó thuộc chủ quyền của Việt Nam, không ai được tự tiện vào”.
Khi tôi từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra về, các phóng viên báo chí quốc tế xúm lại hỏi tôi, tôi nói lại sự việc vừa rồi và nói thêm: “Cảng thành phố Hồ Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung Quốc mà họ tự ý quyết định đưa tàu vào được”. Sau đó các phóng viên đã đưa tin ra thế giới và tỏ ra thú vị với cách ông Đại sứ nói “cảng Việt Nam không phải là cái ao nhà của Trung Quốc”.
Ngoài những lần như vậy, còn có nhiều lần khác nữa, Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn mời tôi lên, ngoan cố vu cáo Việt Nam ta, lần nào tôi cũng phải đấu lý với họ. Về nguyên tắc, lập trường thì mình rất kiên quyết giữ vững, nhưng về thái độ mình phải đúng mực. Thường là họ phải chịu mình vì họ đuối lý.
3. Một lần tôi về nước báo cáo (lúc đó muốn về Việt Nam, phải bay từ Bắc Kinh sang Mát-xcơ-va mới bay về được Hà Nội). Ra sân bay Bắc Kinh, nhân viên sân bay muốn bắt tôi đi vào cửa kiểm tra hành lý, tôi không chịu, tôi nói: “Tôi là Đại sứ, tôi được “miễn trừ ngoại giao” theo nguyên tắc quốc tế, nên không ai được kiểm tra khám xét. Nếu các ngài ngăn cản không cho tôi đi, tôi sẽ họp báo tố cáo các ngày vi phạm công ước quốc tế”. Nhân viên sân bay chạy đi đâu đó, ý chừng là đi báo cáo thỉnh thị cấp trên. Sau đó mở cho tôi đi theo đường cửa không soát hành lý.
Lần khác, tôi cũng ra sân bay về nước, họ lại định bắt tôi đưa hành lý vào cửa kiểm soát có chiếu tia X, tôi không chịu. Họ nói đây là kiểm tra an ninh thôi mà. Tôi nói: “Kiểm tra gì tôi cũng không đồng ý, các người nghĩ tôi là không tặc à? Từ trước tới nay tôi chưa hề được biết có nhà ngoại giao nào làm không tặc cả. Nếu nghĩ tôi là không tặc, tại sao lại chấp nhận tôi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền bên cạnh Chủ tịch nước các người? Tôi nói cho các người biết, là phía Trung Quốc cũng có Sứ quán ở nước tôi, mà nguyên tắc ngoại giao là đối đẳng, nếu các người cố tình kiểm tra hành lý của tôi, tôi sẽ báo cáo về chính phủ, để bên Việt Nam cũng kiểm tra hành lý của Đại sứ các người khi xuất cảnh. Mà nước tôi thì chưa có phương tiện kiểm tra hiện đại, nhân viên Việt Nam sẽ phải mời Đại sứ các người đồng ý như vậy thì hãy làm bừa đi”. Nhân viên Trung Quốc lại phải chịu lý của tôi, lại phải mời tôi đi theo cửa tự do, không kiểm tra hành lý nữa. 
Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ Sứ quán ta ra, đến một đoạn đường nọ, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh đúng luật, thế mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, nói rằng anh đã vi phạm luật giao thông, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ. Giấy tờ đủ cả ! Đồng chí lái xe nói: “Tôi đi đúng luật, không vượt đèn đỏ, không lấn sang phần đường của xe khác?”. Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra cái gì để bắt bẻ nữa (chủ yếu là họ làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với Đại sứ nước nào đó).
Trong trường Đại học Bắc Kinh có nhiều sinh viên nước ngoài, có lần Trung Quốc đã xúi bẩy số sinh viên các nước thân Trung Quốc đến biểu tình trước Sứ quán ta. Ta đối phó việc đó bằng cách tuyên truyền vận động để họ hiểu biết sự thật, ai phải ai trái, phần lớn họ hiểu ra và thôi không tụ họp ở đó nữa. Nhưng cũng còn có 4,5 sinh viên cả trai lẫn gái còn ở lại chỗ gốc cây bên kia đường đối diện của Sứ quán ta. Tôi phải cho người đóng cửa Sứ quán vào và cử đồng chí Lê Công Phụng (lúc đó làm phiên dịch tiếng Anh) ra giải thích cho đám sinh viên đó. Vì cửa đóng sinh viên không vào được bên trong, họ ném trong bì thư (có lẽ bên trong viết nhưng nội dung phản đối Việt Nam) vào sân của Sứ quán. Đồng chí Phụng cầm phong bì ném ra, họ lại nhặt ném vào, đồng chí Phụng lại ném ra và nói: “Các bạn đã bị Trung Quốc lừa rồi, hãy về mà chăm chú học đi thôi”…
Cứ cái cách như vậy thật mệt. Sau này gặp đồng chí Ngô Thuyền, người tiền nhiệm của mình, tôi nói đùa: “Anh thì sang Trung Quốc uống rượu, tôi thì sang cãi nhau!”.
Trong thời gian quan hệ hai nước căng thẳng thì các đường đi lại giữa ta và Trung Quốc bị cắt hết: cả máy bay, tàu hỏa, điện thoại. Chúng tôi ở Sứ quán giữa Bắc Kinh mà cứ như ở đảo. Hàng ngày chỉ có hai ca liên lạc VAC, một ca buổi sáng, một ca buổi tối để liên hệ và nhận chỉ thị từ trong nước. Thành thử có nhiều việc xảy ra, chúng tôi phải tự động đối phó. Cũng vì vậy, nên mỗi lần tôi hết nhiệm kỳ Đại sứ, Bộ Ngoại giao báo cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì đồng chí lại bảo: “Cứ để đồng chí Vĩnh ở đấy”. (Hơn nữa, trong tình hình khó khăn như vậy, chẳng ai muốn sang thay. Lúc ấy lương tôi chỉ được có 90 đô la một tháng, trong khi lương Đại sứ Thái Lan cùng ở Bắc Kinh là 3.000 đô la. Đến năm 1990, đồng chí Đặng Nghiêm Hoành sang làm Đại sứ ở Bắc Kinh, lương được 600 đô la một tháng. Lái xe của sứ quán Lào cũng được 400 đô la một tháng).
Do đã ở liền vài nhiệm kỳ ở Bắc Kinh, nên theo thông lệ quốc tế, tôi trở thành Trưởng đoàn ngoại giao một thời gian khá dài. Ngoại giao đoàn rất coi trọng chức trưởng đoàn đó, các Đại sứ mới đến Trung Quốc, sau khi đi chào các vị lãnh đạo của nước chủ nhà thì đều phải đến chào trưởng đoàn ngoại giao; khi tổ chức ngày Quốc khánh nước mình thì cũng đến mời trưởng đoàn ngoại giao, mà lại bố trí ngồi chỗ trang trọng nhất trước mặt mình. Khi có Đại sứ nào rời nhiệm, nếu có tổ chức gặp gỡ để chào từ biệt ngoại giao đoàn, thì cũng mời trưởng đoàn ngoại giao và trưởng đoàn ngoại giao sẽ thay mặt các Đại sứ phát biểu ý kiến tiễn biệt. Trong suốt thời gian làm Trưởng đoàn ngoại giao, tôi đã phải làm đến 60 bài diễn văn ngắn để chào mừng hoặc tiễn biệt những người đồng nghiệp. Tuy ngắn vậy thôi, nhưng cũng không phải dễ làm, bởi vì mỗi vị Đại sứ đại diện cho mỗi nước khác nhau, quan hệ với ta cũng khác nhau, 60 bài đòi hỏi phải sát hợp với những hoàn cảnh khác nhau đó. Có lần ông Đại sứ Thụy Điển đã nói với tôi: “Tôi theo dõi thấy ngài phát biểu không lần nào giống lần nào”.
Có chuyện ông Đại sứ Mỹ, khi đến nhận chức thì không đến chào tôi, nhưng khi rời chức, tổ chức gặp gỡ để từ biệt thì lại đến Sứ quán ta thông báo cho tôi là đã hết nhiệm kỳ và mời tôi đến dự. Tôi nói: “Khi ngài mới đến, hoặc là ngài còn hận Việt Nam, hoặc ngài sợ Trung Quốc nên đã không đến chào tôi. Nhưng hôm nay ngài đã đến và mời tôi tới dự buổi gặp mặt từ biệt, tôi nhận lời và sẽ phát biểu ý kiến tiễn chân ngài”. Cái khó là trong trường hợp này là, ca ngợi ông ta thì không được mà nói xấu ông ta cũng không xong. Tôi phải tìm những câu vô thưởng vô phạt để nói, cuối cùng thì cũng chức sức khỏe ông ta và gia đình, chúc ông ta lên đường gặp mọi sự may mắn. Các Đại sứ khác nghe vậy cũng thấy là được.
Mặc dù Trung Quốc lúc đó chẳng ưa gì Đại sứ Việt Nam, lại càng không ưa gì một người luôn đấu lý (và lại hay làm họ cứng họng) như tôi, nhưng cũng vì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nên dịp mừng Quốc khánh của họ hay dịp các nguyên thủ các nước đến thăm mà Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi trọng thể, bao giờ họ cũng phải mời tôi ngồi bàn danh dự.
Rõ ràng phía Trung Quốc không muốn tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nhưng không có cách gì truất chức đó của tôi, nên lắm khi họ bày ra những chuyện nực cười, rất trẻ con để chọc phá tôi.
Cái lần đoàn ngoại giao đi thăm tỉnh An Huy của Trung Quốc, khi kết thúc hành trình, lãnh đạo địa phương tổ chức tiệc chiêu đãi tại một công viên. Trước khi vào phòng tiệc, một cán bộ ngoại giao Trung Quốc đến nói với tôi: Những lần trước ngài đã phát biểu rồi, lần này nên làm khác đi, để ông Đại sứ Tan-za-nia (người thứ hai sau trưởng đoàn) phát biểu ý kiến. Tôi nói: “Nếu không cần phải phát biểu ý kiến gì thì thôi, còn nếu có, thì theo thông lệ quốc tế, tôi sẽ phát biểu chứ không phải người khác. Nếu các ngài cố ý làm trái, tôi sẽ không dự bữa tiệc này. Vả lại tôi cũng chẳng nói xấu gì về nước các ngài”. Cán bộ Trung Quốc nói: “Sẽ không có ai phát biểu cả”. Vậy mà ngay lúc đó, phía Trung Quốc lại đi vận động ông Đại sứ Tan-za-nia phát biểu trong bữa tiệc. Nhưng ông Đại sứ Tan-za-nia nói: “Không được! Phát biểu là quyền của ông Đại sứ Việt Nam. Chỉ khi nào ông ấy ủy quyền cho tôi thì tôi mới được nói”. Trong khi các Đại sứ khác đều đi vào phòng tiệc, tôi vẫn đi ở vườn hoa chưa vào. Lúc sau, cán bộ ngoại giao Trung Quốc ra mời tôi vào ngồi ở bàn số Một, đối diện với Tỉnh trưởng An Huy. Bên cạnh tôi vẫn còn chỗ trống, thì ra ông Đại sứ Tan-za-nia cũng ngại nên vẫn loanh quanh ngoài vườn hoa chưa vào. Họ lại phải đi tìm và mời vào chố trống đó. Lúc khai tiệc, chắc theo đạo diễn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Tỉnh trưởng không nói gì. Tôi vẫn chủ động đứng lên nâng cốc, cảm ơn về chuyến đi, chúc sức khỏe Tỉnh trưởng cùng Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc đi cùng và tôi quay lại chúc sức khỏe các bạn đồng nghiệp. Tôi chúc xong mọi người mới bắt đầu cầm đũa.
Trong thời kỳ làm Đại sứ, thỉnh thoảng tôi có tổ chức họp báo, lúc thì để giới thiệu tình hình nước ta, lúc thì để tố cáo bọn Pôn-pốt khiêu khích đánh phá biên giới Việt Nam. Khi Trung Quốc đánh ta, tôi cũng họp báo và tố cáo rằng: “Trung Quốc đang dùng 3 sư đoàn tiến đánh Việt Nam”. Một nhà báo Mỹ đứng lên nói: “Ngài Đại sứ nói quá lên thế chứ, còn theo tình báo của chúng tôi thì đâu có nhiều quân đến thế?”. Tôi nói: “Việc chúng tôi thì chúng tôi biết hơn ai hết. Còn tình báo của các ngài thì chúng tôi cũng đã biết. Tết Mậu Thân năm 1968, quân chúng tôi vào đánh khắp nơi, đánh cả vào Sứ quán Mỹ, mà trước đó tình báo Mỹ có biết gì đâu!”. Các nhà báo cười ồ cả lên. (Đến đây tôi chợt nhớ một chuyện về ngài Đại sứ, cũng là Mỹ ở Trung Quốc: Khi đến nhận chức ở Bắc Kinh, ông ta không đến chào tôi, vì vậy sau đó mỗi khi đứng cương vị Trưởng đoàn ngoại giao có việc gì cần gửi thông báo đến các Đại sứ, tôi không gửi cho Sứ quán Mỹ và cho ông ta. Một số Đại sứ khác ở Trung Quốc thấy tôi có thái độ “tẩy chay” Đại sứ Mỹ, đã đến vận động tôi đừng làm như vậy. Nhưng tôi nói, khi đến ông ta cậy thế nước lớn không đến chào tôi, vì vậy tôi cũng không việc gì phải giao thiệp với ông ta. Không biết có phải ông Đại sứ Mỹ đã được chuyển đến tai câu nói đó của tôi hay không, mà khi tổ chức chiêu đã rời nhiệm sở, ông ta lại phải đến tận nơi mời tôi?).
 4. Làm Đại sứ ở Trung Quốc trong những năm Trung Quốc cố tình khiêu khích và biến Việt Nam thành kẻ thù, đã đành là rất căng thẳng thần kinh và hao tổn thể chất; nhưng với tôi, cũng không phải là hoàn toàn chỉ có vất vả gian khổ. Cũng có những khi được “đắc ý” chứ. Ấy là niềm vui sau những cuộc đấu lý với Trung Quốc. Họ thì hùng hùng hổ hổ, đập bàn đập ghế, dùng những lời lẽ đao to búa lớn để vu cáo trắng trợn và đe dọa ta. Tôi thì vận hết “nội công” cố sức kiềm chế để không bị cuốn vào cái kiểu hùng hổ bất lịch sự, phi ngoại giao đó, để tìm những lý lẽ và ngôn từ đích đáng, đập lại họ, buộc họ phải rút dù. Sau mỗi cuộc như vậy, tôi thấy như người đánh cờ, thắng được một ván là có được một niềm vui.
Hơn nữa, cũng có những lúc mình được hưởng cái sung sướng thực sự, đó là vào những cuộc “lữ hành ngoại giao” mà phía Trung Quốc, với cương vị nước chủ nhà đã tổ chức cho đoàn ngoại giao đi chơi thăm thú các nơi phong cảnh đẹp hoặc lạ ở trên đất nước họ. Tôi nghĩ nếu không có dịp làm Đại sứ thì đã mấy khi mình được du lịch không mất tiền nhiều như vậy?
Năm 1974, khi mới sang Trung Quốc, tôi được đi chuyến “lữ hành ngoại giao” thăm Côn Minh, đó là một thành phố đẹp và loại nhất của Trung Quốc, thuộc tỉnh Vân Nam sát với Việt Nam ta. Côn Minh còn được người Trung Quốc gọi là “Xuân Thành” vì khí hậu rất tốt, quanh năm mát mẻ như mùa xuân. Ở Côn Minh có rất nhiều phong cảnh đẹp và kỳ lạ như Thạch Lâm, Hồ Điền Trì, Ôn Tuyền v.v… rất nhiều chùa chiền đẹp và khuôn viên rộng lớn, sạch sẽ. Vì Côn Minh ở độ cao trên 1.500m nên người dân lúc nào cũng mặc áo len, trông lại càng nhiều màu sắc bắt mắt, ở đây cũng lưu truyền câu nói “nhất vũ thành đông” (tức là hễ có một trận mưa là rét như mùa đông). Ở đây có hai vị thuốc quý là đông trùng hạ thảo và tam thất (ở Vân Nam trồng thì gọi là Điền thất, Điền thất là thứ tam thất hàng đầu của Trung Quốc). Ở Côn Minh, chúng tôi được thưởng món đặc sản “bún qua cầu” rất lạ. Một sợi bún dài như vô tận được cho đi qua một bát nước dùng mà trên mặt có váng mỡ để giữ cho được nóng lâu. Người ăn cứ việc hút sợi bún đó mà ăn đến no thì dừng lại. (Phải mở ngoặc là lúc đó Trung Quốc còn chưa trở mặt với ta, tôi còn được vợ đồng chí Lý Thế Thuần đưa đi và làm phiên dịch – Khi tôi đã nghỉ hưu, đồng chí Lý Thế Thuần làm Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội).
Năm 1975, tôi lại được cùng đoàn ngoại giao đi Tân Cương, đó là nơi biên giới xa xôi, giáp với Liên Xô. Ở đây cuộc sống và phong tục rất khác lạ. Họ cho ăn thịt cừu và uống sữa ngựa. Thứ sữa đó mùi vị như bia, uống vào thấy hơi say say, họ nói chỉ có khách quý mới được uống, còn thì chỉ dành cho bệnh viện, nhất là cho người bị bệnh lao. Ở Tân Cương có giống dưa lưới và đào bẹt (gọi biển đào), ăn cực ngon. Chúng tôi đến Tân Cương đúng vào mùa đào chín, họ cho vào vườn tha hồ hái, ăn chán thì thôi. Chúng tôi cũng gặp nhiều người dân địa phương ở đây, họ ăn mặc rất rực rỡ, đàn ông thì cao lớn, phụ nữ thì xinh đẹp như tiên, trông họ có vẻ như lai Á lai Âu, nét mặt thật sáng sủa.
Năm 1976, lại được đi chơi núi Thái Sơn (thuộc tỉnh Sơn Đông). Mặc dù không phải núi cao và lớn hàng đầu của Trung Quốc, nhưng Thái Sơn (cao 1.500m so với mặt nước biển) lại rất nổi tiếng, đã đi vào câu nói hàng ngày và văn thơ của Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta thường nói “có mắt mà không nhìn thấy Thái Sơn” hoặc “nặng như Thái Sơn”… Ngay cả trong thơ ca Việt Nam cũng có câu “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” v.v… Phong cảnh ở đây rất đẹp, y như trong tranh thủy mặc ở Trung Quốc vậy. Và rất tự hào là trong chuyến đi đó, cả đoàn ngoại giao, chỉ có tôi và hai vợ chồng ông Đại sứ Hung-ga-ri là trèo được mấy ngàn bậc đá lên tận đỉnh Thái Sơn, đứng đó để ngắm ra tận biển Đông của Trung Quốc được xem mặt trời mọc từ biển lên rất hay. Tận trên đỉnh cao như vậy mà người Trung Quốc từ xưa đã xây được lâu đài đình các nguy nga, kể cũng đáng nể.
Năm 1980, sau khi Trung Quốc đã gây hấn đánh Việt Nam rồi, nhưng vì vẫn có chuyến “lữ hành ngoại giao” và vì tôi là Trưởng đoàn nên họ phải mời tôi cùng đoàn đi chơi tỉnh An Huy, thăm thắng cảnh Hoàng Sơn, cũng là một trong những cảnh đẹp hàng đầu của Trung Quốc, có nhiều cây thông cổ thụ mọc trên vách đá cheo leo, đủ hình đủ thế, theo đường núi lên đến đỉnh thì thấy đền đài cổ kính, xây cất rất đẹp và công phu. Từ cổ xưa, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã hay tìm những nơi có cảnh thiên nhiên đẹp, cho xây dựng lên những công trình tráng lệ và cũng may cho đất nước Trung Quốc là ít bị chiến tranh tàn phá nên bây giờ các công trình còn lại khá nhiều.
Thông thường đoàn ngoại giao đi đến tỉnh nào thì Tỉnh trưởng ở đó tiếp đón và khi kết thúc chuyến đi thì Tỉnh trưởng lại đãi tiệc. Trước bữa tiệc, sau khi Tỉnh trưởng phát biểu thì đến Trưởng đoàn ngoại giao thay mặt các Đại sứ đọc đáp từ. Thời kỳ quan hệ hai nước đang căng thẳng thì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao, khi nói đều phải tránh không ca ngợi lãnh đạo và thành tích của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, chỉ ca tụng cảnh đẹp của địa phương, sự đón tiếp của những nơi đoàn đến thăm, các sản vật quý của địa phương, chúc sức khỏe các vị lãnh đạo địa phương để lãnh đạo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân trong địa bàn… (Riêng lần đi An Huy này thì có chuyện buồn cười như đã thuật ở phần trên).
Thời gian ở Bắc Kinh, tôi cũng tạo được điều kiện cho vợ chồng Minh Hà (con gái thứ 3 lấy chồng người Đức là Verner) từ Đức sang thăm Trung Quốc. Và một lần từ Trung Quốc bay sang Mát-xcơ-va, tôi và bà xã cũng tranh thủ đi xe lửa sang chơi bên Đức, thăm nhà con gái.
Cũng nhờ việc làm Đại sứ ở Bắc Kinh nên tôi còn được biết cả thủ đô các nước Triều Tiên, Ap-ga-nit-xtan, Pa-kit-xtan nữa.
Vào mùa hè năm 1977, có Hội nghị quốc tế về nông nghiệp do Triều Tiên đăng cai. Bên nước điện sang cử tôi và anh phiên dịch tiếng Anh đi dự, vì vậy có dịp thăm quan thành phố Bình Nhưỡng thủ đô Triều Tiên. Thành phố đó không gọi là lớn nhưng rất đẹp, các công trình kiến trúc cũng đẹp, có vẻ phô trương, đồ sộ. Ví dụ có một nhà hát chỉ độ 500 chỗ nhưng khuôn viên khá lớn và trang trí rất lộng lẫy. Đường phố hai bên trồng toàn cây ngô đồng, đang mùa hè nên lá rất xanh tốt. Tôi được ăn một bữa tiệc ngồi cùng bàn với ông Kim Nhật Thành và lần đầu tiên được biết món “kim chi” nổi tiếng của Triều Tiên, rất ngon.
Một lần tôi đi tháp tùng đồng chí Nguyễn Duy Trinh (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) đi thăm Ap-ga-nit-xtan, đến thủ đô Ca-bun, thật tiếc là thủ đô đó chẳng gây cho mình ấn tượng và cảm xúc gì. Sau khi đi thăm Ap-ga-nit-xtan (lúc đó có chính quyền thân Liên Xô), đoàn sang thăm Pa-kit-xtan nhưng chẳng được việc gì, họ đối xử rất nhạt nhẽo vì họ đang theo Trung Quốc, mâu thuẫn với Ap-ga-nit-xtan. Ở Pa-kit-xtan không được uống bia rượu và ăn thịt lợn, vì nước đó theo đạo Hồi. Pa-kit-xtan lúc đó rất nghèo và phụ thuộc Trung Quốc. Có một con đường lớn nối từ thủ đô Is-la-ma-bat đến Trung Quốc men theo sườn dãy Hi-ma-lay-a, được biết là do Trung Quốc làm giúp. Thành phố Ca-ra-si, nơi có sân bay quốc tế, gọi là lớn nhưng lúc đó cũng rất lèo tèo.
Có một việc dường như cả những người thân cũng ít biết đến, đó là thời gian tôi được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc, thì cũng kiêm luôn cả chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam ở Pa-kit-xtan. Khi bay từ Bắc Kinh sang Is-la-ma-bat, qua dãy Hi-ma-lay-a nóc nhà thế giới, nhìn thấy tuyết phủ dày trắng, mấy người cũng đã nói đùa với nhau: giá mà rơi xuống đây thì đố có ai tìm được! Đến thủ đô Pa-kit-xtan tôi phải đi trình quốc thư; rất ấn tượng với nghi lễ của nước này: họ cho xe song mã, có lính bồng súng rất trang trọng và rất oai đến đón. Đại sứ được ngồi xe song mã, đằng sau có 6 người lính cưỡi ngựa cầm giáo hộ tống vào phủ Tổng thống.
Lại nói chuyện về đi lại ở Trung Quốc, ngoài những chuyến đi với đoàn ngoại giao, còn có một chuyến đi đáng nhớ nữa. Đó là chuyến đi theo đường sắt Côn Minh – Thành Đô vào năm 1977. Dạo đó ở thành phố Côn Minh, ta có một cơ quan Tổng lãnh sự, lại có khá đông các gia đình Việt kiều. (Số bà con đó trước làm thợ hỏa xa phục vụ đường sắt Hải Phòng – Côn Minh từ thời Pháp, sau ở lại Côn Minh). Vì vậy tôi có xuống thăm cơ quan và bà con. Bình thường xuống Côn Minh, tôi vẫn đi theo đường xe lửa phía Đông, từ Bắc Kinh qua Trịnh Châu, Vũ Hán, Trường Sa, Quý Dương rồi đến Côn Minh và ngược lại. Đồng thời, theo quy định của Trung Quốc thì khách nước ngoài muốn mua vé xe lửa phải mua qua “lũ hành xã” (kiểu như du lịch quốc doanh bên ta) mới được. Những lần đó không hiểu sao anh em ở cơ quan Lãnh sự quán lại tự đi mua được vé, mà lại mua được vé theo con đường phía Tây. (Tức đường từ Côn Minh đến Thành Đô rồi qua Tây An, Thái Nguyên về Bắc Kinh). Tôi cũng thích đi theo con đường đó vì chưa đi lần nào, hơn nữa lại nghe nói rất nhiều về việc hoàn thành đoạn đường Thành Đô – Côn Minh mới làm, Trung Quốc coi là thắng lợi lớn vì đoạn đó rất khó thi công… Tôi đi cùng hai đồng chí Bí thư ở Sứ quán. Trên đường, qua quan sát thì thấy quả là “danh bất hư truyền”, không thể không ngạc nhiên thán phục công trình hoành tráng như thế. Xe lửa phải đi trên sườn núi đá dài rất hiểm trở, vì vậy có nhiều hầm tuy-nen chui qua núi, nhiều cầu cạn chênh vênh bắc giữa hai ngọn núi và nhiều đoạn leo đèo dốc quanh co. Có đoạn qua sông Kim Sa nổi tiếng hung dữ (đã được nhắc đến trong truyền thuyết thày trò Đường Tăng và Tôn Ngộ Không đi Tây Trúc lấy kinh). Trên tàu, chúng tôi vô tư dùng tiếng Việt nói chuyện với nhau nên đã gây chú ý cho nhân viên xe lửa Trung Quốc, có lẽ vậy họ mới đi gọi điện báo cho người ở đâu đó. Một lúc sau, thấy hai nhân viên ăn mặc sắc phục đường sắt đến ngồi bắt chuyện với chúng tôi. Khi đến Thành Đô, họ nói: “Xe lửa bị hỏng, đề nghị các vị xuống phòng đợi”, họ xách hộ hành lý cho chúng tôi. Sau đó họ nói tầu bị nghẽn còn lâu mới sửa xong. Họ đưa chúng tôi vào một khách sạn trong Thành Đô. Ngày hôm sau chúng tôi đường dẫn đi xem thành phố, được thăm nhà lưu niệm thi hào Đỗ Phủ. Tối về họ nói: “Thôi các vị phải đi máy bay về Bắc Kinh thôi”. Tôi nói: “Chính phủ chúng tôi cấp tiền có hạn, không đủ tiền mua máy bay”. Họ nói, sẽ giúp đòi lại tiền tàu của cơ quan đường sắt để các vị mua vé máy bay. Tôi nói, dù có lấy lại được thì số tiền đó cũng không đủ mua vé máy bay, chúng tôi còn nghèo, phải tiết kiệm. Chúng tôi sẽ đợi đến bao giờ xe lửa thông thì chúng tôi sẽ về Bắc Kinh. Không còn cách nào, cuối cùng họ phải nói thẳng: “Tuyến đường xe lửa này, Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không cho phép người nước ngoài đi”. Lúc này chúng tôi mới biết họ là công an mật đã lên kèm chúng tôi từ giữa đường đến Thành Đô. Sau đó phía Trung Quốc phải bỏ tiền lấy vé máy bay cho đoàn chúng tôi về Bắc Kinh. Thì ra đường sắt Thành Đô – Côn Minh mà Trung Quốc cố làm cho bằng được đó là con đường chiến lược bí mật của họ. Năm 1979 khi Trung Quốc tấn công ta thì cũng có một cánh quân xuất phát từ Đại quân khu Thành Đô vào đánh ta ở hướng Lào Cai. Ta bắt sống được một Đại đội, họ khai rằng, họ là quân của sư đoàn 150, quân đoàn 50 thuộc Đại quân khu Thành Đô, được chở bằng xe lửa từ Thành Đô đến biên giới Việt Nam qua Côn Minh.
5. Khoảng cuối năm 1985 (tức cuối kỳ làm Đại sứ), bỗng nhiên tôi bị những cơn tim đập nhanh (140 nhịp một phút), phải đến bệnh viện Trung Quốc để khám. Nhưng đi đến giữa đường thì cơn tim đó lại dừng nên đến bệnh viện khám không thấy gì. Lần thứ hai cũng vậy, lần thứ ba thì cùng với cơn tim đập nhanh lại kèm theo sốt nhẹ, tôi phải vào nằm viện để điều trị. Bệnh viện cũng làm đủ mọi động tác xét nghiệm cần thiết như: đo điện tim, siêu âm tin phổi thận, rửa ruột, xét nghiệm máu, soi dạ dày v.v… Sau một loạt khám nghiệm cẩn thận như thế mà họ cũng chỉ kết luận được là “tim đập nhanh đậu tính kèm theo sốt”. Tôi đề nghị điều trị theo cách Đông – Tây y kết hợp. Họ chấp nhận nên hàng ngày cho thuốc viên đồng thời sắc thuốc bắc cho tôi. Họ bố trí tôi nằm riêng một phòng có điều hòa nhiệt độ và mắc vào người tôi những dụng cụ để theo dõi nhịp tim thường xuyên, có màn hình hiện lên trước mặt, nằm ở giường cũng có thể trông thấy. Hễ hơi động cựa mình hoặc dãy chân một tý là màn hình hiện lên con số 150 nhịp/ phút ngay. Về ăn uống bệnh viện cũng lo rất khá, 5 bữa một ngày. Sáng sớm thì bánh bao hoặc sủi cảo, giữa buổi uống sữa, trưa ăn cơm, 2-3 giờ chiều ăn bánh ngọt hoặc hoa quả, tối ăn cơm. Điều trị được ba, bốn ngày, bệnh tim vẫn không chuyển biến. Thế là lại phải nhịn ăn, lấy máu xét nghiệm, lại rửa ruột… vẫn không tìm ra nguyên nhân gì. Rồi đến một lúc tôi không ăn được, không ngủ được, thỉnh thoảng lại còn bị cảm (sau mới biết là nằm trong phòng có điều hoà nhiệt độ thường xuyên, tôi không quen nên mới bị cảm lạnh). Tình hình cứ thế kéo dài, tôi ngày càng gầy sút, chân tay trở nên uể oải không có lực. Đến nỗi việc tắm rửa cũng không tự mình làm được, phải nhờ anh em trong Sứ quán mình vào tắm giúp. Rồi đến lúc giơ tay lên đánh răng rửa mặt cũng thấy mỏi rã ra. Sau một tháng tôi sút mất 10 cân, chân tay lẩy bẩy, đi lại phải vịn, phải lần. Tôi nghĩ nếu cứ nằm đây thì sẽ suy sụp đến chết mất. (Trong khi đó ở Sứ quán, anh em đã họp bàn với nhau, nói đến việc nếu Đại sứ chết thì chôn ở Bắc Kinh hay đưa thi hài về nước). Tôi nói với bệnh viện là mình đỡ rồi, xin về Sứ quán chữa ngoại trú, tôi không dùng máy điều hoà nhiệt độ, chỉ dùng quạt ở mức nhẹ nhất, cho quay đi quay lại phe phẩy thôi. (Ngoài trời lúc đó đang là nóng nhất trong năm). Về ăn uống thì chú Quế (nấu cơm cho tôi đã lâu năm rất tận tình) thường đi mua thịt bò về làm cho chín tái đi rồi ép lấy nước cho tôi, hoặc chú nấu cháo gà cho, nhưng tôi vẫn chỉ ăn được một chút. Tôi thấy ngủ được hơn trong bệnh viện và uống được chút nước thịt cũng hấp thu tốt hơn. Hàng ngày tôi vào bệnh viện cho họ bắt mạch và cắt thuốc bắc về uống, vì hàng ngày vẫn còn sốt âm ỷ. Tôi xem đơn thuốc họ kê cho thì thấy trong đó có nhiều vị tác dụng tư âm thanh nhiệt, lần nào cũng thế. Từ trước tôi đã có mua và đọc nhiều sách thuốc của Trung Quốc, đã có chút hiểu về Đông y; vì vậy khi đọc đơn thuốc đó, tôi suy nghĩ: đã tư âm thanh nhiệt mãi mà không khỏi sốt, ắt trong người phải có chỗ viêm nhiễm nào đấy (mà có thể nó chưa đủ lớn để thày thuốc phát hiện được). Tôi nhờ anh Bảng phiên dịch tiếng Trung Quốc ra hiệu thuốc mua cho vị kháng sinh thực vật là bồ công anh, kim ngân hoa vàliên kiều về bỏ vào thang thuốc của bệnh viện sắc uống trong ba ngày. Uống xong ba ngày thì hết sốt, sau đó tôi thấy trong người ngày càng khá hơn lên, dần dần ăn được ít cơm. Tuy vậy người vẫn còn yếu. Tôi định rủ bà xã về nước (tôi nghĩ nếu có chết thì chết trong nước cho khỏi phức tạp, phiền hà đến cơ quan, tổ chức). Vừa lúc đó, chị Lan bác sĩ của Sứ quán lại phát hiện bà xã tôi bị vàng da, vàng mắt; đưa đi bệnh viện khám thì ra viêm gan cấp tính, phải nằm viện chuyên khoa cách ly điều trị một tháng. Khi bà xã tôi khỏi bệnh ra viện, chúng tôi cùng rời Bắc Kinh về nước. Khi ra sân bay, bác sĩ của Sứ quán vẫn phải đưa tôi đến tận chân thang máy bay. Về đến Hà Nội, bác sĩ của Bộ Ngoại giao ta phải ra tận máy bay đón tôi. Khi tôi có việc lên Bộ Ngoại giao, chỉ có thể đứng dưới nhắn người của vụ Trung Quốc xuống mà gặp. Tôi không còn đủ sức trèo lên tầng ba để làm việc. May mắn là tôi có đem về được hai hộp bột tam thất Vân Nam (là thứ tốt nhất hồi đó, ở Việt Nam hầu như không thể kiếm được). Tôi uống bột tam thất, đồng thời động viên bà vợ cùng ăn gạo lứt để chữa bệnh. Kiên trì ngày một bữa gạo lứt trong hơn hai tháng thì sức khoẻ tôi đã hồi phục như bình thường.
Người ta nói “trong cái rủi có cái may”, bị một trận ốm thập tử nhất sinh ở Bắc Kinh như trên đã nói, rõ ràng là chẳng ai muốn, nhưng qua trận ốm đó tôi lại học được nhiều việc, tôi trở nên chú ý suy ngẫm, rút kinh nghiệm về bảo vệ sức khỏe và thêm hứng thú đi sâu nghiên cứu Đông y hơn. Sau này khi có điều kiện, tôi đã mầy mò nghiên cứu học hỏi cho có bài bản và trở thành thày lang của gia đình, chữa được nhiều bệnh cho vợ con, cháu chắt, bạn bè….
Cái thời những năm 80 thế kỷ trước, ở trong nước mọi thứ hàng hóa đều khan hiếm. Mỗi lần về nước là cán bộ nhân viên Sứ quán ta đều tranh thủ mua các thứ hàng tiêu dùng đem về, kỳ cho hết tiêu chuẩn trọng lượng hàng được phép theo quy định của hàng không mới thôi. Chú Quế đầu bếp của tôi cũng vậy, mua cả táo tàu (thứ táo nhỏ của Tàu sấy khô, quả nhăn nheo màu đỏ nâu hoặc đen) đem về ngâm vào phích nước nóng để uống. Một hôm chú khoe với tôi: “Cái ruột phích của em ngâm táo tự nhiên lại sáng choang như mới”. Nghe vậy, tôi bèn nghĩ: có lẽ trong táo tàu có chất a-xít gì đánh tan được cặn can-xi bám trong ruột phích nước. Rồi một lần về nước tôi cũng mua theo mấy cân táo tàu, về qua Thái Lan, ngủ ở nhà khách Sứ quán ta ở Băng-cốc cùng với một đồng chí cán bộ của ta cũng đi qua, tôi đem táo tàu mời đồng chí đó ăn. Đồng chí nói: “Trước đây tôi bị sỏi thận, có người bạn cũng cho tôi một cân táo tàu. Sau khi ăn ít hôm thì thấy đau bụng dưới nhiều, hai ba hôm mới khỏi”. Tôi hỏi: “Từ đó đến nay anh còn thấy đau nữa không?”. Đồng chí nói không. Thế là liên hệ việc này với việc cái ruột phích của chú Quế, tôi phát hiện ra rằng trong táo tàu có chất làm tan sỏi can-xi, khi ăn táo tàu nó bào mòn viên sỏi làm sỏi nhỏ đi đến mức có thể bài tiết ra ngoài qua đường niệu, trên đường đi ra, nó chà xát vào niệu quản làm đau. Đến lúc đồng chí Bảng được điều sang làm phiên dịch cho tôi thay một đồng chí khác đã hết nhiệm kỳ. Gặp tôi, Bảng nói: “Em bị sỏi thận đang điều trị thì Bộ bắt sang đây”. Tôi bảo Bảng ra ngoài hiệu thuốc mua lấy một cân rưỡi táo tàu, hai buổi, buổi sáng chiều trước bữa cơm đều ăn lấy một vốc. Mấy hôm sau Bảng nói với tôi: “Em có cảm tưởng sỏi nó đi đến gần xương cụt rồi”. Vài hôm sau nữa thì sỏi ra ngoài. Từ đó trở đi Bảng không bị đau thận nữa. Thế là chắc chắn “phát hiện” được thứ thuốc vừa ngon vừa lành là táo tàu nên dùng đủ liều lượng thì có thể làm tan sỏi can-xi trong thận!
Tôi nghĩ, 13 năm ở Bắc Kinh, vừa phải đấu tranh căng thẳng với Bộ Ngoại giao Trung quốc, vừa phải chống đỡ bệnh tật, nếu mình không đọc sách và biết về thuốc, cứ phó thác thân mình cho các giáo sư bác sĩ ở bệnh viện Bắc kinh thì có lẽ đã chết từ lâu rồi. Tự mình cứu mình nên đã sống thêm được vài chục năm nữa. Vào năm 1985, sau khi quan hệ Trung Quốc – Việt Nam đã bình thường hoá trở lại, Hiệp hội Ngoại giao Trung Quốc đã mời tôi với đồng chí Ngô Minh Loan, đồng chí Nguyễn Minh Phương là ba Đại sứ cũ ở Trung Quốc sang thăm nước họ. Tôi lại làm Trưởng đoàn, Đại sứ Lý Thế Thuần lại hỏi tôi muốn đi thăm nơi nào? Tôi nói tôi đi thăm đã gần hết các tỉnh của Trung Quốc, chỉ còn Hàng Châu và Thâm Quyến là chưa được đi. Hiệp hội Ngoại giao đã đáp ứng một cách nhiệt tình mấy nguyện vọng của tôi, mời cả đồng chí Hứa Pháp Thiện (tên Việt Nam là Thanh) vốn là cố vấn của Cục Tổ chức chúng tôi trong kháng chiến chống Pháp đến dự buổi chiêu đãi của họ (trong bữa tiệc có cả Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đến dự). Cuộc gặp rất vui vẻ. Phó Thủ tướng Trung Quốc cũng có buổi tiếp chúng tôi. Sau đó Hiệp hội cử một nữ Trưởng phòng là Trịnh Nại Linh tháp tùng chúng tôi đi thăm quan các nơi như Hàng Châu, Thâm Quyến. Đi đến đâu họ cũng bố trí cho chúng tôi ở khách sạn 5 sao, riêng tôi được bố trí ở phòng VIP bằng tiêu chuẩn Phó thủ tướng có phòng ngủ, phòng khách riêng. Ở địa phương nào cũng có Phó tỉnh trưởng đến tiếp đón. Tôi thấy chỉ mới cách 8 năm thôi mà Trung Quốc thay đổi ghê gớm. Thâm Quyến xưa chỉ là bãi đất hoang mà nay trở thành một thành phố hiện đại hoàn chỉnh. Trong thành phố có một công viên rất rộng lớn gọi là tiểu Trung Hoa, họ xây dựng tất cả các danh lam thắng cảnh (thu nhỏ) tiêu biểu của các tỉnh Trung Quốc (ví dụ trong đó có Cố Cung, Trường Thành, Tây Hồ, Thái Hồ…). Còn Quảng Châu, Bắc Kinh tựa hồ như đã lột xác, trở thành những thành phố tráng lệ sầm uất gấp hàng chục lần so với lúc tôi làm Đại sứ.
Khi tôi đã thôi nhiệm vụ Đại sứ về nước, thì ở Việt Nam, Trung Quốc đã lần lượt thay mấy đời Đại sứ: Lý Thế Thuần, Trương Đức Duy, Lý Gia Trung, Tề Kiến Quốc đến Hồ Càn Văn. Họ đều biết tôi từ khi họ còn là các cán bộ phiên dịch của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dịch cho quan chức ngoại giao Trung Quốc “đấu đá” với tôi. Vì biết tôi là Đại sứ kỳ cựu nên mỗi khi có dịp chiêu đãi nhân Quốc khánh Trung Quốc hay nhân dịp kỷ niệm thành lập quan hệ ngoại giao hai nước, họ đều nhớ mời tôi.
Năm 1987, tôi được chính thức cho phép rời Sứ quán ở Bắc kinh sau khi đã hoàn thành tốt nhiệm kỳ Đại sứ dài dặc nhất trong lịch sử các Đại sứ Việt Nam ở nước ngoài: mười ba năm. Nghỉ ngơi trong một thời gian thì Bộ Ngoại giao yêu cầu tôi viết Hồi ký 13 năm làm Đại sứ ở Trung Quốc. Tôi đã viết xong và nộp cho Bộ Ngoại giao. Đến năm 1990 thì thực sự nghỉ hưu.
Khi về nước được hai năm, tôi gặp một đồng chí quan lúc đó là cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương. Đồng chí hỏi: “Anh được tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 1987, anh đã nhận được chưa?”. Tôi bảo tôi không biết gì! Ban Tổ chức Trung ương bèn hỏi bên Bộ Ngoại giao. Thì ra Vụ Tổ chức Bộ Ngoại giao đã nhận, đem cất đi rồi quên mất (!) Vì vậy cho nên mãi đến năm 1990 trước khi tôi nghỉ hưu, Bộ Ngoại giao mới mời tôi lên. Đồng chí Bộ trưởng trao huân chương cho tôi và tặng một số tiền kèm theo là 100.000 đồng trong cuộc họp mặt có đông đủ cán bộ từ Vụ trưởng, Vụ phó trong Bộ. Lúc đó tôi mới tức cảnh làm bốn câu thơ:
“Vừa rồi được tấm Huân chương
Xa xôi nó phải đi đường hai năm
Bộ Ngoại giao tặng thêm một trăm
Đủ tiền làm một bữa nem ăn mừng!”.
Như vậy, năm 1990 đã kết thúc một quãng đời quan trọng của tôi mà tôi gọi là “thanh niên ba sẵn sàng”. Tôi luôn sẵn sàng chấp hành mọi sự điều động của Đảng, Nhà nước, không tính toán thiệt hơn, không hề có đề nghị, yêu cầu gì, nhận được mệnh lệnh là lên đường đi làm nhiệm vụ thậm chí không đợi cả làm đủ giấy tờ thủ tục, chẳng ngại sự thiệt thòi về lương bổng, về chế độ đãi ngộ, về nhà cửa. Với việc nào, tôi cũng chỉ đinh ninh một điều là làm sao cho tốt nhất so với năng lực của mình. Trong thời gian từ khi kết thúc kháng chiến chống Pháp đến năm 1990, tôi được phân công làm nhiều công tác như đã thuật ở trên, nhưng có thể nói có hai việc lớn và làm thời gian dài nhất là làm Cố vấn cho Bạn Lào và làm Đại sứ ở Trung Quốc (tổng cộng hơn 20 năm) và cũng là hai việc tôi có nhiều kỷ niệm đáng nhớ hơn cả và về cơ bản có thể nói là “đã đạt yêu cầu”. Vì vậy, tôi có thể mượn lời của con gái Nguyên Bình trong câu đối nôm na nó viết tặng tôi nhân buổi mừng sinh nhật 80 tuổi để làm câu kết cho câu chuyện đi sứ nước người của tôi:
Làm Cố vấn miền Tây, ghi lời Bác, không làm “lão Toàn quyền”*, luôn nhớ chữ “chủ quyền của bạn”.
Đi Đại sứ nước Tàu, theo ý Đảng, chẳng ngại “người Đại quốc”, giữ trọn điều “Quốc thể về ta”.
………………..
*Trước khi đi Lào nhận nhiệm vụ mới (làm Trưởng đoàn cố vấn giúp Lào – cuối 1964), Hồ Chủ tịch cho gọi ông Nguyễn Trọng Vĩnh tới ăn cơm và dặn dò một số điều. Người nói vui với Nguyễn Trọng Vĩnh: “Chú sang bên ấy, chú có ý kiến gì thì chú góp với Bạn để Bạn làm, chú không được làm thay và chú không được làm “Lão toàn quyền” đấy nhé!” – Chú thích của Bà Nguyễn Nguyên Bình, con gái Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh.

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2012

VIỆC NÀY DẪN DẮT VIỆC KIA: VÒNG XOÁY TRÔN ỐC VẤN ĐỀ VÀ CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM


David R. Dreyer
Lenoir-Rhyne University
 Ngô Bắc dịch
***
Lời Người Dịch:
       Dưới đây là bản dịch một trong các bài viết mới nhất, tóm tắt các sự khám phá trong cuộc nghiên cứu về các yếu tố tương quan với nhau của chiến tranh, áp dụng các phương pháp nghiên cứu định lượng chuyên sâu trong khoa chính trị học, và dùng cuộc chiến tranh Trung Hoa – Việt Nam năm 1979 làm trường hợp nghiên cứu điển hình.
       Quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thực tế hiện có các sự căng thẳng có thể nói là nhiều hơn cả tình trạng của năm 1979, bất kể các lời tuyên truyền về khẩu hiệu bang giao 16 chữ vàng do Trung Hoa đề ra.  Việt Nam đang ở ngã ba đường và ở thời điểm sẽ phải lấy một quyết định chiến lược quan trọng, có tinh chất hệ trọng đến tương lai dân tộc. Bài viết vì thế, nếu được đọc kỹ, hy vọng sẽ giúp người đọc rút ra ít nhiều dữ liệu hữu ích để suy ngẫm.
_____
Khác hơn sự tranh giành trên một vấn đề này hay vấn đề kia (chẳng hạn như về lãnh thổ hay tư thế) dẫn đến chiến tranh, trong tập nghiên cứu này điều được lập luận rằng chiến tranh nhiều phần thường là kết quả của một vòng xoắn ốc các sự việc – một tiến trình năng động trong đó sự căng thẳng gia tăng khi nhiều vấn đề tích dồn lại.  Một khi sự bất đồng vấn đề tiên khởi được tạo lập, sự phát triển các hình ảnh kẻ thù có thể khiến các quốc gia nhìn thái độ và các ý định “của nước kia” liên quan đến các vấn đề bổ túc như sự đe dọa.  Các quốc gia sau đó có thể tìm cách dành đoạt một lợi thế trên một vấn đề mới nhằm ngăn chặn kẻ cạnh tranh của một quốc gia không làm như thế, hay để dành được đòn bẩy trên các vấn đề khác.  Các hành động xâm lấn của một quốc gia liên quan đến các vấn đề mới có khuynh hướng tăng cường các sự nhận thức của phe đối đầu với nó rằng quốc gia đã có các ý định xâm lấn liên quan đến các sự bất đồng đã được tạo lập trước đó, càng làm gia tăng sự căng thẳng thêm.  Hơn nữa, sự tích lũy vấn đề làm gia tăng các vốn liếng của sự cạnh tranh, điều sẽ tăng cường khả tính rằng các nước sẽ sẵn lòng gánh chịu các phí tổn của chiến tranh nhằm tìm kiếm sự giải quyết vấn đề thuận lợi.  Khi các sự căng thẳng dâng cao và tính hợp lý của việc tham gia vào cuộc tranh chấp quân sự hóa trên quy mô lớn gia tăng, một quốc gia có thể khởi phát chiến tranh nếu một đối thủ đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên một vấn đề lo sợ rằng sự thiếu sót việc bày tỏ quyết tâm sẽ dẫn dắt kẻ cạnh tranh của mình cũng sẽ đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên các vấn đề khác.  Một sự khảo sát các quan hệ giữa Trung Hoa và Việt Nam trong thập niên 1970 phát hiện rằng một vòng xoáy trôn ốc các sự việc, trong đó việc này dẫn đến việc kia và sự chồng chất các vấn đề góp phần vào việc làm tồi tệ các quan hệ, đã xô đẩy Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam 1979.

_____

       Trung Hoa và Việt Nam tham dự vào một cuộc chiến tranh ngắn nhưng hao phí từ ngày 17 Tháng Hai cho đến 16 Tháng Ba, 1979. 1  Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam đã là cuộc tranh chấp quân sự quan trọng đầu tiên giữa Trung Hoa và Việt Nam tiếp theo sau sự thiết lập của cả hai nước cộng sản này.  80,000 binh sĩ Trung Hoa và 75,000 – 100,000 binh sĩ Việt Nam đã tham dự vào cuộc tranh chấp.  Ngay dù các hoạt động được giới hạn, các tổn thất đưa ra số ước lượng là 25,000 người Trung Hoa và 20,000 người Việt Nam (Womack 2006: 200).
       Điều đặc biệt gây ngạc nhiên là vì Trung Hoa và Việt Nam trước đây có vẻ là các đồng minh chặt chẽ.  Trong suốt cuộc chiến tranh của Việt Nam chống lại Hoa Kỳ, Trung Hoa và Virệt Nam cam kết cho một mối quan hệ “hợp tác mật thiết” đặt trên sự trợ giúp của Trung Hoa, và các nhà lãnh đạo Trung Hoa đã gửi đến Việt Nam “các lời chào mừng nồng nhiệt” trước sự giải phóng Sàigòn (Burton 1978-79: 704).  Trung Hoa và Việt Nam, được nói, “mật thiết với nhau như môi với răng” (Womack 2006: 162-163) .  Lý do tại sao, bất kể cả hai quốc gia đều theo định hướng cộng sản và bất kể xem ra đã có các quan hệ chặt chẽ đến thế trong nhiều thập niên, Trung Hoa và Việt Nam đã cầm vũ khí đánh lại nhau hồi Tháng Hai năm 1979? 
       Các cuộc khảo cứu trước đây nêu ý kiến rằng một số vấn đề nào đó có thể mang tính chất tranh chấp nhiều hơn các vấn đề khác (Hensel 1996; Senese 1996; Ben-Yehuda 2004).  Đặc biệt, sự hiểu biết thông thường rằng các tranh chấp về lãnh thổ nhiều phần dễ leo thang thành chiến tranh hơn các loại tranh cãi khác (Vasquez và Henehan 2001); Senese và Vasquez 2008; Vasquez và Valeriano 2008).  Sự khảo cứu như thế dựa trên các dữ liệu được đánh theo ám số bởi dự án Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh (Correlates of War project) xác định các sự tranh cãi liên quốc gia bị quân sự hóa như được thúc đẩy bởi vấn đề lãnh thổ, chính sách, chế độ, hay một số loại vấn đề “ khác “ của chủ nghĩa xét lại (revisionism) (Jones, Bremer, và Singer 1996).  Bởi vì chỉ có một vấn đề được xác định là dính líu một cách nghiêm trọng cho mỗi cuộc xung đột bị quân sự hóa, giả định mặc nhiên rằng có một vấn đề có tầm quan trọng chính yếu cho mỗi cuộc tranh chấp hay chiến tranh. 2  Tương tự, liên quan đến Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam, một số học giả đã cố gắng xác định vấn đề trung tâm đã dẫn dắt Trung Hoa và Việt Nam tham gia vào cuộc xung đột trực tiếp.  James Mulvenon (1995), thí dụ, lập luận rằng mặc dù đã có một số điểm bất đồng giữa Trung Hoa và Việt Nam, chính sự xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt dịp Giáng Sinh năm 1978 đã là nguyên do chính yếu của Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam.
Khác hơn sự tranh giành trên một vấn đề này hay vấn đề kia (chẳng hạn như về lãnh thổ hay tư thế) dẫn đến chiến tranh, trong tập nghiên cứu này điều được lập luận rằng chiến tranh nhiều phần thường là kết quả của một vòng xoắn ốc các sự việc – một tiến trình năng động trong đó sự căng thẳng gia tăng khi nhiều vấn đề tích dồn lại.  Một khi sự bất đồng vấn đề tiên khởi được tạo lập, sự phát triển các hình ảnh kẻ thù có thể khiến các quốc gia nhìn thái độ và các ý định “của nước kia” liên quan đến các vấn đề bổ túc như sự đe dọa.  Các quốc gia sau đó có thể tìm cách dành đoạt một lợi thế trên một vấn đề mới nhằm ngăn chặn kẻ cạnh tranh của một quốc gia không làm như thế, hay để dành được đòn bẩy trên các vấn đề khác.  Các hành động xâm lấn của một quốc gia liên quan đến các vấn đề mới có khuynh hướng tăng cường các sự nhận thức của phe đối đầu với nó rằng quốc gia đã có các ý định xâm lấn liên quan đến các sự bất đồng đã được tạo lập trước đó, càng làm gia tăng sự căng thẳng thêm.  Hơn nữa, sự tích lũy vấn đề làm gia tăng các vốn liếng của sự cạnh tranh, điều sẽ tăng cường cho khả tính rằng các nước sẽ sẵn lòng gánh chịu các phí tổn của chiến tranh nhằm tìm kiếm sự giải quyết vấn đề thuận lợi.  Khi các sự căng thẳng dâng cao và tính hợp lý của việc tham gia vào cuộc tranh chấp quân sự hóa trên quy mô lớn gia tăng, một quốc gia có thể khởi phát chiến tranh nếu một đối thủ đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên một vấn đề lo sợ rằng sự thiếu sót việc bày tỏ quyết tâm sẽ dẫn dắt kẻ cạnh tranh của mình cũng sẽ đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên các vấn đề khác.
Phần kế tiếp duyệt xét tài liệu liên hệ và giới thiệu khái niệm về một vòng xoắn trôn ốc các sự việc.  Một sự phân loại vấn đề (issue typology) sau đó được sử dụng để xác định các vấn đề tranh cãi liên quan đến các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thập niên 1970.  Liệu sự bất đồng trên một vấn đề có khuynh hướng trợ lực cho sự phát triển một vấn đề khác hay không và liệu sự tích lũy vấn đề có khuynh hướng dẫn đến tình trạng suy đồi trong các quan hệ hay không sẽ đuợc lượng định.  Sự ủng hộ cho các sự kỳ vọng liên quan đến tính trung tâm của các vòng xoắn ốc sự việc đối với sự khai diễn chiến tranh sẽ khuyến cáo rằng đúng ra nên thận trọng khi di chuyển quá việc so sánh các sự khác biệt cắt ngang các vấn đề liên quan đến các biến số chẳng hạn như mức độ thù nghịch đê khảo sát động lực của sự tích lũy các vấn đề.
CÁC VÒNG XOẮN ỐC SỰ VIỆC
       Các khảo hướng hiện thực có khuynh hướng giả định rằng bất kể một quốc gia định nghĩa các mục đích trong chính sách ngoại giao của nó ra sao, các quốc gia phải theo đuổi quyền lực hầu đạt được các mục tiêu dân tộc. Hậu quả, sự biến thiên trong các vấn đề thuộc chính sách ngoai giao tương đối không quan trọng và chính trị quốc tế có thể được tiêu biểu như một cuộc đấu tranh quyền lực không dứt (Morgenthau 1948).  Phái cấp tiến cũng có khuynh hướng không đặt tiêu điểm vào sự biến thiên sự việc trong khi tìm cách giải thích các hậu quả, mà đúng hơn đã khảo sát theo truyền thống các biến số chẳng hạn như loại chế độ, trình độ liên lập về kinh tế (economic interdependence), và tầm mức của sự can dự vào các tổ chức liên chính phủ (Russett và O’Neal 2001). 
       Tuy nhiên, sự nghiên cứu vấn đề cho thấy rằng các quan hệ liên quốc gia có khuynh hướng biến đổi liên quan đến loại vấn đề bị tranh cãi bởi các vấn đề khác nhau có các đặc tính khác nhau (Mansbach và Vasquez 1981; Hensel 2001).  Một số vấn đề nào đó có khuynh hướng leo thang hơn các vấn đề khác.  Các cuộc chạy đua vũ trang nhiều phần xảy ra hơn trong khung cảnh tranh giành lãnh thổ hơn là cạnh tranh trên các vấn đề khác (Rider 2009).  Hơn nữa, các cuộc tranh cãi lãnh thổ tạo ra một số tử vong cao hơn (Senese 1996) và nhiều phần dễ leo thang thành chiến tranh hơn các tranh cãi về chính sách hay chế độ (Vasquez và Henehan 2001; Senese và Vasquez 2008).
       Mặc dù sự nghiên cứu đã khảo sát là liệu một số loại tranh cãi nào đó có khuynh hướng dễ bay hơi hơn các vấn đề khác, các quốc gia đôi khi có thể tranh chấp trên nhiều vấn đề cùng một lúc.  Một khi một sự bất đồng trên  vấn đề đầu tiên đã được tạo lập, các quốc gia có thể phát triển các hình ảnh kẻ thù về một nước khác.  Một hình ảnh kẻ thù là một niềm tin rằng một số “kẻ khác” đang sẵn sàng đe dọa (Holsti 1962, 1967; Silverstein và Holt 1989).  Các tin tức thích hợp với các hình ảnh như thế có khuynh hướng được chấp nhận trong khi các tin tức sai biệt có khuynh hướng bị xem nhẹ, làm ngơ, hay bị đồng hóa sao cho nó thích hợp với hình ảnh (Finlay, Holsti, và Fagen 1967; Jervis 1976; Jervis, Lebow, và Srein 1985).  Do sự hình thành các hình ảnh kẻ thù như là một hậu quả của sự tranh chấp trên vấn đề tiên klhởi, một quốc gia có thể bắt đầu giả định rằng “nước khác” có các ý định thù nghịch trên các vấn đề bổ túc.  Các quốc gia mà một cách khác có thể có quyền lợi trong nguyên trạng có thể tham gia vào thái độ xét lại liên quan đến các vấn đề mới đối diện các quốc gia đối chọi nhau lo sợ rằng nếu họ không làm như thế, đối thủ của họ sẽ làm. 3
       Hơn thế, một quốc gia có thể tìm cách để dành đoạt một lợi thế trên một vấn đề mới nhằm dành được đòn bẩy trên các vấn đề khác.  Thí dụ, hai quốc gia có thể trở thành các kẻ cạnh tranh bởi sự tranh chấp trên vấn đề tư thế -- sự tranh biện liên can đến ảnh hưởng trên các hoạt động và uy tín trong khuôn khổ một hệ thống hay tiểu hệ thống bên dưới (Thompson 1995, 2001; Colaresi, Rasler, và Thompson 2008).  Do sự cạnh tranh như thế, một quốc gia có thể chiếm giữ một khu vực lãnh thổ, lo sợ rằng nước đua tranh với mình có thể làm như thế và nhằm để nâng cao khả năng phóng chiếu quyền lực khắp vùng và nâng cao ảnh hưởng về tư thế của mình. Hành vi như thế có thể dẫn đến sự tranh giành về lãnh thổ ngoài cuộc tranh cãi về tư thế. 4
       Sự khởi phát cuộc tranh chấp trên vấn đề và sự phát triển các hình ảnh kẻ thù cũng có thể đưa đến một sự tái lượng giá hiện trạng liên quan đến các vấn đề khác.  Các thực tế không có tính đe dọa trước đây giờ này có thể xem ra đe dọa, dẫn đến sự tạo lập các bất đồng trên các vấn đề bổ túc.  Thí dụ, các nhà lãnh đạo một quốc gia có thể không nhìn sự hiện diện dòng dõi chủng tộc của một quốc gia khác nằm trong ranh giới của chính mình có vấn đề chừng nào các quốc gia không phải là các kẻ đối địch.  Nếu các quốc gia trở thành đối nghịch, các nhà lãnh đạo có thể bắt đầu tin rằng một sự hiện diện đông đảo dòng giống của đối thủ nằm trong ranh giới quốc gia của họ làm phương hại đến an ninh của họ.  Hậu quả một quốc gia có thể áp dụng các biện pháp khắc nghiệt để chống lại hay tìm cách trục xuất các cá nhân thuộc chủng tộc của đối thủ, có tiềm năng dẫn đến sự phát triển một cuộc tranh chấp vấn đề mới trong đó một quốc gia phản kháng sự ngược đãi dòng giống thuộc chủng tộc của mình cư ngụ tại một nước khác.5
       Tác phong xét lại liên quan đến các vấn đề mới nhiều phần bị nhìn bởi các quốc gia đói địch như tính chất xâm lược không xác đáng.  Các nhà lãnh đạo một quốc gia có thể không nhận thức rằng một số trong các hành động của chính họ bị nhìn bởi các kẻ khác là có tính chất đe dọa.  Hậu quả, các hành động xâm lấn của quốc gia khác trên các vấn đề mới nhiều phần được nhìn như là không có tính chất khiêu khích và có thể tiếp nhận như một dấu hiệu của ác ý phi lý của một đối thủ, theo đó củng cố và tăng cường các hình ảnh về sự thù nghịch (Jervis 1976).
       Sự xuất hiện các vấn đề mới có thể làm căng thẳng các quan hệ liên quan đên các sự bất đồng trên vấn đề đã được tạo lập trước đây khi các quốc gia nhìn các hành động xâm lấn “của nước kia” liên quan đến các vấn đề mới là không khiêu khích và như một dấu hiệu chỉ dẫn rằng ke/ cạnh tranh của một nước có các ý định xâm lấn liên quan đến các sự bất đồng đã được tạo lập trước đây.  Thí dụ, một quốc gia chiếm giữ lãnh thổ tìm cách dành đoạt một lợi thế trên một nước tranh đua về tư thế có thể tăng cường sự nhận thức của nước tranh đua rằng đối thủ của họ đang tìm kiếm một cách hung hăng ưu thế tối thượng trong vùng.  Sự chiếm giữ đất đai do đó có thể không chỉ phát khởi sự cạnh tranh trên các mối quan tâm về lãnh thổ, mà cũng còn tăng cường sự cạnh tranh về tư thế.
       Sự phát triển các hình ảnh kẻ thù có thể dẫn đến một vòng xoắn ốc sự việc trong đó sự căng thẳng gia tăng khi nhiều vấn đề chồng chất nhau.  Sự thiết lập một cuộc xung đột trên vấn đề và sự phát triển một hình ảnh kẻ thù có thể dẫn đến sự tích lũy vấn đề, điều kế đó làm gia tăng sự bất tin tưởng và nghi ngờ “nước khác”.  Sự căng thẳng gia tăng và các quốc gia có thể bắt đầu nhìn “nước khác” như trở ngại chính trong việc giải quyết mọi bất đồng (Senese và Vasquez 2008: 17).  Các vòng xoắn ốc sự việc làm gia tăng sự nhận thức về nỗi lo sợ và bất tin tưởng, và có thể dẫn đến sự kết luận rằng cách duy nhất để đạt được sự giải quyết vấn đề thuận lợi liên quan đến mọi bất đồng là xuyên qua việc áp đặt ý chí của mình.
       Cùng với các hậu quả tâm lý của các vòng xoắn ốc các sự việc có thể làm gia tăng xác xuất của chiến tranh, các vòng xoắn ốc sự việc cũng làm gia tăng tính hợp lý của một quốc gia lựa chọn giải pháp chiến tranh trong việc tìm cách giải quyết các bất đồng của mình (bằng cách để cho đối thủ của mình không muốn và không có khả năng để tiếp tục cạnh tranh trên các vấn đề liên quan).  Sự tích lũy sự việc làm gia tăng vốn liếng đặt vào cuộc cạnh tranh.  Thí dụ, địa vị và ảnh hưởng bị đe dọa đối với các quốc gia cạnh tranh trên các mối quan tâm về tư thế.  Nếu một vấn đề lãnh thổ tích lũy lại, các tài nguyên quý báu (thí dụ, nhiên liệu, nước, khoáng sản) giờ đây cũng có thể bị đe dọa.  Với giả định rằng chiến tranh thì tốn kém, các quốc gia có thể sẵn lòng để gánh chịu các tốn phí của chiến tranh khi các lợi lộc tiềm ẩn của sự giải quyết vấn đề thuận lợi thì cao hơn (việc thiết định  địa vị/ảnh hưởng và việc thụ đắc các nguồn tài nguyên, đối với việc thiết định địa vị/ảnh hưởng không thôi). 6
       Khi sự căng thẳng và tính hợp lý của việc tham gia vào cuộc xung đột quân sự hóa trên một quy mô rộng lớn gia tăng, một quốc gia có thể phát động chiến tranh nếu một đói thủ thúc đẩy các đòi hỏi của nó trên một vấn đề lo sợ rằng sự thiếu sót việc bày tỏ quyết tâm sẽ dẫn kẻ cạnh tranh của mình đẩy ra các đòi hỏi của nó trên các vấn đề khác nữa.  Một sự khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ có thể rằng các quốc gia đã ngập ngừng để nhượng bộ trước các đòi hỏi lãnh thổ lo sợ là làm như thế sẽ khuyến khích các nước cạnh tranh khác thúc đẩy các đòi hỏi của riêng họ trên các vấn đề khác (Hensel 2000; Walter 2003).  Tương tự, các quốc gia có thể không sẵn lòng để nhượng bộ đòi hỏi của một đối thủ trên một vấn đề khi các vấn đề gai góc gấp bội còn đang dưới sự tranh cãi, lo sợ rằng làm như thế sẽ dẫn đối thủ của mình thúc đẩy các đòi hỏi của nó trên các bất đồng khác. 7
       Trong dự án này, tôi lập luận rằng một sự bất đồng trên vấn đề có khuynh hướng góp phần vào sự phát triển vấn đề khác và sự tranh giành trên các vấn đề phức tạp làm gia tăng xác xuất rằng các quốc gia sẽ tham gia vào cuộc xung đột được quân sự hóa.  Nhằm khảo sát sự tích lũy các vấn đề, việc cần thiết là dựa trên một sự phân loại vấn đề.  Phần kế tiếp do đó thảo luận về một lược đồ phân loại vân đề được sử dụng để lượng định các vấn đề tranh chấp liên quan đến các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thập niên 1970.
Sự Cạnh Tranh Vấn Đề Đa Kích Thước
       Sự nghiên cứu đã khảo sát rằng liệu một số vấn đề nào đó có tính cách dễ gây tranh giành hơn các vấn đề khác có khuynh hướng dựa trên loại Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh của chủ nghĩa xét lại được liên kết với các dữ liệu tranh cãi liên quốc gia được quân sự hóa trong đó các sự tranh cãi được xếp loại như về lãnh thổ, chính sách, chế độ, hay một số vấn đề “khác” hay không (Jones và các tác giả khac 1996).  Các tranh cãi lãnh thổ liên can đến việc đưa ra các sự xác quyết về lãnh thổ, các tranh cãi chính sách liên can đến việc tuyên bố ý định không tôn trọng chính sách của quốc gia khác, và các tranh cãi chế độ liên can đến việc mưu toan lật đổ chế độ của quốc gia khác.  Mọi cuộc tranh cãi liên quốc gia được quân sự hóa từ 1816 đến 1992 được ghi theo ám hiệu dành riêng cho một vấn đề này hay vấn đề kia, theo dự án Các Yếu Tố Tương Liên của Chiến Tranh. 8  Cuộc Chiến Tranh Ả Rập – Do Thái, Cuộc Chiến Tranh Sáu Ngày, và Cuộc Chiến Tranh Yom Kippur War, thí dụ, mỗi cuộc chiến tranh được ghi ám hiệu như là các cuộc tranh cãi lãnh thổ, trong khi Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam được ghi ám hiệu như là một cuộc tranh chấp chính sách.
       Khảo hướng Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh không cứu xét rằng các cuộc chiến tranh có thể bị đưa đẩy bởi nhiều vấn đề.  Các cuộc chiến tranh mà Do Thái đã tham dự cùng với các lân bang của nó xem ra không chỉ có một chiều kích lãnh thổ (và về nước uống) duy nhất, mà còn có chiều kích chủng tộc / tôn giáo.  Tương tự, một cuộc khảo sát các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam có thể phát lộ rằng có hơn một vấn đề chính sách duy nhất nằm dưới sự tranh cãi vào lúc có chiến tranh năm 1979.
       Không giống như khảo hướng Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh, các dữ liệu được thu thập trên sự xung đột về vấn đề lãnh thổ bởi các tác giả Huth và Allee (2002) và các dữ liệu trong Các Yếu Tố Tương Liên Sự Việc (Issue Correlates of War: ICOW) về các sự xác quyết lãnh thổ, sông ngòi, và đường biển (Hensel, Mitchell, Sowers, và Thyne 2008) cho phép một khả tính rằng các quốc gia có thể có các vấn đề đa tầng phức tạp đang tiếp diễn.  Các dữ liệu như thế cũng bao gồm các số đo của mức độ gai góc của vấn đề làm tốt hơn việc tiên đoán những tranh cãi nhiều phần sẽ leo thang thành chiến tranh.  Trong khi cung cấp phương tiện cho một sự điều tra sâu xa hơn về sự tranh chấp lãnh thổ, cả hai dự án hiện đang giới hạn vào việc khảo sát các vấn đề địa chính tri (geopolitical).
       Nhằm xác định các vấn đề lãnh thổ và phi lãnh thổ liên hệ của sự tranh giành, trong bài nghiên cứu này tôi dựa trên một sự phân loại mở rộng trên công trình đã phân loại các đối thủ như về không gian và/hay tư thế trong bản chất (Thompson 1995, 2001; Colaresi và các tác giả khác 2008).  Các kẻ tranh giành về không gian là những quốc gia có các xác quyết trên lãnh thổ xung đột nhau.  Các kẻ tranh biện tư thế tranh giành trên việc thiết định ảnh hưởng và uy tín trong khuôn khổ một hệ thống và tiểu hệ thống.  Các quốc gia cũng có thể cạnh tranh về ý thức hệ bởi các hệ thống tin điều chính trị khác biệt nhau, hay có thể tham dự vào cuộc xung đột về vấn đề căn cước trong đó sự thù nghịch bắt nguồn từ các sự óan hận về dân tộc, tôn giáo, hay một quốc gia phản đối sự ngược đãi nhìn thấy rõ đối với các cá nhân của một nhóm dân tộc ít người tại một nước khác (Dreyer 2010).
       Cùng với việc tranh giành tiềm ẩn trên các loại vấn đề khác nhau (không gian, tư thế, ý thức hệ, căn cước), các quốc gia có thể tranh giành trên các xác quyết về vấn đề phức tạp trong mỗi loại vấn đề.  Thí dụ, có thể có các xác quyết vấn đề lãnh thổ đa tầng phức tạp giữa các nước tranh giành không gian hay các xác quyết vấn đề đa tầng phức tạp liên hệ đến sự canh tranh tư thế.  Hậu quả, số lượng các khẳng quyết vấn đề mà các quốc gia có thể tranh giành ở bất kỳ thời điểm xác định nào có thể có nhiều.  Sự phân tích các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam sẽ cho phép khả tính không chỉ rằng Trung Hoa và Việt Nam có thể tham dự vào các loại khác nhau của sự cạnh tranh vấn đề cùng một lúc, mà còn rằng các nước tranh đua có thể tham dự vào các sự bất đồng vấn đề đa tầng phức tạp  liên quan đến mỗi loại xung đột trên vấn đề.  Như cuộc thảo luận sẽ phát hiện, các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam có thể được tượng trưng như tập trung vào sự tranh giành không gian, tư thế, và căn cước, và Trung Hoa cùng Việt Nam đã tham dự vào các cuộc tranh chấp vấn đề không gian phức tạp và các tranh chấp tư thế phức tạp, đưa dến nhiều sự xác quyết vấn đề nằm dưới sự tranh giành cùng một lúc.
       Phần kế tiếp sẽ nhắm vào hai câu hỏi liên hệ.  Trước tiên, sự tham dự vào một sự bất đồng trên vấn đề có khuynh hướng trợ lực cho sự phát triển các sự bất đồng trên các vấn đề bổ túc hay không?  Nói cách khác, liệu một việc có khuynh hướng dẫn dắt đến việc khác hay không sẽ được khảo sát.  Thứ nhì, các vấn đê phức tạp trên lịch trình có khuynh hương đưa đến sự leo thang, tụt thang, hay liệu có mối quan hệ nào giữa số lượng các vấn đề nằm dưới sự tranh giành với mức độ thù nghịch hay không?


Cuộc Xâm Lăng Của Trung Cộng vào Việt Nam, năm 1979
Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam
       Các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thập niên 1970 được khảo sát như trường hợp chính yếu cho sự phân tích vì nhiều lý do.  Mặc dù các vấn đề lãnh thổ nằm dưới sự tranh giành giữa Trung Hoa và Việt Nam trong suốt thời kỳ điều nghiên, sự tranh giành trên lãnh thổ không phải là lý do chủ yếu cho Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam.  Tác giả Kenny (2002: 53) đề cập đến các sự tuyên xác lãnh thổ như các vấn đề “có tầm quan trọng thứ yêu”, trong khi sự xác định Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh như một sự tranh luận về chính sách cho thấy rằng lãnh thổ không phải là vấn đề trung tâm của sự bất đồng.  Bằng chứng hậu thuẫn vì thế sẽ nêu ý kiến rằng cuộc chiến tranh xảy ra do động lực xoắn ốc các vân đề hơn là chỉ đơn thuần  là một cuộc chiến tranh do ở tầm gay gắt về lãnh thổ.  Hơn nữa, một trường hợp bổ túc sẽ được trình bày một cách vắn tắt (Thái Lan – Việt Nam) để khảo sát rằng liệu các vòng xoắn ốc sự việc trong đó lãnh thổ không phải là một vấn đề gây tranh giành có khuynh hướng dẫn đến sự leo thang và chiên tranh hay không.
       Trung Hoa – Việt Nam (cùng với Thái Lan – Việt Nam) là một trường hợp của “sự đối đầu chiến lược” (Thompson 2001).  Các đối thủ chiến lược nhìn kẻ kia như các kẻ cạnh tranh và kẻ thù (Colaresi và các tác giả khác 2008: 3-4).  Với sự hiện hữu của các nhận thức về kẻ thù giữa các quốc gia đối địch và sự phân loại vấn đề đối tranh được áp dụng trong dự án này, sự cẩn trọng cần phải được thi hành trong việc tổng quát hóa các sự khám phá bên ngoài các trường hợp của sự đối tranh (rivalry).  Tuy thế, các cuộc khảo cứu gần đây về sự xung đột về vấn đề đa chiều kich nêu ý kiến rằng điều không phải là khác thường cho các đối thủ tranh cãi nhau trên các vấn đề phức tạp.  Tám mươi hai đối thủ chiến lược đã tranh giành nhau trên nhiều hơn một loại vấn đề (các xác quyết về không gian, tư thế, ý thức hệ, và hàng hải) duy nhất (Dryer 2010). 10  Liên quan đến các vân đề địa chính trị (các xác quyết về lãnh thổ, sông ngòi, và hàng hải) tại Tây Bán Cầu và Tây Âu, có 66 trường hợp đối tranh trong đó có các xác quyết trên vấn đề đang tiếp diễn đa tầng phức tạp (Mitchell và Thies 2010).  Bằng chứng như thế nêu ý kiến rằng sự tích lũy vấn đề tương đối thông thường giữa các đối thủ quốc tế.  Chính vì thế, các sự khám phá từ trường hợp nghiên cứu điển hình có thể được tổng quát hóa đến một số lượng lớn các trường hợp khác về sự đối tranh.
       Trường hợp Trung Hoa – Việt Nam (cũng như trường hợp Thái Lan – Việt Nam) cùng cung cấp sự biến thiên liên quan đến các biến số về quyền lợi.  Như cuộc thảo luận theo sau sẽ phát hiện, các quan hệ Trung Hoa – Vệt Nam đã biến đổi về số các vấn đề nằm dưới sự tranh cãi.  Liệu một sự bất đồng vấn đề đã trợ lực vào sự phát triển các bất đồng bổ túc hay không hay liệu các vấn đề mới xuất hiện độc lập với các bất đồng trước đây, bởi thế, có thể được lượng định hay không.  Trong sự liên quan đến mức độ thù nghịch, Trung Hoa và Việt Nam ở trong tình trạng hòa bình với nhau hồi đầu thập niên 1970, trải qua các cuộc đụng độ dọc biên giới hồi giữa thập niên 1970 (không leo thang thành chiến tranh toàn diên), và tham dự vào chiến tranh hồi cuối thập niên 1970, kết quả, Trung Hoa và Việt Nam đã trải qua các thời đại của các mức độ thù nghịch thấp, trung bình và cao, giúp cho việc thực hiện được một cuộc điều tra rằng liệu các mức độ thù nghịch có biến đổi liên quan đến số lượng các vấn đề nằm dưới sự tranh cãi hay không.
       Một lý do cuối cùng để khảo sát trường hợp Trung Hoa – Việt Nam vì rằng câu hỏi tại sao Trung Hoa và Việt Nam đã tham dự vào chiến tranh chỉ 4 năm sau sự kết thúc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhì tiếp theo sau các năm hợp tác vững chắc trước đó cấu thành một câu đó thực nghiệm.  Như đã ghi nhận nơi phần dẫn nhập, Trung Hoa và Việt Nam có vẻ như là các đồng minh chặt chẽ trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam.  Tìm cách để chứng thực cuộc cách mạng cộng sản của chính mình, Đảng Cộng Sản Trung Hoa đã tự cam kết với việc ủng hộ các phong trào cách mạng ngoài nước.  Sự ủng hộ của Trung Hoa và Liên Bang Sô Viết đã trợ lực cho Bắc Việt trong sự truy tìm của Bắc Việt sự thống nhất quốc gia và sự triệt thoái của Hoa Kỳ.  Các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam từ 1950 đến 1975 đã được mô tả như một “tình đồng chí mật thiết” (Womack 2006: 164-174).  Bất kể các mức độ hợp tác chặt chẽ trước đây, Trung Hoa và Việt Nam đã tham dự vào cuộc chiến tranh năm 1979.  Đâu là nguyên do khiến cho các quan hệ biến đổi một cách quyết liệt từ các đồng minh sát cánh thành các đối thủ trong chiến tranh?
Việc Này Dẫn Dắt Đến Việc Kia
       Như cuộc thảo luận theo sau sẽ phát hiện, Trung Hoa và Việt Nam tranh cãi trên nhiều vấn đề trong suốt thập niên 1970.  Các tranh chấp về tư thế bao gồm cả lời nguyền trung thành của Việt Nam được chuyển sang kẻ cạnh tranh chính yếu trong vùng của Trung Hoa – Liên Bang Sô Viết, và sự tranh giành liên quan đến việc thiết lập ảnh hưởng trên Căm Bốt.  Sự tranh giành không gian bao gồm các xác quyết đối chọi trên các khu vực biên giới, Vịnh Bắc Bộ, Quần Đảo Hoàng Sa, và Quần Đảo Trường Sa.  Trung Hoa và Việt Nam cũng tranh cãi trên một vấn đề căn cước trong đó Trung Hoa đã phản đối sự ngược đãi các cư dân gốc Trung Hoa tại Việt Nam.
       Mặc dù Trung Hoa và Việt Nam có thể có vẻ đã là các đồng minh sát cánh trong suốt Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì, các sự rạn nứt trong liên minh Trung Hoa – Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện trước khi có sự kết thúc chiến tranh.  Các quan hệ tiên khởi bị nhuốm bẩn bởi sự tranh giành tư thế trong đó người Việt Nam tin rằng Trung Hoa đã muốn duy trì sự phân chia Việt Nam hầu thống trị Đông Nam Á, và người Trung Hoa lo sợ một Đông Dương bị khống chế bởi một liên minh Sô Viết – Việt Nam.  Việt Nam bị tổn thương sâu xa bởi cuộc thăm viếng của [Tổng Thống  Mỹ] Richard Nixon tại Trung Hoa năm 1972.  Sự chuyển động tiến tới sự bình thường hóa các quan hệ giữa Trung Hoa và kẻ thù chính của Việt Nam, Hoa Kỳ, đã “làm mất tinh thần một cách nặng nề” đối với Hà Nội (Kissinger 1979: 711), và đã gây ra “tổn hại không thể sửa chữa” được cho các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam (Lo 1989: 69).  Người Việt Nam đã nhìn cuộc thăm viếng này như lần thứ nhì mà Trung Hoa đã “bán đứng” sự theo đuổi cuộc thống nhất và giải phóng hoàn toàn của Việt Nam (lần thứ nhất là Hội Nghị Geneva về Đông Dương trong năm 1954) (Lo 1989: 69).
       Liên Bang Sô Viết tìm cách lợi dụng sự nguội lạnh trong các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam bằng cách mở rộng ảnh hưởng trên Hà Nội, làm phương hại đến Trung Hoa (Ray 1983: 50-54).  Các nhà lãnh đạo Sô Viết quả quyết rằng cuộc thăm viếng của Nixon tại Trung Hoa đã được thiết kế để phá hủy và phân hóa phe xã hội chủ nghĩa và rằng Trung Hoa đã tìm cách đạt đến một sự thỏa thuận với Hoa Kỳ đằng sau lưng người Việt Nam.  Sô Viết hứa hẹn sự “ủng hộ anh em” tiếp tục cho Hà Nội và Trung Hoa bắt đầu lo sợ về sự bao vây như một kết quả của sự hợp tác gia tăng giữa Sô Viết và Việt Nam (Gilks 1992:229).  Một hình ảnh kẻ thù Việt Nam đã bắt đầu được phát triển khi các nhà lãnh đạo Trung Hoa bày tỏ sự quan ngại cả về “chủ nghĩa bá quyền toàn cầu” của Sô Viết lẫn “chủ nghĩa bá quyền khu vực” của Việt Nam và bắt đầu nhìn Việt Nam như một lớp tuồng tạo lập “Cuba ở Châu Á” trong kế hoạch của Sô Viết nhằm thiết lập sự khống chế trên Đông Nam Á (Burton 1978-79:699-722; Ray 1983:84).
       Tương tự, tại Việt Nam, một hình ảnh kẻ thù Trung Hoa đã khởi sự được củng cố.  Việt Nam đã cảnh cáo Trung Hoa, “Việt Nam là đất nước của chúng tôi; Trung Hoa không thể thảo luận vấn đề Việt Nam với người Mỹ.  Trung Hoa đã sẵn phạm phải một lỗi lầm năm 1954.  Đừng để phạm phải một lỗi lầm khác nữa” (được trích dẫn trong sách của Gilks 1992:84).  Sự bất chấp của Trung Hoa trước các ý nguyện của Việt Nam đã xác nhận các sự nghi ngờ của Việt Nam rằng Trung Hoa không thể nào tin cậy được.  Chính phủ Việt Nam, “nhận thức cuộc thăm viếng của Nixon như một hình vi phản bội không lường được và là bằng cớ chung cuộc về nghị trình quỷ quyệt hơn nhiều của  phía Mao Trạch Đông và giới lãnh đạo Trung Hoa.” (Mulvenon 1995).  Các bức ảnh chụp của Mao sau đó đã được gỡ bỏ khỏi các của hiệu tại Hà Nội và người gốc Hoa tại Việt Nam bị trông chừng với sự nghi ngờ gia tăng (Lo 1989:69).
       Sự khởi phát cuộc tranh chấp vấn đề tư thế và sự đâm chồi các hình ảnh kẻ thù đã dẫn tới một sự tái lượng giá nguyên trạng liên quan đến sự dàn xếp lãnh thổ dọc theo biên giới và sự khởi phát các xác quyết về không gian.  Về mặt lịch sử, biên giới của Trung Hoa với Việt Nam thì vô định hình và các nhóm dân tộc ở cả hai bên đều thụ hưởng các quan hệ chặt chẽ (Kenny 2002:52).  Sau khúc ngoặt trong các quan hệ tiếp theo sau cuộc thăm viếng của Nixon tại Trung Hoa, các quan ngại mới nhận thấy liên quan đến an ninh lãnh thổ (Lo 1989:70) dẫn dắt các nhà lãnh đạo Trung Hoa đến việc tin tưởng rằng họ đã phải “ổn định hóa biên giới để làm cho Trung Hoa được an toàn hầu phát triển” (được trích dẫn trong sách của Kenny 2002:52).  Hà Nội đã tố cáo Trung Hoa về sự xâm phạm lãnh thổ và Trung Hoa đã tố cáo Việt Nam về việc tạo ra sự căng thẳng dọc theo biên giới (Lo 1989:70).  Các sự đụng độ được báo cáo đã xảy ra ngay từ 1973, năm theo sau cuộc thăm viếng của Nixon tại Trung Hoa (Turley và Race: 1980:70-72; Lo 1989:70-72; Nguyễn 2006:26).  Chỉ mãi cho tới sau khi Trung Hoa và Việt Nam khởi sự nhìn nước kia như kẻ thù, do sự tạo lập sự cạnh tranh tư thế, lúc đó bản chất khó xác định của biên giới mới bị nhìn như một mối đe dọa cho an ninh của mỗi quốc gia.
       Cùng với sự cạnh tranh liên quan đến sự phác họa lãnh thổ dọc theo biên giới, Trung Hoa và Việt Nam cũng trở nên can dự vào sự cạnh tranh không gian liên quan đến Vịnh Bắc Bộ.  Trong Tháng Mười Hai năm 1973, Hà Nội loan báo, với sự khó chịu của Trung Hoa, ý định của Bắc Việt để khởi sự thăm dò dầu hỏa tại Vịnh (Chang 1986:24; Duiker 1986:60-61).  Sự tranh luận phần lớn bị thúc đẩy bởi sự ức đoán liên quan đến tiềm năng dầu hỏa trong khu vực (Hood 1992:122).  Sự tranh cãi lãnh thổ trên Vịnh sau này bị che khuất bởi các cuộc tranh chấp vấn đề lãnh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Hood 1992:129, 134).  Tuy nhiên, việc này đôi lúc che khuất sự kiện rằng cuộc tranh cãi về Vịnh Bắc Bộ đã góp phần vào sự phát triển của sự tranh giành trên quần đảo Hoàng Sa.
       Hai bất đồng lãnh thổ xuất hiện vào lúc kết thúc Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì, một trong đó là cuộc tranh chấp trên Quần Đảo Hoàng Sa.  Trong Tháng Một năm 1974, Trung Hoa đã chiếm giữ sự kiểm soát trên quần đảo Hoàng Sa tại Biển Nam Hoa (South China Sea) từ các binh sĩ Nam Việt Nam.  Mặc dù Hà Nội có phản đối sự chiếm giữ các đảo ở Hoàng Sa của Trung Hoa, một lời tuyên bố chính thức đã không được đưa ra cho mãi đến lúc kết thúc Cuộc Chiến Tranh Việt Nam (Lo 1989:85-90; Nguyễn 2006:26).  Sự chiếm giữ của Trung Hoa trên quần đảo Hoàng Sa một phần do việc lo sợ rằng Hà Nội sẽ tìm cách giành lấy sự kiểm soát trên các đảo bởi có các hành động xâm lấn của Bắc Việt liên quan đến các cuộc tranh cãi về biên giới trên đất liền và tại Vịnh Bắc Bộ.  Tác giả Lo (1989:72) lập luận rằng một “cảm giác khẩn cấp” bị “tiêm nhiễm bởi sự gia tăng các biến cố biên giới và sự xuất hiện một cuộc tranh cãi về sự phân chia Vịnh Bắc Việt”.  Hậu quả Trung Hoa đã hành động nhằm chặn đầu sự xác quyết của Hà Nội đối vói các đảo này (Burton 1978-79:707).
       Trung Hoa cũng chiếm giữ các đảo một phần tìm cách dành được đòn bẩy lợi thế liên quan đến sự tranh giành tư thế của họ đối với Liên Bang Sô Viết và Việt Nam.  Sự kiểm soát trên các hòn đảo nâng cáo khả năng của Trung Hoa để ảnh hưởng đến các hoạt động trong miền qua việc mở rộng sự hiện diện của Trung Hoa thêm 200 dặm kể từ lục địa.  Việc này đã cung cấp cho họ một tiền đồn để theo dõi các hoạt động hải quân của Sô Viết và Việt Nam tại Biển Nam Hải (Hood 1992:129, 134) và ảnh hưởng trên một hải lộ quan trọng (Chen 1987:130).  Hơn nữa, Trung Hoa lo sợ các hậu quả tư thế của một sự chiếm giữ của Hà Nội trên quần đảo Hoàng Sa liên kết với sự hợp tác giữa Sô Viết và Việt Nam.  Tác giả Lo (1989:78) lập luận, “lý giải hợp lý nhất cho chiến dịch Hoàng Sa rằng nó cấu thành sự đáp ứng của Trung Hoa trước các sự thay đổi trong tình hình chiến lược của Biển Nam Hải.  Vào đầu thập niên 1970, mối quan ngại của Trung Hoa trước sự gia tăng trong ảnh hưởng của Sô Viết trong vùng, kể cả các hoạt động hải quân của Sô Viết tại Biển Nam Hải, đã tăng trưởng.  Trong khung cảnh này, giá trị chiến lược của các hòn đảo giữa đại dương, điều khiển các tuyến đường biển quan trọng, càng nổi bật lên.  Tình trạng suy đồi cùng lúc trong các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam và sự xuất hiện các cuộc tranh luận về lãnh thổ giữa hai nước đã nối kết các cuộc tranh cãi về Các Quần Đảo Hoàng sa và Trường Sa với sự quan ngại của Trung Hoa về mối đe dọa của Sô Viết đối với nền an ninh của Trung Hoa.  Chiến dịch Hoàng Sa đã được phóng ra để đón chặn bất kỳ khả tính tương lại nào của ảnh hưởng của Sô Viết trên các hòn đảo này xuyên qua sự hợp tác của Hà Nội”.  Hậu quả, Trung Hoa chiếm giữ Quần Đảo Hoàng Sa  một phần để nâng cao địa vị trong miền của họ và để ngăn chặn Việt Nam cùng Liên Bang Sô Viết khỏi việc dành đoạt được một lợi thế về tư thế xuyên qua sự kiểm soát của Việt Nam trên các hòn đảo và sự hợp tác của Sô Viết với Viêt Nam.
       Sự bất đồng lãnh thổ thứ nhì xuất hiện giữa Trung Hoa và Việt Nam vào lúc kết thúc Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì là cuộc tranh cãi về Quần Đảo Trường Sa.  Sàigòn nắm quyền kiểm soát trên năm điểm của Quần Đảo Trường Sa vào Tháng Tám năm 1973 (Kenny 2002:66; Fravel 2008:278), điều mà Trung Hoa có tuyên bố là “một sự vi phạm bừa bãi vào chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Hoa” (lo 1989:57).  Tiếp theo sau chiến dịch Hoàng Sa, Sàigòn đã nắm sự kiểm soát thêm nhiều địa điểm trong quần đảo Trường Sa.  Hà Nội bận tâm với Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì vào lúc đó và đã không đưa ra một sự xác quyết chính thức trên quần đảo (Kenny 2002:66).  Tuy nhiên, vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh hồi tháng Tư 1975, Hà Nội đã chiếm đóng quần đảo đưa đến sự khởi phát cuộc tranh chấp lãnh thổ của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với Trng Hoa trên Quần Đảo Trường Sa (Hood 1992: 125).
       Tương như như cuộc tranh cãi về Quần Đảo Hoàng Sa, sự tranh giành trên Trường Sa một phần phát sinh từ các sự cứu xét về tư thế.  Việt Nam và Liên Bang Sô Viết mong muốn sự kiểm soát của Việt Nam trên quần đảo hầu nâng cao khả năng phóng chiếu sức mạnh vào vùng Biển Nam Hải (Lo 1989:78).  Sô Viết đã khuyến khích sự chiếm đóng các đảo ở Trường Sa bằng việc công bố các cuộc nghiên cứu chính phủ tiên đoán rằng có các số dự trữ dầu hỏa khổng lồ nằm dưới các hòn đảo (Kenny 2002:66) và qua việc cung cấp cho Việt Nam sự ủng hộ ngoại giao liên quan đến sự tuyên xác này (Chen 1987:110).  Sự chiếm cứ các hòn đảo cũng là một “sự đáp ứng” với chiến dịch Hoàng Sa của Trung Hoa (Womack 2006:182), và hậu quả cũng đã xuất hiện một phần là do ở sự tranh giành trên vấn đề lãnh thổ đã được thiết định trước đây.
          Một sự tranh chấp vấn đề tư thế thứ nhì đã xuất hiện trong năm 1975 trong đó Trung Hoa và Việt Nam khởi sự cạnh tranh ảnh hưởng trên Căm Bốt (Kampuchea) (Ross 1988:244).  Cả hai Việt Nam lẫn Trung Hoa đều có các lãnh tụ ưu ái của mình tại Phnom Penh là các kẻ thân thiện với các quyền lợi của đất nước của họ.  Khi Khmer Đỏ nắm giữ quyền hành tại Căm Bốt năm 1975, chế độ mới tạo lập các quan hệ chặt chẽ với Trung Hoa.  Các nhà lãnh đạo Kampuchea tìm kiếm sự trợ giúp của Trung Hoa nhằm bảo vệ Căm Bốt chống lại kế họach bị cáo giác của Việt Nam “nhằm sáp nhập Căm Bốt vào trong một đế quốc Đông Dương mới” (được trích dẫn trong sách của Ray 1983:67-68).
       Sự mong ước của Trung Hoa về các quan hệ chặt chẽ và một chế độ thân Trung Hoa tại Căm Bốt phát sinh từ mục tiêu nhằm ngặn chặn Việt Nam và Liên Bang Sô Viết khỏi việc dành đoạt được một thế thượng phong liên quan đến sự tranh giành tư thế của Trung Hoa với liên minh Sô Viết – Việt Nam.  Sự thiết lập các quan hệ thân thiện của Trung Hoa với Khmer Đỏ đã đặt ra các giới hạn trên ảnh hưởng của Việt Nam và Sô Viết tại Đông Nam Á.  Chặn đầu sự kiểm soát của Trung Hoa trên Căm Bốt đã trợ lực vào mục đích ngăn chặn sự bao vây (Ross 1988:246).
       Hơn nữa, sự tranh giành lãnh thổ, góp phần vào việc tạo ra một bàu không khí tâm lý của sự lo sợ và không tin cậy, khiến mỗi quốc gia trông chừng các ý định của nước kia về Kampuchea.  Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã kết luận rằng “sự khăng khăng của Trung Hoa về một thẩm quyền chuyên độc đối với tất cả các hòn đảo tại Biển Nam Hải” (cùng với sự từ chối của Trung Hoa không chịu chấp nhận di sản của chế độ thực dân Pháp) “hàm ý một cách rõ ràng rằng Bắc Kinh đã không thừa nhận một tư thế chế ngự của Việt Nam tại Lào hay Kampuchea”.  Các nhà lãnh đạo Trung Hoa cảm thấy rằng các cuộc tranh chấp lãnh thổ của Việt Nam với Trung Hoa và Kampuchea “bộc lộ các kế hoạch bành trướng của Hà Nội trong vùng”, đã góp phần cho sự quan ngai của Trung Hoa về các ý định của Việt Nam liên quan đến Kampuchea (Chang 1986:45-46).
       Trong khi bắt nguồn ngay lúc khởi đầu từ các quan ngại về không gian và tư thế, sự đối tranh của Trung Hoa vớiViệt Nam sau này cũng bị thúc đẩy bởi cuộc xung đột trên vấn đề căn cước trong đó Trung Hoa phản kháng sự ngược đãi người gốc Trung Hoa (người Hoa) sinh sống tại Việt Nam.  Các chính sách của Việt Nam đối với người Hoa bao gồm cả việc chiếm đoạt các tài sản, bác bỏ quyền được lựa chọn quốc tịch một cách tự nguyện của cá nhân, cắt giảm khẩu phần, hạn chế việc làm, áp đặt các sắc thuế cao khác thường, giết hại, trục xuất cưỡng bách, v.v… (Amer 1991).  Mặc dù sự vi phạm các quyền của người Hoa đã khởi sự sớm hơn, Trung Hoa đã không nêu vấn đế một cách chính thức (có nghĩa, về mặt ngoại giao) cho đến năm 1978 (Benoit 1981:50; Cima 1989:219).
       Cuộc tranh cãi căn cước khởi sinh một phần từ một sự tái lượng giá nguyên trạng tiếp theo sau sự thiết định Trung Hoa và Việt Nam như các đối thủ.  Trong lúc Việt Nam trước đó đã không nhìn người Hoa như một sự đe dọa cho nền an ninh của Việt Nam, khi Trung Hoa và Việt Nam đã khởi sự nhìn kẻ kia như kẻ thù, Việt Nam lo ngại rằng Trung Hoa sẽ dựa vào người Hoa như một “đội quân thứ năm” tìm cách phá hoại thẩm quyền chính phủ địa phương trong trường hợp có chiến tranh với Trung Hoa.  Các quan ngại như thế góp phần vào các biện pháp khắc nghiệt được thi hành chống lại người Hoa và sự trục xuất họ khỏi Việt Nam (Elliot 1981:10-11; Ross 1988:241).
       Tranh chấp về vấn đề căn cước phát sinh một phần, hơn nữa, từ việc Việt Nam tìm cách dành đoạt được đòn bẩy trên sự tranh cãi về biên giới.  Trong năm 1977, Việt Nam đã thiết chế một chính sách “thanh lọc” dọc theo biên giới trong đó mọi cư dân Trung Hoa và phi-Việt Nam tại các khu vực biên giới bị trục xuất khỏi Việt Nam theo lý luận rằng nếu chỉ có riêng người gốc Việt Nam cư ngụ tại các khu vực biên giới tranh cãi, điều đó sẽ làm tiêu trừ tính chính đáng trong các lời tuyên xác về biên giới của Trung Hoa (Chang 1986:45; Chen 1987:49).  Các cuộc tống xuất cưỡng bách như thế góp phần vào sự phát triển cuộc tranh cãi về căn cước, là vấn đề cuối cùng được tích lũy giữa Trung Hoa và Việt Nam trong thập niên 1970.
       Sự khảo sát các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong suốt thập niên nêu ý kiến rằng một sự bất đồng trên vấn đề có khuynh hướng góp phần vào sự phát triển một vấn đề khác.  Hình 1 trình bày theo tuàn tự trong đó các vấn đề được tích lũy lại.  Các quan hệ tiên khởi bắt đầu bị suy đồi bởi có sự tranh giành tư thế giữa Sô Viết / Việt Nam và Trung Hoa trong đó Việt Nam tin rằng Trung Hoa mong muốn Việt Nam vẫn còn bị chia cắt và ở vào một tư thế phục tùng đối với Trung Hoa tại Đông Nam Á, trong khi Trung Hoa lo sợ sự khống chế trong vùng và sự bao vây của Sô Viết – Việt Nam.  Sự khởi sinh của cuộc tranh chấp trên vấn đề tư thế và sự phát triển xuất hiện về một hình ảnh kẻ thù của “kẻ kia” đưa đến một sự tái lượng giá nguyên trạng liên quan đến biên giới và sự khởi sinh cuộc tranh chấp về vấn đề không gian.  Một cuộc tranh luận trên Vịnh Bắc Việt cũng đã xuất hiện, và cuộc tranh giành trên biên giới đất liền và tại vùng Vịnh đưa đến việc Trung Hoa có hành động nhằm ngăn chặn Hà Nội không dành được sự kiểm soát trên quần đảo Hoàng Sa.  Hơn nữa, Trung Hoa tìm cách dành đoạt một lợi thế liên quan đến sự tranh giành tư thế với liên minh Sô Viết – Việt Nam bằng cách nâng cao khả nâng của họ để phóng chiếu sức mạnh vào vùng Biển Nam Hải và bằng việc ngăn chặn uy thế được nâng cao của Sô Viết – Việt Nam xuyên qua chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và sự hợp tác của Sô Viết với Việt Nam.  Sự chiếm đóng của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, một cách tương tự, phát sinh từ các quan ngại về tư thế liên quan đến khả năng được nâng cao để ảnh hưởng đến các hoạt động trong vùng và như một “sự đáp ứng” đối với chiến dịch Hoàng Sa của Trung Hoa.
                               Vấn Đề                                                                               Năm Phát Sinh
Tư thế: Cạnh Tranh Việt Nam/Sô Viết – Trung Hoa                              1972
Không Gian: Biên Giới Đất Liền                                                                        1973
Không Gian: Vịnh Bắc Việt                                                                                  1973
Không Gian: Quần Đảo Hoàng Sa                                                                     1975
Không Gian: Quần Đảo Trường sa                                                                     1975
Tư Thế: Căm Bốt                                                                                 1975
Căn Cước: Vi Phạm Các Quyền Của Hoa Kiều                                                              1978
Hình 1: Sự Tích lũy Vấn Đề Giữa Trung Hoa và Việt Nam
(Ghi chú: Mỗi vấn đề vẫn còn nắm dưới sự tranh giành từ lúc phát sinh cho đến cuộc chiến tranh năm 1979).
       Cuộc tranh cãi tư thế thứ nhì, liên can đến ảnh hưởng đôi với Căm Bốt, phát sinh từ sự tranh giành tư thế đã thiết định trước đây giữa Trung Hoa và Việt Nam/Sô Viết trong đó Trung Hoa hy vọng để giới hạn ảnh hưởng của liên minh trên vùng Đông Nam Á và ngăn chặn sự bao vây.  Hơn nữa, sự tranh giành lãnh thổ, làm cho cả Trung Hoa lẫn Việt Nam trở nên nghi ngờ các ý định của “kẻ kia” đối với Kampuchea.  Sau cùng, cuộc tranh cãi về căn cước phát sinh do một sự tái lượng giá nguyên trạng liên can đến sự hiện diện đông đảo của người gốc Trung Hoa tại Việt Nam tiếp theo sau sự tạo lập các hình ảnh kẻ thù và cũng từ việc Việt Nam tìm cách dành đoạt được đòn bẩy trên cuộc tranh cãi về biên giới.
       Sự phân tích trong phần này khiến ta nghĩ rằng sự thiết định một bất đồng trên vấn đề có thể góp phần vào sự phát triển các sự tranh giành trên vấn đề bổ túc.  Phần kế tiếp khảo sát các hậu quả của việc có nhiều vấn đề phức tạp trên nghị trình cùng một lúc sau khi việc này đã dẫn dắt đến việc kia.  Có phải sự thiết lập các sự bất đồng trên các vấn đề mới làm căng thẳng các quan hệ liên quan đến các bất đồng đã được thiết lập trước đây hay không?  Có phải các vấn đề mới phát sinh từ các sự bất đồng trước đó mang một tầm quan trọng riêng tư của chúng? Có phải sự tranh giành trên các vấn đề đa diện phức tạp góp phần vào sự bùng nổ của chiến tranh?
Sự Leo Thang Thành Chiến Tranh
       Liên can đến Trung Hoa và Việt Nam, sự thiết lập các bất đồng trên các vấn đề mới làm tệ hơn các quan hệ liên quan đến các cuộc tranh chấp trên các vấn đề đã được thiếp lập trước đó.  Một khi cuộc tranh cãi biên giới xuất hiện, Việt Nam đã nhận được “sự ủng hộ hoàn toàn” của Liên Bang Sô Viết, đã chuyển giao trang bị quân sự cho Việt Nam và đã khiển trách Trung Hoa về các sự đột nhập ở biên giới (Chen 1992:144).  Liên quan đến cuộc tranh cãi lãnh thổ ở Biển Nam Hải, tương tự, Việt Nam đã hướng đến Liên Bang Sô Viết để có sự ủng hộ (Rich 2003:481-482).  Sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn giữa Việt Nam và Liên Bang Sô Viết trên các vấn đề lãnh thổ đã nâng cao sự quan ngại của Trung Hoa về chính sách bá quyền trong miền tiềm ẩn của Sô Viết / Việt Nam và hậu quả là sự tranh giành tư thế được tăng cường.
       Hành động của Việt Nam liên quan đến Vịnh Bắc Việt và một cách tương tự với người Hoa làm gia tăng sự lo âu của Trung Hoa về tiềm năng cho sự thông đồng Sô Viết – Việt Nam.  Trong một sự ám chỉ được che dấu một cách mỏng manh đến Liên Bang Sô Viết, các nhà lãnh đạo Trung Hoa đã đòi hỏi rằng “không một nước thứ ba nào được phép để thực hiện cuộc thăm dò tại Vịnh Bắc Bộ (Tonkin)” (được trích dẫn trong sách của Lo (1989:72).  Liên quan đến sự ngược đãi của Việt Nam đối với người Hoa, phía Trung Hoa tuyên bố rằng “đàng sau mọi bước tiến chống lại Trung Hoa được thực hiện bởi nhà chức trách Việt Nam là bóng dáng to lớn của chủ nghĩa đế quốc Sô Viết” (được trích dẫn troong sách của Rich 2003:482).  Các cuộc tranh cãi về Vịnh Bắc Việt và căn cước làm gia tăng sự nghi ngờ của Trung Hoa rằng Việt Nam đang hành động như một tác nhân đại diện của Liên Bang Sô Viết trong sư mưu tìm quyền thống trị trong vùng của Sô Viết / Việt Nam.
       Hơn nữa, cuộc tranh cãi về căn cước đã làm trầm trọng hơn các quan hệ liên quan đến sự tranh cãi biên giới đã được thiết lập trước đó.  Như đã ghi nhận bên trên, vấn đề căn cước phát sinh một phần từ chính sách của Việt Nam nhằm trục xuất các cư dân phi Việt Nam khỏi các khu vực biên giới tranh chấp.  Lúc khu vực biên giới được khai quang, các vụ bạo động đã gia tăng khi người Trung Hoa toan tính duy trì sự kiểm soát trên đất đai tranh chấp.  Trong khi Việt Nam tìm cách giải quyết vấn đề biên giới bằng cách trục xuất người gốc Trung Hoa, các hành động như thế thay vào đó lại càng làm gia tăng sự kháng cự của Trung Hoa và đưa đến một sự leo thang dọc theo biên giới (Chen 1987:49-50).
       Sự tranh giành trên các vấn đề tranh cãi đã gia tăng trong các tháng trước khi có chiến tranh.  Các vụ đụng chạm ở biên giới dâng cao và các con số người Hoa bị trực xuất khỏi Việt Nam gia tăng.  Liên Bang Sô Viết và Việt Nam đã ký kết một liên minh chính thức, Bản Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác, vào ngày 2 Tháng Mười Một năm 1978, có vẻ xác nhận các sự lo sợ của Trung Hoa liên can đến sự bao vây xuyên qua sự hợp tác giữa Sô Viết – Việt Nam.  Cuộc tranh đấu trên Căm Bốt diễn ra trước khi có cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Kampuchea vào ngày  Giáng Sinh 1978.  Chưa đầy hai tháng sáu đó, Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam khởi sự.   
       Sự leo thang của các quan hệ đi theo một khuôn mẫu tổng quát trong đó khi các vấn đề được tích lũy, các quan hệ càng trở nên chua chát..  Các vụ động độ ở biên giới đã khởi sự trong năm 1973 và gia tăng trong các năm tiếp nối (Chen 1987:49-50) tương ứng với sự tạo lập của các sự tuyên xác các vấn đề bổ túc.  Tại điểm nơi đó Trung Hoa và Việt Nam tham dự vào chiến tranh năm 1979, có đến bẩy vấn đề trong nghị trịnh  Tác giả Womack (2006:192) lập luận rằng các vấn đề đã dẫn đến Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam bao gồm, “liên minh của Việt Nam với Liên Bang Sô Viết, cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt trong Tháng Mười Hai năm 1978, sự ngược đãi và trục xuất người gốc Trung Hoa của Việt Nam, và các sự tranh cãi về lãnh thổ”.  Lập luận này tương ứng với các vấn đề được xác định trong cuộc phân tích này – hai vấn đề về tư thế (sự cạnh tranh của Sô Viết / Việt Nam và Căm Bốt), vấn đề căn cước (sự ngược đãi người Hoa), và các sự tuyên xác lãnh thổ trái ngược nhau (biên giới trên đất liền, Vịnh Bắc Việt, Quần Đảo Hoàng Sa, và Quần Đảo Trường Sa).  Các học giả khác xác định cùng một loạt các vấn đề trợ lực vào sự sụp đổ của các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam (Burton 1978-79; Duiker 1986; Kenny 2002).  Sự phân tích nơi đây do đo phù hợp với các tài liệu trình bày lịch sử của cuộc chiến tranh.
       Mỗi bất đồng trên vấn đề góp phần vào sự bùng nổ của cuộc tranh chấp được quân sự hóa.  Các tranh cãi về vấn đề tư thế chắc chắn là có tầm quan trọng.  Sự tranh giành tư thế của Trung Hoa với Việt Nam và Liên Bang Sô Viết là vấn đề được tạo dựng đầu tiên cho sự tranh giành (từ đó các vấn đề bổ túc xuất hiện) và cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt đã là một chất xúc tác cho sự bùng nổ cuộc tranh chấp quân sự hóa quan trọng.  Tuy nhiên, các nhà học giả nhấn mạnh rằng các vần đề kia cùng có tầm quan trọng.  Amer (1999:99) lập luân, thí dụ, rằng mặc dù điều được giả định trước đây là cuộc tranh giành ảnh hưởng trên Căm Bốt đã là lý do quan trọng cho tình trạng thoái hóa của các quan hệ rằng “rất nhiều phần là Trung Hoa và Việt Nam sẽ không nhận định ảnh hưởng của phía bên kia tại Căm Bốt và Lào một cách quá tiêu cực đến thế, nếu các quan hệ song phương của họ đã không sẵn bị căng thẳng trên các vấn đề khác”.  Burton (1978-79:720) lập luận tương tự rằng mặc dù yếu tố Sô Viết và các sự tranh cãi về Căm Bốt là các nguyên do quan trọng cho cuộc chiến, “sẽ là điều sai lầm trong việc đánh thấp ý nghĩa của các cuộc tranh cãi về lãnh thổ và biên giới, vấn đề Hoa kiều hải ngoại, và các biến số nội tại khác”.
       Khác với việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một vấn đề cá biệt dẫn đến Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam, các sự tường thuật lịch sử có nhấn mạnh rằng cuộc tranh chấp là do có sự tranh giành trên nhiều vấn đề đa diện phức tạp.  Tác giả Pike (1989:258) mô tả cuộc chiến tranh như phát sinh từ điều mà Trung Hoa đã xem như là “một loạt các hành động và chính sách khiêu khích về phía hà Nội”.  Burton (1978-79:720) nói rằng “các vấn đề liên can đến cuộc tranh chấp Trung Hoa – Việt Nam có nhiều và phức tạp”.  Duiker (1986:89) tin rằng “rõ ràng đã có nhiều yếu tố can dự vào sự sụp đổ trong các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam”.  Một cuộc thảo luận về chiến tranh viện dẫn đến một cách ngôn của Trung Hoa rằng “cần hơn một ngày để tích lũy ba bộ Anh (feet) đá băng” (Lawson 1984:311), phù hợp với ý niệm rằng chính sự chồng chất dần dần các sự bất đồng về các vấn đề phức tạp sau rốt đã dẫn đến chiến tranh.
       Cùng với việc làm gia tăng và tăng cường độ sự lo sợ và không tin tưởng, sự tích lũy vấn đề đã làm tăng thêm các vốn liếng của cuộc tranh giành giữa Trung Hoa và Việt Nam.  Các lợi lộc tiềm ẩn đối với Trung Hoa trong việc tham dự vào cuộc chiến – đẩy lùi bước tiến của Việt Nam tại Căm Bốt, giảm thiểu ảnh hưởng của Việt Nam và Sô Viết tại Đông Nam Á, bảo đảm chủ quyền trên các lãnh thổ tranh chấp, và bảo vệ người gốc Trung Hoa sinh sống tại Việt Nam – cao hơn nhiều so với trước đây khi chỉ có một vấn đề duy nhất hay ít vấn đề nằm dưới sự tranh giành.  Sự tích lũy các vấn đề làm gia tăng các lợi lộc tiềm ẩn của việc tham dự vào chiến tranh, nhiều phần làm gia tăng ý muốn của Trung Hoa để gánh chịu các phí tổn của chiến tranh tìm kiếm sự giải quyết vân đề thuận lợi xuyên qua sự áp đặt vũ lực.
       Khi Việt Nam xâm lăng Căm Bốt, Trung Hoa đã lo sợ rằng sự thiếu sót không bày tỏ quyết tâm cũng sẽ dẫn dắt Việt Nam đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên các vấn đề khác nữa.  Nhiều tài liệu lịch sử khác về cuộc chiến có nhấn mạnh đến ý định được tuyên bố của Trung Hoa là để “dạy cho Việt Nam một bài học” (Duiker 1986; Cima 1989; Ross 1991:1172; Chen 1992:150-151; Hood 1992:50; Amer 1999:72).  Các nhà lãnh đạo Trung Hoa hy vọng sẽ chứng tỏ rằng Trung Hoa “không thể bị coi thường” (được trích dẫn trong sách của Garrett 1981:211) và rằng “bất kỳ sự thách đố nào đối với quyền lực của Trung Hoa tại Đông Dương sẽ thất bại” (nhân mạnh thêm, Ross 1991:1172) trong các sự hy vọng về việc ngăn chặn hơn nữa các nỗ lực của Việt Nam việc tái xét tinh trạng của bất kỳ vấn đề nào.  Sự thất bại để trừng trị Việt Nam về việc đưa ra sự tuyên xác tư thế của nó liên quan đến Căm Bốt có thể đã dẫn (Trung Hoa lo sợ) đến các thách đố bổ túc trên các vân đề khác đang nằm dưới sự tranh giành.
       Không phải chỉ riêng bản chất gai góc đặc biệt của sự tranh giành lãnh thổ (Vasquez 1993) đã một mình dẫn dắt đến cuộc chiến tranh Trung Hoa – Việt Nam.  Mặc dù các vần đề không gian đóng giữ một vai trò trong sự leo thang các quan hệ như đã thảo luận, các vấn đề khác cũng quan trọng như thế, nếu không phải còn quan trọng hơn, các tuyên xác về lãnh thổ.  Tác giả Kenny (2002:53) lập luận rằng liên minh của Việt Nam với Liên Bang Sô Viết, cuộc xâm lăng vào Căm Bốt, và sự ngược đãi người Hoa là “các nguyên do chính yếu” của cuộc chiến tranh trong khi các vấn đề lãnh thổ đóng một “vai trò thứ yếu”.  Sự sắp loại Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh cho Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam như một sự tranh chấp về “chính sách” (Jones và các tác giả khác, 1996), một cách tương tự, chỉ cho thấy tầm quan trọng của sự tranh giành phi lãnh thổ liên quan đến sự leo thang thành chiến tranh.
       Hơn nữa, có các trường hợp các vòng xoắn ốc sự việc leo thang thành chiến tranh trong đó lãnh thổ không phải là một vấn đề của sự tranh giành.  Thí dụ, sự tham dự vào cuộc tranh giành tư thế và sự tích lũy sự tranh chấp về vấn đề ý thức hệ đi trước sự can dự của Thái Lan vào Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì.  Phần kế tiếp tái duyệt một cách ngắn gọn các động lực xoắn ốc sự việc trong khung cảnh của cuộc tranh giành phi lãnh thổ giữa Thái lan và Việt Nam.

Sự Can Dự Của Thái Lan vào Cuộc Chiến Tranh Việt Nam
       Trong một thời kỳ tiên khởi của sự đối đầu trong các thế kỷ thứ mười tám và mười chín (Thompson 2001), Thái Lan (Xiêm La) và Việt Nam tranh giành ảnh hưởng trên Căm Bốt và Lào (Seekins 1990:14-15; Dommen 1994:3).  Cuộc tranh giành như thế bị xẹp xuống khi Pháp thay thế Xiêm La như một quyền lực thống trị trong vùng và tạo lập ra cái gọi là Liên Bang Đông Dương bao gồm Căm Bốt, Lào, và Việt Nam hồi cuối thế kỷ thứ mười chín (Buttinger 1972:63; Savada 1994:xxx).  Song Xiêm La vẫn giữ các tham vọng về việc thiết lập quyền bá chủ trong vùng.  Trong Thế Chiến II, xuyên qua sự trợ giúp của Nhật Bản, Thái Lan đã có thể thu hồi tam thời một số sự kiểm soát đã mất đi của nó trên Lào và Căm Bốt từ Pháp (Wilson 1970:26-30; Seekins 1989:29-30).  Tiếp theo sự kết thúc chiến tranh, Thái Lan khởi sự để tái thiết mình mình như “kẻ đứng đầu trong số các dân tộc độc lập” tại Đông Nam Á (Nuechterlein 1965:94, 138).  Đặc biệt hy vọng dành lại ảnh hưởng trên Lào và Căm Bốt, Thái Lan đã ủng hộ một mưu toan đảo chính tại Lào, cung cấp cho chính quyền của Sihanouk tại Căm Bốt các vũ khí và đạn dược, và đã đề xuất một sự thống hợp các nước Lào, Căm Bốt, và Thái Lan (Fineman 1997).
       Tuy nhiên, Việt Nam cũng có các khát vọng lãnh đạo trong vùng.  Kể từ thập niên 1930, Đảng Cộng Sản Đông Dương chủ trương sự thành lập một biên bang giữa Căm Bốt, Lào, và Việt Nam.  Điều này được phát biểu sau năm 1951 như một mục đích của công tác tiến tới sự thành lập một “mối quan hệ đặc biệt” thời hậu giải thực (after decolonization) trong đó Việt Nam sẽ lãnh đạo một liên bang Đông Dương bao gồm cả Căm Bốt và Lào (Duiker 1986:65-66; Pike 1987:206; Cima 1989:214).
       Cùng với sự cạnh tranh liên can đến sự lãnh đạo trong vùng, Thái Lan và Việt Nam đã trở thành các kẻ cạnh tranh về ý thức hệ tiếp theo sau sự thành lập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như một quốc gia cộng sản trong năm 1954.  Các nhà lãnh đạo Thái được thuyết phục rằng Trung Hoa và bắc Việt Nam Cộng Sản đặt ra các sự đe doa lớn lao nhất cho nền an ninh quốc gia của họ. (Nuechterlein 1965:139).  Các sự lo sợ về uy thế Việt Nam được nâng cao xuyên qua sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á thúc đẩy Thái Lan hoạt động hướng đến việc ngăn cản sự thiết lập các chế độ cộng san/ bổ túc trong vùng.  Thí dụ, vào năm 1960, Thủ Tướng Thái Lan Sarit Thanarat kết luận rằng sự thất bại trong việc thiết lập một chế độ chống cộng sản tại Lào sẽ làm cho Lào rơi vào các khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa và Bắc Việt Nam (Nuechterlein 1965).  Hậu quả, Thái Lan ủng hộ các nỗ lực để dựng lên một chế độ thân thiện về mặt ý thức hệ tại Lào hầu ngăn chặn Việt Nam khỏi việc dành đoạt được đòn bẩy trên sự cạnh tranh về tư thế xuyên qua sự làn tràn hơn nữa chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á.
       Tiềm năng cho sự thống nhất Việt Nam dưới chế độ cộng sản mâu thuẫn với các mục đích ý thức hệ của Thái lan và sẽ nâng cao uy thế trong vùng của Việt Nam.  Cả các lời tuyên xác về ý thức hệ lẫn tư thế đo đó bị lâm nguy.  Hơn nữa, điều được tin tưởng rằng sự thành công của Bắc Việt có thể tạo ra một hiệu ứng dây chuyền (domino effect) trong đó có thêm các quốc gia trong vùng sẽ rơi vào tay cộng sản chủ nghĩa (Weatherbee 2008:112).  Cuộc chạm trán quân sự hóa có thể làm nản lòng hơn nữa các mưu toan tương lai của chủ nghĩa xét lại trong đó Việt Nam sẽ tìm kiếm một cách táo bạo các mục đích ý thức hệ và tư thế bằng việc tuyên truyền rằng sẽ có các tổn phí gắn liền với một thái độ như thế.
       Thái Lan trở nên dính líu một cách trực tiếp trong Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì, đóng góp hơn 11,000 binh sĩ cho nỗ lực quân sự ở đỉnh cao nhất của sự can dự tại Việt Nam (Weatherbee 2008:350).  Sự vắng bóng sự tranh chấp lãnh thổ giữa Thái Lan và Việt Nam chứng tỏ rằng chiến tranh có thể xảy ra do các vòng xoắn ốc sự việc ngay dù có sự vắng mặt của sự tranh giành về lãnh thổ.  Tương tự như Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam, sự dính líu của Thái Lan vào Chiến Tranh Việt Nam là do sự tranh giành trên các vấn đề đa diện phức tạp và từ sự lo sợ về các hậu quả nếu không biểu lộ quyết tâm.

Kết Luận
       Các quốc gia tranh giành trên một loat các vấn đề.  Các học giả đã khảo sát các sự khác biệt xuyên suốt các vấn đề liên quan đến xác xuất của sự tranh chấp được quân sự hóa và đã xác định rằng các sự tranh cãi về lãnh thổ có nhiều khả tính để leo thang thành chiến tranh hơn là các sự tranh cãi về chính sách hay chế độ (Hensel 1996; Vasquez và Henehan 2001; Senese và Vasquez 2008; Vasquez và Valeriano 2008).  Sự khảo cứu như thế chứng tỏ rằng có sự hữu dụng để khảo sát sự biến đổi vấn đề liên quan đến sự cạnh tranh liên quốc gia.
       Song thay vì chiến tranh trên một vấn đề này hay vấn đề kia, chiến tranh đôi khi có thể là kết quả của một tiến trình năng động trong đó các vấn đề đa diện phức tạp được tích lũy theo thời gian.  Nó có thể là sự cạnh tranh trên vấn đề nhiều kích thước hơn là sự cạnh tranh trên một loại vấn đề cá biệt có kuynh hướng dẫn đến chiến tranh.  Trong cuộc nghiên cứu này, điều được lập luận rằng chiến tranh đôi khi là kết quả của một vòng xoắn ốc sự việc – một tiến trình năng động trong đó sự căng thẳng gia tăng khi các vấn đề phức tạp tích dồn lại.  Sự thiết lập sự bất đồng trên vấn đề và sự phát triển một hình ảnh kẻ thù về “nước khác” có thể dẫn dắt các quốc gia hành xử một cách gây hấn về các vấn đề mới hầu dành đoạt được một lợi thế trên đối thủ của một nước hay để ngăn cản “nước khác” không được hành động như thế.  Các hành động như thế góp phần vào sự củng cố nhận thức rằng “nước khác” có các ý định thù nghịch liên quan đến các sự bất đồng đã được tạo dựng lên trước đây.  Các vấn đề mới cũng có thể phát sinh khi mà sự phát triển hình ảnh kẻ thù đưa đến một sự tái lượng giá nguyên trạng.  Khi các vấn đề chồng chất, sự căng thẳng gia tăng và các quốc gia có thể kết luận rằng “nước khác” là vấn đề chính trong việc giải quyết mọi sự bất đồng.  Sự tích lũy vấn đề cũng làm gia tăng các vốn liếng đặt vào cuộc cạnh tranh và hậu quả làm gia tăng sự sẵn lòng của các quốc gia để tham dự vào chiến tranh bởi tiềm năng của việc đạt được các lợi lộc nâng cao.  Tìm cách để biểu lộ quyết tâm, một quốc gia có thể khởi động cuộc tranh chấp quân sự hóa trên quy mô rộng lớn phản ứng lại một đối thủ đưa ra các đòi hỏi của nó trên một vấn đề nhằm ngăn cản sự tham dự sâu xa hơn vào thái độ xét lại của một nước cạnh tranh trên các vấn đề khác nằm dưới sự tranh chấp.
       Sự phân tích các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thập niên 1970 hỗ trợ cho các ước vọng của quan điểm vòng xoắn ốc sự việc.  Các sự bất đồng trên vấn đề có khuynh hướng góp phần vào sự phát triển các bất đồng bổ túc.  Sự cạnh tranh tư thế của Trung Hoa với Việt Nam và Liên Bang Sô Viết dẫn đến sự phát triển các sự tranh cãi về Quần Đảo Hoàng sa và Quần Đảo Trường Sa trong đó mỗi bên tìm cách gia tăng khả năng của mình để ảnh hưởng các hoạt động trong vùng xuyên qua việc nâng cao sự hiện diện của họ tại Biển Nam Hải.  Hơn nữa, Trung Hoa tham dự vào chiến dịch Hoàng Sa để chặn đường Việt Nam khỏi việc mở rộng chủ quyền lãnh thổ sau khi Việt Nam đã tiết lộ các tham vọng lãnh thổ gây hấn của nó (như nhận thức bởi Trung Hoa) do các sự tranh luận về Vinh Bắc Việt và biên giới trên đất liền trước đây.  Tưong tự, sự chiếm đóng của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên quần đảo Trường Sa một phần là để ngăn chặn sự giành giựt lãnh thổ hơn nữa của Trung Hoa sau chiến dịch Hoàng Sa.
       Sự cạnh tranh trên Căm Bốt xuất hiện một phần bởi cả Trung Hoa và liên minh Sô Viết – Việt Nam tìm cách dành đoạt đòn bẩy trên cuộc tranh chấp về vấn đề tư thế đã được tạo dựng lên trước đây.  Mỗi bên cũng nghi ngờ các ý định của bên kia về Kampuchea do các sự bất đồng về lãnh thổ.  Tranh cãi về căn cước cũng xuất hiện một cách tương tự một phần từ các sự bất đồng trước đây trong đó Việt Nam đã toan tính để dành đoạt một lợi thế trong cuộc tranh chấp biên giới trên đất liền bằng cách trục xuất người gốc Trung Hoa ra khỏi các khu vực tranh cãi.
       Các vấn đề mới cũng xuất hiện một phần do sự tái lượng giá nguyên trạng tiếp theo sau sự tạo dựng lên các hình ảnh kẻ thù.  Biên giới vô định hình đã không bị nhìn như rắc rối đặc biệt cho đến sau khi có sự suy sụp trong các quan hệ tiếp theo sự xuất hiện của sự cạnh tranh về tư thế và sự phát triển một tình trạng đối tranh.  Sự hiện diện đông đảo của người gốc Trung Hoa tại Việt Nam một cách tương tư cũng không bị nhìn là đe dọa đặc biệt cho đến sau khi Trung Hoa và Việt Nam khởi sự nhìn nhau như kẻ thù và các nhà lãnh đạo Việt Nam lo sợ rằng người Hoa có thể làm phương hại đến an ninh nội bộ trong trường hợp có chiến tranh với Trung Hoa.
       Sự thiết lập các bất đồng mới đã góp phần vào tình trạng suy sụp của các quan hệ liên quan đến các vấn đề đã được dựng lên trước đây.  Khi các bất đồng về lãnh thổ xuất hiện, Việt Nam đã hướng đến Liên Bang Sô Viết để có sự ủng hộ, theo đó càng tăng cường các nỗi lo sợ của Trung Hoa liên can đến sự bao vây và làm tăng cường độ cho sự cạnh tranh tư thế.  Chính sách của Việt Nam về việc trục xuất các cư dân phi Việt Nam tại các khu vực tranh cãi, hơn nữa, đã góp phần cho sự leo thang các quan hệ dọc theo biên giới (có nghĩa, sự gia tăng cường độ của cuộc tranh cãi về biên giới).
       Các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam đi theo một khuôn mẫu tổng quát trong đó các mức độ thù nghịch gia tăng khi các vấn đề đuợc tích lũy lại.  Trung Hoa và Việt Nam đã ở vào tình trạng hòa bình với nhau hồi đầu thập niên 1970.  Các cuộc đụng độ ở biên giới đã khởi sự trong năm 1973 và đã gia tăng về cường độ và tần số khi các vấn đề chồng chất nhau.  Bẩy vấn đề đã ở trên nghị trình khi Trung Hoa và Việt Nam sau hết đã tham dự vào chiến tranh trong năm 1979.
       Các vấn đề mới phát sinh từ các bất đồng trước đây mang một tầm quan trọng cho tự bản thân chúng một khi được thiết lập và mỗi sự bất đồng trên vấn đề đều đã đóng phần vào sự bùng nổ của chiến tranh.  Khác hơn cuộc xung đột quân sự hóa chính yếu trên một vấn đề cá biệt, các vấn đề tư thế, lãnh thổ, và căn cước đều đã tiếp sức cho tình trạng suy sụp của các quan hệ.  Sự tích lũy các vấn đề đã không chỉ làm gia tăng sự căng thẳng, nó cũng còn làm gia tăng các lợi lộc tiềm ẩn của sự chiến thắng cuộc chiến, nâng cao sự sẵn lòng của Trung Hoa để phát khởi cuộc xung đột quân sự hóa.
       Khi sự căng thẳng và tính hợp lý của việc tham dự vào cuộc xung đột quân sự hóa quy mô gia tăng do động lực xoắn ốc các sự việc, Trung Hoa đã khởi động cuộc chiến tranh để “dạy cho Việt Nam một bài học” tiếp theo sau cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt.  Sự thiếu sót không biểu lộ quyết tâm trên một vấn đề gai góc có thể mời gọi đối thủ của một nước đưa ra các sự đòi hỏi của nó trên các vấn đề bổ túc.  Trong việc phát khởi chiến tranh, Trung Hoa đã tìm cách biểu lộ rằng các toan tính để xét lại sẽ gặp thất bại nhằm làm nản lòng Việt Nam khỏi việc đẩy ra các sự tuyên xác của nó trên các vấn đề khác cũng đang nằm duơi sự tranh chấp.
       Sự phân tích nêu ý kiến rằng khác hơn việc khảo sát cuộc xung đột quân sự hóa từ một quan điểm tĩnh và trong sự liên quan với vấn đề có tầm quan trọng chính yếu đang bị đe dọa rằng có thể đôi khi cần đến việc khảo sát các quan hệ liên quốc gia năng động và cuộc tranh chấp trên vấn đề đa chiều kích.  Lập luận của tôi phù hợp với “kiểu mẫu núi lửa: volcano model” của sự đối địch bền bỉ trong đó sự căng thẳng được xây đắp (khi các vấn đề chồng chất lên nhau) cho đến khi có một sự phát nổ (sự bùng nổ cuộc tranh chấp quân sự hóa nghiêm trọng) (Goerts và Diehl 1998; Diehl và Goertz 2000:168-172).  Điều này tương hợp với một khuôn mẫu gia tăng hay lồi (phình) ra của sự tiến hóa tình trạng đối đầu trong đó các mức độ thù nghịch gia tăng với thời gian hay gia tăng tới một điểm sau đó sự đối đầu “tàn lụi đi” (Diehl và Goertz 2000:169-172).  Sự tích lũy vấn đề diễn ra một cách mau chóng trên sự thiết lập tình trạng đối đầu có thể giúp vào việc giải thích các trường hợp tranh chấp được quân sự hóa và chiến tranh diễn ra gần với sự phát sinh tình trạng đối đầu, sau đó các mức độ thù nghịch có thể trồi sụt quanh một mức độ đối đầu căn bản ngăn cấm sự tích lũy hơn nữa.
       Quan điểm vòng xoắn ốc sự việc chiếu sáng tầm quan trọng của việc giải quyết các bất đồng khởi thủy một cách mau chóng với xác xuất rằng sự thiếu sót để làm như thế sẽ dẫn tới sự tích lũy các vấn đề thêm nữa, sự leo thang, và cuộc xung đột được quân sự hóa.  Một khi một vòng xoắn ốc đã được vặn cho chuyển động, bởi các mức độ gia tăng của sự thù nghịch và không tin tưởng, xác xuất ngày càng trở nên số không cho sự thành công của bất kỳ cuộc điều giải nào.  Nếu các nỗ lực điều giải tiên khởi thất bại, có thể chỉ sau cuộc xung đột bền bỉ và sự thất bại để giải quyết các vấn đề xuyên qua các sự sử dụng vũ lực, khi đó các quốc gia có thể mới đi đến sự kết luận rằng sự thỏa hiệp đáng được mong ước hơn là sự tiếp tục cuộctranh chấp (Grieg 2001).
       Sự gai góc của vấn đề có thể ảnh hưởng đến xác xuất rằng một vòng xoắn ốc sự việc sẽ leo thang thành chiến tranh.  Dự án ICOW đã phát triển các biện pháp để đo lường các mức độ gai góc hữu hình và vô hình cho các vấn đề địa chính trị (Hensel và Mitchell 2005).  Cuộc xung đột quân sự hóa nhiều phần xảy ra hơn trên các sự tuyên xác địa chính trị có độ gai góc cao hơn các sự tuyên xác về địa chính trị ít gai goc hơn (Hensel và các tác giả khác 2008).  Phát triển các phương thức để đo lường sự gai góc của các vấn đề phi lãnh thổ sẽ cần thiết để khảo sát trọn vẹn các ảnh hưởng của sự gai góc của vấn đề trên động lực của các vòng xoắn ốc sự việc trong đó các quốc gia cạnh tranh trên cả các vấn đề lãnh thổ lẫn phi lãnh thổ.
       Cùng với việc phát triển các phương cách thêm nữa để khảo sát sự gai góc của vấn đề, có các đường lối khác cho sự khảo sát tương lai.  Nhiều câu hỏi vẫn còn chưa được trả lời, bao gồm, điều gì gây ra sự tạo dựng lên một sự bất đồng trên vấn đề ban đầu? Các chiến lược nào mà các quốc gia có thể sử dụng để ngăn chặn sự tích lũy các vấn đề? Làm sao các quốc gia có thể quản trị một cách hiệu quả các tuyên xác tiếp diễn phức tạp? Các câu hỏi này và các câu hỏi khác sẽ cần được nhắm đến hầu tiến bước tới một sự hiểu biết đầy đủ hơn không chỉ các nguyên do của sự tranh chấp, mà còn cả các điều kiện cần thiết cho sự thiết lập nền hòa bình bền vững./-

_____
CHÚ THÍCH:
1. Trung Hoa loan báo rằng họ đã triệt thoái các lực lượng vào ngày 5 Tháng Ba, nhưng giao tranh tiếp diễn cho đến khi sự triệt thoái được hoàn tất vào ngày 17 Tháng Ba.  Xem Pike (1987: 220-221).
2. Một vấn đề được xác định cho mỗi quốc gia liên quan đến mỗi cuộc tranh chấp từ 1816 đến 1992.  Đến hai vấn đề được ghi ám hiệu cho mỗi quốc gia liên quan đến mỗi cuộc tranh chấp từ 1993 đến 2001.  Xem Ghosn và các tác giả khác.
3. Tương tự, Wendt (1999) lập luận rằng việc trình bày “nước khác” như một kẻ thù có thể dẫn đến các quốc gia có các quyền lợi trên nguyên trạng (status quo) hành động như các nước xét lại dựa trên nguyên tắc “giết hay bị giết chết”.
       Leng (1983) lập luận rằng các quốc gia “học được” rằng phải trả giá khi tham dự vào hành vi cưỡng bách trên các cuộc khủng hoảng tái diễn nhiều lần.  Tuy nhiên, các nước tranh đua, có thể hành động một cách xâm lấn trước khi có sự khai mào của cuộc khủng hoảng mà đối thủ của một nước có thể dành được ưu thế trên một vấn đề mới nếu họ không hành động phủ đầu.  Tác phong như thế có thể dẫn đến các cuộc khủng hoảng trong đó sự điều hành khủng hoảng kém có thể góp phần làm trầm trọng hơn nữa các quan hệ.
4. Thí dụ, sự đối tranh giữa Chile và Peru (Thompson 2001), bắt đầu như một cuộc tranh giành tư thế trong năm 1832 tập trung vào sự cạnh tranh trên việc thiết lập sự chế ngự chính trị và thương mại vùng Duyên Hải Thái Bình Dương (Pacific Coast) (Collier 2003: 51-52) với sự tranh chấp về không gian (spatial conflict) liên can đến miền Tacna-Arica trong Sa Mạc Atacama Desert (Dennis 1931) sau này chồng chất lên.
5. Các nhà lãnh đạo chính trị có thể lo sợ rằng các cá nhân cùng chủng tộc của một đối thủ có thể biến thành “đội quân thứ năm”.  Trên sự hòa dịu các quan hệ giữa Trung Hoa và Thái Lan tiếp theo sau sự thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thí dụ, các nhà lãnh đạo Thái Lan đã bày tỏ sự quan ngại rằng nhóm dân thiểu số Trung Hoa tại Bangkok có thể tham gia vào hoạt động khuynh đảo (Shinn 1989: 214).  Các sự lo sợ như thế có để dẫn đến hay trợ lực cho sự trấn áp.  Sự trấn áp tập thể người Việt Nam tại Căm Bốt dưới thời trị vì của Pol Pot, thí dụ, được khẳng định một phần trên việc loại trừ các kẻ thù có thể trở thành đội quân thứ năm tìm cách phá hoại hay lật đổ chế độ (Nguyen-Vo 1992: 83).  Sự đối xử vô nhân đạo đối với người Việt Nam tại Căm Bốt đã trở thành một nguồn gốc của sự va chạm ngoại giao giữa Căm Bốt và Việt Nam, dẫn đến cuộc xâm lăng của Việt Nam trong năm 1978 (Haas 1991: 59).
6.  Sự chồng chất của sự tranh chấp lãnh thổ giữa các nước đối tranh dành tư thế đã xảy ra, thí dụ, giữa Chile và Peru (như được ghi nhận trong chú thích số 4) ngay trước khi có cuộc Chiến Tranh Thái Bình Dương (War of the Pacific).
7. Một quốc gia nhấn mạnh các đòi hỏi của nó trên một vấn đề khi đang có các sự bất hòa đa tầng phức tạp tiếp diễn ít có xác xuất khiêu dẫn một sự đáp ứng quân sự hóa nếu vấn đề tranh cãi ít gai góc hơn.
8. Tới hai vấn đề được ghi ám hiệu cho một quốc gia liên quan đến mỗi vụ tranh chấp từ 1993 đến 2001.  Xem Ghosn và các tác giả khác (2004).
9. Đường hướng nghiên cứu này đã chứng tỏ rằng có các sự khác biệt theo kinh nghiệm, quan trọng giữa các sự đối tranh về tư thế và không gian.  Thí dụ, sự đối tranh tư thế nhiều phần dẫn đến chiến tranh với một nước khác qua việc nối kết với một tranh chấp đang tiếp diễn, trong khi các cuộc chiến tranh giữa các đối thủ về không gian có khuynh hướng bao gồm cả hai [sự việc] (dyadic) hơn (Colaresi và các tác giả khác 2008).
10. Có chín mươi mốt cuộc tranh giành bị thúc đẩy bởi một loại vấn đề duy nhất.
***
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Amer, Ramses (1991) The Ethnic Chinese in Vietnam and Sino-Vietnamese Relations.  Kuala Lumpur: Forum.
Amer, Ramses. (1999) Sino-Vietnamese Relations: Past, Present and Future.  Trong quyển Vietnamese Foreign Policy in Transition, đồng chủ biên bởi Carlyle A. Thayer và Ramses Amer.  New York: St. Martin’s Press.
Benoit, Charles.  (1981) Vietnam’s ‘Boat People.  Trong quyển The Third Indochina Conflict, chủ biên bởi David W. P. Elliot, Boulder: Westview Press.
Ben-Yehuda, Hemda.  (2004) Territoriality and War in International Crises: Theory and Findings, 1918-2001.  International Studies Review 6 (4): 85-105.
Burton, Bruce.  (1978-79) Contending Explanations of the 1979 Sino-Vietnamese War.  International Journal 34: 699-722).
Buttinger, Joseph.  (1972) A Dragon Defiant: A Short History of Vietnam.  New York: Praeger.
Chang, Pao-Min.  (1986) The Sino-Vietnamese Territorial Dispute.  Washington, DC: Center for Strategic Studies.
Chen, King C.  (1987) China’s War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications.  Stanford: Hoover Institution Press.
Chen, Min. (1992) The Strategic Triangle and Regional Conflict: Lessons from the Indochina Wars.  Boulder: Lynne Rienner.
Cima, Ronald J.  (1989) Government and Politics.  Trong quyển Vietnam: A Country Study, biên tập bởi Ronald J. Cima, Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Colaresi, Michael P., Karen Rasler, and William R. Thompson.  (2008) Strategic Rivalries in World Politics: Position, Space and Conflict Escalation.  Cambridge: Cambridge University Press.
Collier, Simon.  (2003) Chile: the Making of a Republic, 1830-1865.  Cambridge: Cambridge University Press.
Dennis, William Jefferson.  (1931) Tacna and Arica: An Account of the Chile-Peru Boundary Dispute and of the Arbitration by the United States.  New Haven: Yale University Press.
Dommen, Arthur J.  (1994) Historical Setting: Trong quyển, Laos: A Country Study, biên tập bởi Andrea Matles Savada.  Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Dryer, David R.  (2010) Issue Conflict Accumulation and the Dynamics of Strategic Rivalry.  International Studies Quarterly 54 (3): 781-797.
Duiker, William.  (1986) China and Vietnam: The Roiots of Conflict.  Berkeley: University of California Press.
Elliot, David W. P.  (1981) The Third Indochina Conflict: Introduction.  Trong quyển The Third Indochina Conflict, biên tập bởi David W. P. Elliot.  Boulder: Westview Press.
Fineman, Daniel.  (1997) A special Relationship: The United States and Military Government in Thailand, 1947-1958.  Honolulu: University of Hawai’i Press.
Finlay, David J., Ole R. Holsti, and Richard R. Fagen.  (1967) Enemies in Politics.  Chicago: Rand-McNally.
Fravel, Taylor.  (2008) Strong Borders Secure Nation: Cooperation and Conflict in China’s Territorial Disputes.  Princeton: Princeton University Press.
Garrett, Banning.  (1981) The Strategic Triangle and the Indochina Crisis.  Trong quyển The Third Indochina Conflict, biên tập bởi David W. P. Elliot.  Boulder: Westview Press.
Ghosn, Faten, Glenn Palmer, and Stuart Bremer.  (2004) The MID3 Data Set, 1993-2001: Procedures, Coding Rules, and Description.  Conflict Management and Peace Science 21 (2): 133-154.
Gilks, Ann.  (1992) The Breakdown of the Soviet-Vietnamese Alliance.  Berkeley: Institute of East Asian Studies.
Goertz, Gary, and Paul F. Diehl.  (1998) The Volcano Model and Other Patterns in the Evolution of Enduring Rivalries.  Trong quyển The Dynamics of Enduring Rivalries, biên tập bởi Paul F. Diehl.  Urbana: University of Illinois Press.
Grieg, J. Michael.  (2001) Moments of Opportunity: Sources of Ripeness for International Mediation Between Enduring Rivals.  Journal of Conflict Resolution 45 (6): 691-718.
Haas, Michael.  (1991) Genocide by Proxy: Cambodian Pawn on a Superpower Chessboard.  New York: Praeger.
Hensel, Paul R.  (1996) Charting a Course to Conflict: Territorial Issues and Interstate Conflict, 1816-1992.  Conflict Management and Peace Science 15 (1): 43-73.
Hensel, Paul R.  (2000) Territory: Theory and Evidence on Geography and Conflict.  Trong quyển What Do We Know About War?, biên tập bởi John A. Vasquez.  Lanham: Rowman and Littlefield.
Hensel, Paul R.  (2001) Contentious Issues and World Politics: The Management of Territorial Claims in the America, 1816-1992.   International Studies Quarterly 45 (1): 81-109.
Hensel Paul R., and Sara McLaughlin Mitchell.  (2005) Issue Indivisibilty and Territorial Claims.  GeoJournal 64 (4): 275-285.
Hensel Paul R., Sara McLaughlin Mitchell, Thomas E. Sowers II, and Clayton L. Thyne.  (2008) Bones of Contention: Comparing Territorial, Maritime, and River Issues.  Journal of Conflict Resolution 52 (1): 117-143.
Holsti, Ole R.  (1962) The Belief System and national Images: A Case Study.  Journal of Conflict Resolution 6 (3): 244-252.
Holsti, Ole R.  (1967) Cognitive Dynamics and Images of the Enemy.  Journal of International Affairs 21 (1): 16-39.
Hood, Steven J.  (1992) Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War.  Armonk: M. E. Sharpe.
Huth, Paul K. and Tođ L. Allee.  (2002) The Democratic Peace and Territorial Conflict in the Twentieth Century.  New York: Cambridge University Press.
Jervis, Robert.  (1976) Perception and Misperception in International Politics.  Princeton: Princeton University Press.
Jervis, Robert, Richard Ned Lebow, and Janice Gross Stein.  (1985) Psychology and Deterrence.  Baltimore: John Hopkins University Press.
Jones, Daniel M., Stuart A. Bremer, and J. David Singer.  (1996) Militarized Interstate Disputes, 1816-1992: Rationale, Coding Rules, and Empirical Patterns.  Conflict Management and Peace Science 15 (2): 163; 216.
Kenny, Henry.  (2002) Shadow of the Dragon: Vietnam’s Continuing Struggle with China and the Implications for U.S. Foreign Policy.  Washington, DC: Brassey’s.
Kissinger, henry.  (1979) The White House Years.  Boston: Little, Brown.
Lawson, Eugene K.  (1984) The Sino-Vietnamese Conflict.  New York: Praeger.
Leng, Russell J. (1983) Will They Ever Learn? Coercive Bargaining in Recurrent Crises.  Journal of Conflict Resolution27 (3): 379-419.
Lo, Chi-Kin.  (1989) China’s Policy Towards Territorial Disputes: The Case of the South China Sea Islands.  London: Routledge.
Mansbach, Richard W. , and John A. Vasquez.  (1981) In Search of Theory: A New Paradigm for Global Politics.  New York: Columbia University press.
Mitchell, Sara McLaughlin, and Cameron G. Thies.  (2010) Issue Rivalries.  Conflict Management and Peace Science.  Sắp phát hành.
Morgenthau, Hans.  (1948) Politics Among Nations: The Struggle for Power and Peace.  New York: Random House.
Mulvenon, James.  (1995) The Limits of Coercive Diplomacy: the 1979 Sino-Vietnamese Border War, Journal of Northeast Asian Studies 14 (3): 68-89.
Nguyên, Lien-Hang T.  (2006) The Sino-Vietnamese Split and the Indochina War, 1968-1975.  Trong quyển The Third Indochina War: Conflict between China, Vietnam and Cambodia, 1972-79, đông biên tập bởi Ođ Arne Westad và Sophie Quinn-Judge.  London: Routledge.
Nguyễn-Võ, Thu-Hương.  (1992) Khmer-Viet Relations and the Third Indochina Conflict.  Jefferson: McFarland & Company.
Nuechterlein, Donald E.  (1965) Thailand and the Struggle for Southeast Asia.  Ithaca: Cornell University.
Pike, Douglas.  (1987) Vietnam and the Soviet Union: Anatomy of an Alliance.  Boulder: Westview.
Pike, Douglas.  (1989) National Security.  Trong quyển Vietnam: A Country Study, biên tập bởi Ronald J. Cima, Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Ray, Hemen.  (1983) China’s Vietnam War.  New Delhi: Radiant.
Rich, Norman.  (2003) Great Power Diplomacy Since 1914.  New York: McGraw Hill.
Rider, Toby J.  (2009) Understanding Arms Race Onset: Rivalry, Threat, and Territorial Competition.  Journal of Politics71 (2): 693-703.
Ross, Robert S.  (1988) The Indochina Triangle: Vietnam Policy, 1975-1979.  New York: Columbia University Press.
Ross, Robert S.  (1991) China and the Cambodian Peace Process: the Value of Coercice Diplomacy.  Asian Survey 31 (12): 1170-1185.
Russett, Bruce, and John R. O’Neal.  (2001) Triangulating Peace: Democracy, Interdependence , and International Organizations.  New York: W. W. Norton.
Savada, Andrea Matles.  (1994) Introduction.  Trong quyển, Laos: A Country Study, biên tập bởi Andrea Matles Savada.  Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Seekins, Donald M.  (1989) Historical Setting.   Trong quyển Thailand: A Country Study, biên tập bởi Barbara Leitch Lepoer..   Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Seekins, Donald M.  (1990) Historical Setting.   Trong quyển Cambodia: A Country Study, biên tập bởi Russell R. Ross.   Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Senese, Paul D.  (1996) Geographical Proximity and Issue Salience: Their Effects on the Escalation of Militarized Conflict.  Conflict Management and Peace Science 15 (2): 133-161.
Senese, Paul D. and John . Vasquez.  (2008) The Steps to War: An Empirical Study.  Princeton: Princeton University Press.
Shinn, Rinn-Sup.  (1989) Government and Politics.  Trong quyển Thailand: A Country Study, biên tập bởi Barbara Leitch Lepoer..   Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Silverstein, B., and R. R. Holt.  (1989) Research on Enemy Images: Present Status and Future Prospects.  Journal of Social Issues 45 (2): 159-175.
Thompson, William R.  (1995) Principal Rivalries.  Journal of Conflict Resolution 39 (2): 195-223.
Thompson, William R.  (2001) Identifying Rivals and Rivalries in World Politics.  International Studies Quarterly 45 (4): 557-586.
Turley, William S., and Jeffrey Race.  (1980) The Third Indochina War.  Foreign Policy 38 (Spring): 92-116.
Vasquez, John A.  (1993) The Steps to War.  Cambridge: Cambridge University Press.
Vasquez, John A., and Mary T. Henehan.  (2001) Territorial Disputes and the Probability of War, 1816-1992.  Journal of Peace Research 38 (2): 123-138.
Vasquez, John Ạ, and Brandon Valeriano.  (2008) Territory as a Source of Conflict and a Road to Peace.  Trong quyểnSage Handbook on Conflict Resolution, đồng biên tập bởi Jacob Bercovitch, Victor Kremenyuk and I. William Zartman.  Newbury Park: Sage Publications.
Walter, Barbara F.  (2003) Explaining the Intractability of Territorial Conflict.  International Studies Review 5 (4): 137-153.
Weatherbee, Donald E.  (2008) Historical Dictionary of United States – Southeast Asia Relations.  Lanham: The Scarecrow Press.
Wendt, Alexander.  (1999) Social theory of International Politics.  Cambridge: Cambridge University Press.
Wilson, David A. (1970) The United States and the Future of Thailand.  New York: Praeger.
Womack, Brantly.  (2006) China and Vietnam: The Politics of Asymmetry.  Cambridge: Cambridge University Press.
____
NguồnDavid R. Dreyer, One Issue Leads to Another: Issue Spirals and the Sino-Vietnamese War, Foreign Policy Analysis (2010) 6, 297-315.

 Ngô Bắc dịch và phụ chú
13/12/2010