Rất nhiều món đồ độc của gốm Cây Mai, gốm Biên Hòa và gốm Lái Thiêu đã theo chân chủ nhân chúng - những nhà sưu tập lâu năm chuyên dòng gốm Nam bộ - về Bình Quới (TPHCM) trong một cuộc hội ngộ hiếm hoi mới đây.












Kỳ 6: Mấy ai học được chữ ngờ ?
Không ngờ:
Ném khỏi tam thiên
cả trái núi lớn,
nhưng bồng bóng mình
bồng mãi không lên.
Chẳng ai ngờ vương phi Đao Bạch Phượng, một phu nhân cao quý "kiều diễm như một đóa sơn trà" lại ngã vào vòng tay một gã ăn mày hôi hám, người đầy vết thương và ruồi nhặng như Đoàn Diên Khánh.
Duyên do cũng vì ghen với chồng là Đoàn Chính Thuần, có số đào hoa với quá nhiều người tình, mà ra. Nàng oán hận, lẩm bẩm một mình như nói với chồng: "Ta đã tha thứ cho ngươi hết lần này đến lần khác, bây giờ không thể tiếp tục tha thứ nữa. Ngươi có lỗi với ta, ta cũng sẽ có lỗi với ngươi. Ngươi đi tìm người khác, ta cũng sẽ đi tìm người khác (…). Ta nên tìm một kẻ xấu xí, ô uế nhất thiên hạ để hiến thân. Ngươi là Vương gia, là Đại tướng quân, ta lại càng nên đối xử tốt với gã hành khất bẩn thỉu này" (1). Rồi nàng không nói gì, dưới gốc bồ đề chùa Thiên Long "từ từ trút bỏ y phục, đến trước mặt Đoàn Diên Khánh, chui vào lòng lão, đưa hai cánh tay như hoa như ngọc quàng lấy cổ lão (…). Nữ lang áo trắng đứng dậy lâu rồi, Đoàn Diên Khánh vẫn còn tưởng mình nằm mơ, chẳng hiểu chuyện thật hay giả. Thần trí lão vẫn hồ đồ, nghĩ rằng đây là Bồ Tát giáng trần. Mũi lão vẫn còn phảng phất ngửi thấy mùi hương nhẹ nhàng của nàng. Lão nghiêng đầu đi, lấy tay viết xuống đất bảy chữ: “Nàng là Quan Thế Âm tóc dài?". Lão viết bảy chữ này để hỏi nữ lang, thấy nàng gật gật đầu, rồi đột nhiên, mấy hạt châu nhỏ xuống bên dòng chữ. Không hiểu đó là nước mắt của nàng hay nước cam lồ của Quan Âm vẩy ra" (2).
Cái chẳng ai ngờ nữa, là gã ăn mày Đoàn Diên Khánh kia lại là hoàng thái tử của nước Đại Lý, do một biến loạn ở triều đình, đã phải lao vào gió bụi. Sau nhiều chuyện không may khác, y lê tấm thân tàn tạ, cố vươn lên. Nhưng những bi đát ngày càng bủa vây. Y lại càng vùng vẫy, trở thành đệ nhất ác nhân giang hồ. Nhưng khi sắp xuống tay giết Đoàn Dự, y bỗng nghe tiếng Đao Bạch Phượng ngâm nga: Ngoài chùa Thiên Long. Dưới gốc bồ đề. Hành khất phương xa. Quan Âm tóc dài, thì nghĩ đến chuyện cũ năm xưa, lúc tình cờ được vương phi hiến thân, rồi biết Đoàn Dự là con mình...
Những cái không ngờ vẫn đầy dẫy. Anh hùng hảo hớn như Kiều Phong có lúc phải khóc vì "ngày mình lên kế vị Bang chúa, ân sư lại ngấm ngầm viết đạo huấn dụ (về trường hợp nếu Kiều Phong thân Liêu phản Hán, giúp Khất Đan để hiếp đáp Đại Tống thì phải lập tức hạ sát ngay)"(3). Hoặc những chuyện bất ngờ xảy đến mà ngay cả người thọ nhận không hề biết trước. Như Lệnh Hồ Xung lúc võ công đột biến lên mức thượng thừa "người còn lơ lửng trên không, thừa thế rút trường kiếm ở sau lưng tiện tay phóng ra. Cổ tay chàng vừa rung động đã nghe đánh "cách" một tiếng. Thanh trường kiếm tra vào vỏ rồi, chân trái chàng cũng vừa chấm đất. Chàng ngẩng nhìn lên thấy năm chiếc lá liễu ở trên không đang từ từ bay xuống. Nguyên vừa rồi chàng phóng nhát kiếm đó dĩ nhiên đã phân biệt đâm trúng vào năm cuống lá liễu", Lệnh Hồ Xung lại rút kiếm khoa thành một đường hình cánh cung "kiếm quang vừa lấp loáng lóe mắt, năm chiếc lá liễu đều đã thu vào trên mặt lưỡi kiếm" (4).
Kiếm pháp tuyệt diệu như thế thật "khó hiểu khó tin". Như có bạn đọc trách tác giả "bịa đặt ghê gớm quá". Chỗ này, Vương Trí Nhàn viết: "lối thưởng thức văn chương trong sự ràng buộc với cái thực đã thâm căn cố đế ở nhiều người, và suy nghĩ về vấn đề này người ta thường vẫn bị các bậc thầy của văn học phương Tây ám ảnh. Rằng, tác phẩm này diễn tả thành phố Paris đúng đắn từng chi tiết. Rằng, trong tác phẩm kia, có những tài liệu có thể dùng làm dữ kiện tham khảo cho các nhà nghiên cứu kinh tế. Kể ra, đó cũng là những nhận xét xác đáng, có điều, nếu coi đó là phương hướng duy nhất để văn học đi theo thì không đúng" (5). Khó tìm ra những cái "duy nhất" làm mẫu mực cho các loài. Hoa, cũng có hoa cúc, hoa kim ba tuần. Người, cũng có người thiện, kẻ ác. Cái thiện là đáng quý. Cái ác đương nhiên phải bị bài trừ, lên án. Song cũng đừng đẩy cái ác đến mặt đối lập tuyệt đối với những tiêu chuẩn của cái thiện. Mà đặt nó trong bối cảnh xuất phát các hành vi để xem xét và hóa giải nó. Nên con đường trung đạo cuối cùng đã thức tỉnh bước chân của Tạ Tốn vốn để về lại chân tâm của mình sẵn có, chứ không phải bắt đầu học những bài vỡ lòng trong các giáo điều, văn tự. Vì dù học nghìn pho kinh con người vẫn không thể thuộc làu làu trôi chảy, chính xác bằng một máy ghi âm. Nhưng máy ghi âm dẫu in tám vạn bốn nghìn pháp môn của ba nghìn thế giới vẫn mãi mãi không thể biến thành người, huống hồ thành bậc vô sư. Những bức thư tình hay nhất thế giới cũng không thể giúp một trái tim tan vỡ trở nên lành lặn. Chúng có giá trị thực sự trong đời sống chỉ khi được sử dụng như thế nào để góp sức mở cửa một tâm hồn. Do vậy cần có những tác duyên sống động ngoài văn tự, giáo điều, như tiếng trẻ khóc trên hoang đảo, tiếng gọi cha đằm thắm bất ngờ, hoặc tiếng một người phụ nữ cất lên đúng lúc, một cành cây gãy, một đóa hoa rơi, một tiếng hét, một tách trà bị đánh vỡ, hoặc đôi khi - một niềm im lặng miên man...
Người ta yêu nhau cũng vậy. Những tác duyên lặng lẽ đưa họ bước vào thế giới của "hai người". Những cuộc chia ly của họ có thể được hẹn hò gặp gỡ ở một nơi khác, xa hơn mặt đất này. Ngược lại, dầu ở mặt đất, những người không biết yêu khó mà biết sống như Đỗ Long Vân viết: "Cái tên Bất Hối mà Kỷ Hiểu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình có lẽ đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung Phục sẽ bị trừng trị đến hóa điên, không phải vì tham vọng của chàng quá lớn, mà tại vì chàng là nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết thế nào là tình yêu".
---------------------
* (1) và (2): Thiên long bát bộ, Kim Dung. Đông Hải dịch, NXB Văn học, Hà Nội 2003.
* (3) và (4): Hàn Giang Nhạn tiên sinh dịch. Xin lưu ý, những câu trích từ Cô gái đồ long trong các bài trước là theo bản dịch của Từ Khánh Phụng, không phải của Hàn Giang Nhạn như chú thích ở kỳ 1 của loạt bài.
* (5): Kim Dung - tác phẩm và dư luận (nhiều tác giả). Trần Thức sưu tầm và tuyển chọn, NXB Văn học và Công ty Văn hóa Phương Nam ấn hành, 2001.
Kỳ 5: Lăng Sương Hoa: sống và chết bên hoa
Sớm nhìn hoa nở
Tối mơ thấy người
Mỗi đóa hoa tươi
Một vời vợi nhớ
Đến như hoa có mặt suốt cuộc tình của Lăng Sương Hoa, với ý nghĩa và vị trí đặc biệt "thăng hoa" trong tiểu thuyết Liên thành quyết, ngay từ buổi "khai hoa" của mối tình giữa nàng với giang hồ khách Đinh Điển.
Ở đó, hoa đã thay mặt nói lên tiếng nói nhớ thương của người tình ngoài cửa ngục, gửi đến người yêu bị xiềng xích bên trong. Rồi hoa lặng lẽ thở dài bên tro xương tàn tạ của hai người trong đoạn cuối. Mở đầu, họ gặp nhau trong một hội hoa. Đinh Điển trao hoa cho Lăng Sương Hoa và bảo hoa đó rất lâu tàn: "mỗi lần ngắm hoa hãy kể như có Đinh Điển trước mặt". Tuy muốn mãi gần người tặng hoa, như màu hoa và cánh hoa không tách rời nhau, nhưng tri phủ Kinh Châu Lăng Thoái Chi, cha của Lăng Sương Hoa, ngăn cấm, chia cách họ. Vì dưới mắt ông, Đinh Điển thuộc hàng giang hồ trôi giạt như mây, không xứng với Lăng Sương Hoa là tiểu thư, hoa khôi vùng Vũ Hán. Nghe tin Đinh Điển nắm bí mật của kho tàng mà mình đang ham muốn, tìm kiếm, tri phủ họ Lăng mời Đinh Điển đến để bàn chuyện tác hợp mối duyên với con gái mình, nhưng thật ra ông ta đã dùng hoa độc làm thuốc mê bắt giam Đinh Điển, tra tấn hòng chiếm đoạt Liên thành quyết để giải mã bí ẩn về kho tàng và môn Thần chiếu công. Đinh Điển nhìn qua cửa ngục thường ngày thấy hoa trên cửa phòng của tiểu thư Lăng Sương Hoa vẫn tươi, biết là hoa ấy tươi vì mình, nở cho mình, là tín hiệu tình yêu không tàn của nàng. Đoạn này, Huỳnh Ngọc Chiến liên tưởng khá thú vị: "Cảnh đưa tin của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa giống như anh chàng Hời trong chuyện Tô Hoài. Một người ngồi dệt vải, khi nghe mùi hương thoang thoảng lan trong cảnh đêm thanh tĩnh của cánh hoa lài ném qua cửa sổ, là biết đã đến giờ hẹn với người yêu" và "chỉ có một sự hòa điệu của cung bậc tri âm trong tình yêu chân chính mới có thể giúp người con gái xinh đẹp (Lăng Sương Hoa) làm một điều mà cả thượng đế cũng phải bàng hoàng", đó là hủy hoại nhan sắc, trở nên xấu xí, để không ai muốn cầu hôn nữa và giữ chung thủy với Đinh Điển đến chết trong sầu muộn. Đinh Điển được thả khỏi nhà giam đến bên quan tài của nàng vốn đã bị tri phủ họ Lăng dùng chất độc của hoa kim ba tuần rải lên. Đinh Điển chết, tro tàn được hợp táng cùng mộ nàng Hoa. Có thể nói, chuyện tình này là một trong những chuyện lãng mạn đậm đà mà Kim Dung đã viết và đem vào thế giới võ hiệp của ông mùi hương của một loài "hoa tình yêu" mới, nhưng vẫn mang cái tên khai sinh thanh khiết và quen thuộc đặt cho người là: Hoa.
Những chuyện tình như vậy trong thế giới võ hiệp Kim Dung đến với bạn đọc Việt Nam khá sớm. Cuối những năm của thập niên 1960, đã có một số tác giả như Đỗ Long Vân, Bửu Ý hoặc Bùi Giáng viết về Kim Dung qua các bài phê bình, sáng tác của mình. Trong đó, nhận định về chữ Tình (và các đề tài triết học, văn học khác) trong tác phẩm Kim Dung đến nay vẫn được nhiều bạn đọc tâm đắc, là của nhà nghiên cứu Đỗ Long Vân với Vô Kỵ giữa chúng ta (viết cách đây hơn 38 năm, NXB Trình Bày 1967). Theo đó, các nhân vật của Kim Dung đã thường xuyên tự tra vấn, xét lại những thành kiến và những quyết định mà họ trót bị cột chặt vào đó, cho nên "người nào cũng có một đời sống bên trong sôi động". Và bên ngoài cái phong cách tàn bạo giang hồ thì "nhân vật nào trong Kim Dung lại không đa sầu, đa cảm và đa tình?". Như Hoàng Dược Sư thủy chung với người vợ sớm qua đời đã "cất tiếng sáo trên nước biếc, một mình một chiếc thuyền, ông đi khắp bốn bể tìm con".
Từ đề dẫn trên, Đỗ Long Vân viết: "Cái tình là tiếng nói của cái phần sâu xa nhất trong mỗi người", tuy cái tình đó khó biểu lộ và khá lạnh lùng giữa quan hệ của "các vai trò xã hội" nhưng nó lại bùng phát tự nhiên, ấm áp, hoặc nóng bỏng một khi "hai nhân vật khám phá ra nhau". Ví dụ khi Trương Thúy Sơn thuộc danh môn chánh phái Võ Đang thấy rằng Hân Tố Tố "không giống hẳn cái ảnh tượng mà ba tiếng nữ ma đầu gợi ra trong đầu chàng thì cái tình giữa hai người đã bắt đầu". Điều khác nơi các nhân vật của Kim Dung so với chuyện võ hiệp cổ điển là họ dám phá vỡ những khuôn khổ chật hẹp của các quan niệm cũ. Trước họ, chữ Tình "chỉ định một tương quan ngoại tại, ước lệ và trừu tượng, quy định bởi thứ bậc xã hội và những tiêu chuẩn đạo lý" nên khó có mối tình nào nảy nở đơm bông giữa hai người Tà môn và Chính giáo. Đến Kim Dung "cái tình là tinh hoa của năng tính" có sức mạnh chuyển hóa các mâu thuẫn nội tại cũng như những "giới hạn giả tạo" do con người đặt ra ngoài xã hội. Cái tinh hoa đó tự phát tiết mang lại những sắc thái của tình yêu mà Đỗ Long Vân đúc kết như sau: "Tri kỷ như giữa Hoàng Dung và Quách Tĩnh, thần tiên như giữa Dương Qua và Tiểu Long Nữ, ác độc như giữa Du Thản Chi và A Tỷ. Có những mối tình trưởng thành trong sự chia sẻ những nguy hiểm và gian khổ chung, và những mối tình như của Hân Ly với Vô Kỵ kết tinh từ một kỷ niệm nhỏ thuở thiếu thời. Lại có những mối tình sét đánh, như Đoàn Dự vừa trông thấy Vương Ngọc Yến là tưởng như tất cả những nhan sắc khác đều bị xóa nhòa. Những người yêu thì có kẻ đào hoa như Đoàn Chính Thuần, phụng hiến như Đoàn Dự, ngây thơ như Hân Ly, đau khổ như Chu Chỉ Nhược, dịu dàng như A Chu, nhưng người nào cũng yêu đắm đuối như đã gặp trong người mình yêu một cái gì không thể gặp được lần thứ hai ở trên đời". Tới đây chúng ta hãy đến với mối tình nở hoa giữa Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Kết quả của mối tình này khác hoàn toàn với mối tình sầu muộn của Lăng Sương Hoa viết ở đầu bài. Tiểu Long Nữ là người dạy võ nghệ cho Dương Qua nên đứng về vai vế là sư phụ của Dương Qua. Vì thế trong khuôn khổ trật tự truyền thống, hai người không thể "yêu nhau" được... Nhưng họ đã vượt qua rào cản đó để đến với nhau. Tình yêu của họ nảy mầm từ một thế giới cách biệt với người đời - hồn nhiên như mây gặp gió trên trời. Như Tiểu Long Nữ từ trong cổ mộ bước ra và Dương Qua từ cõi mồ côi vắng vẻ đến gặp nàng. Khi Tiểu Long Nữ bị kẻ khác chiếm đoạt trinh tiết, Dương Qua không coi đó là hố sâu ngăn cách. Khi Dương Qua bị chém cụt cánh tay, thành tàn tật, Tiểu Long Nữ không bị ám ảnh bởi "khiếm khuyết" đó của người yêu. Họ sẵn sàng đổi sinh mạng của người này cho sự sống người kia. Suốt 16 năm xa cách, lúc nào họ cũng nghĩ đến nhau. Gặp lại bên bàn tiệc của Cái bang, trước mặt đông đảo giới giang hồ, họ vẫn ngồi kề bên nhau chuyện trò, thắm thiết. Vượt qua những cái nhìn khắt khe, không ám ảnh bởi sự thất tiết, tật nguyền, được thử thách bởi sự phân ly, sinh tử, để cuối cùng họ sống bên nhau, thiết lập "một cõi riêng" bềnh bồng trong thế giới đầy định kiến của con người. Chuyện tình của họ đến nay vẫn được nhắc đến bởi nhiều cây bút Việt Nam. Những năm gần đây, đã xuất hiện thêm các chuyên luận, bài viết và bản dịch của các tác giả: Ông Văn Tùng, Cao Tự Thanh, Phạm Tú Châu. Vũ Đức Sao Biển, Lê Khánh Trường, Huỳnh Ngọc Chiến, Nguyễn Thị Bích Hải... Trong đó Ngoài trời lại có trời của Vương Trí Nhàn gợi mở "một cách nhìn khác xưa" như thế nào về tiểu thuyết Kim Dung?
Hồng Hạc
Kahlil Gibran | |
Nguyễn Ước dịch Lời người dịch: Trên vách nhà của nhiều người Mỹ có treo tấm lắc ghi câu cố Tổng thống John F. Kennedy kêu gọi đồng bào Hoa Kỳ của ông và các công dân thế giới, trong diễn văn nhậm chức ngày 20.1.1961: “Ask not what your country can do for you, but ask what you can do for your country.” (Ðừng hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước.) Lời phát biểu bất hủ ấy lần đầu tiên xuất hiện trong một bài thơ xuôi của Kahlil Gibran, viết bằng tiếng Arập, khoảng thập niên 1920, mà nhan đề của nó, theo Joseph Sheban, có thể dịch sang tiếng Anh là The New Deal(Đối xử mới) hoặc The New Frontier (Biên cương mới). Kahlil Gibran (1883-1931) là thi sĩ và họa sĩ người Mỹ gốc Liban. Cùng gia đình di dân sang Gibran để lại hàng trăm bức họa và khoảng 30 tác phẩm viết bằng tiếng Arập hoặc tiếng Anh. Với cung giọng ngôn sứ đầy chất thơ, tác phẩm của Kahil Gibran như một dòng chảy tổng hợp các suối nguồn Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Các bài trường đoản cú hay các bài thơ xuôi của ông cao nhã, ngôn từ trang trọng, với hình ảnh con người hướng thượng, chiêm nghiệm, và dấn thân, kèm theo những cái nhìn thấu suốt vào các chủ đề của cuộc sống, được diễn tả bằng thuật ngữ tâm linh. Tuyệt phẩm The Prophet (Ngôn sứ) của Gibran xuất bản lần đầu năm 1923, được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và là một trong các sách bán chạy nhất tại Mỹ trong thế kỷ 20. The Prophet gồm 26 tiểu luận bằng thơ xuôi, ứng xử chuyên biệt với các chủ đề trong cuộc sống. Nó đặc biệt nổi bật trong thập niên 1960 với hai trào lưu Thời đại Mới (New Age) và Phản Văn hóa (Counter-culture), đồng thời tinh thần Biên cương mới góp phần tạo cảm hứng cho các phong trào thiện nguyện viên quốc tế, các tổ chức bất vụ lợi (NGO) hoạt động văn hóa, xã hội, y tế… trên khắp thế giới. Với Kahil Gibran, “Lịch sử chỉ lặp lại chính nó trong tâm trí những kẻ không biết lịch sử” (History does not repeat itself except in the minds of those who do not know history), và “Một nửa những gì tôi viết là vô nghĩa, nhưng tôi nói nửa ấy ra để nửa kia có thể với tới bạn” (Half of what I say is meaningless, but I say it so that the other half may reach you). Một số câu truyện và bài viết của Gibran bảy tám chục năm trước đã thuộc về lịch sử, nhưng một số khác vẫn mang tính đương đại, vượt thời gian và thích hợp với hoàn cảnh chính trị và văn hóa thời nay, trong đó có thể kể luôn cả Việt Nam. Có lẽ nhờ thế từ sau khi Gibran qua đời, ảnh hưởng của ông ngày càng lan rộng từ lãnh vực hội họa, triết học, văn học cho tới môi sinh, tại các đại học Hoa Kỳ và Trung Ðông, Unesco, các giải thưởng quốc tế mang tên ông… Tại Nam Việt trước năm 1975, có ít nhất năm tác phẩm của Kahil Gibran được dịch ra tiếng Việt và xuất bản. Cuốn The Prophet có hai bản dịch: Kẻ tiên tri và Mật khải. Bài thơ xuôi dưới đây dịch từ bản tiếng Anh của Joseph Sheban, trích từ cuốn A Third Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng thứ ba của Kahlil Gibran) do Andrew Dib Sherfan biên tập và giới thiệu, Nxb The Citadel Press, Secaucus, New Jersey, HK, tái bản lần thứ ba năm 1975, tt. 52-57. ______________ Biên cương mới Kahlil Gibran Ở Trung Ðông ngày nay có hai ý tưởng cũ và mới đang thách thức nhau. Những ý tưởng cũ rồi sẽ biến mất vì chúng yếu ớt và kiệt quệ. Ở Trung Ðông đang có cơn bừng tỉnh xem thường những giấc ngủ say. Cơn bừng tỉnh này sẽ lướt thắng vì mặt trời là thủ lãnh và bình minh là đạo binh của nó. Trên các cánh đồng Trung Ðông, nơi bao la đất nghĩa trang, đứng lên tuổi trẻ của mùa Xuân, cất lời kêu gọi những ai cư ngụ trong mộ đá hãy trỗi dậy và tiến về những biên cương mới. Khi mùa Xuân ngân lên nhịp điệu của nó cũng là lúc thần chết vươn vai, trải tấm vải liệm và cất bước chân đi. Nơi chân trời Trung Ðông cơn bừng tỉnh mới đang dâng cao và trải rộng, chạm tới và bao phủ mọi linh hồn mẫn tuệ và nhạy cảm, thấm sâu và thu phục thiện cảm của những con tim cao nhã. Trung Ðông ngày nay có hai chủ nhân. Một là người quyết định, ra lệnh và được vâng lời; nhưng kẻ đó đang lâm vào thời điểm tử vong. Còn chủ nhân kia dù im tiếng tuân giữ luật lệ và trật tự, trầm lặng trông chờ công lý; nhưng là người khổng lồ đầy quyền năng, biết rõ sức mạnh của mình, tự tin vào sự hiện hữu của mình và tin tưởng định mệnh của mình. Ở Trung Ðông ngày nay, có hai loại người: một của quá khứ và một của tương lai. Bạn là con người nào trong hai loại đó? Hãy tới sát bên tôi để tôi nhìn bạn, và hãy cho tôi được bảo đảm, bằng diện mạo và hạnh kiểm của bạn, rằng bạn là người cất bước tiến về nơi ánh sáng hay là kẻ đang đi vào chốn tối tăm. Hãy tới kề bên tôi, nói cho tôi biết bạn là ai và bạn làm gì. Có phải là bạn là kẻ làm chính trị đang hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn, hay bạn là người nhiệt tình đang hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước? Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là ký sinh trùng; nếu là người thứ hai, thế thì bạn đang là ốc đảo trong sa mạc. Có phải bạn là một thương buôn đang sử dụng những cần thiết của xã hội cho các nhu cầu của cuộc sống mình, cho lợi nhuận độc quyền và phi lý, hay bạn là người siêng năng giản dị, cần cù lao động, sẵn lòng cho sự đổi chác giữa thợ dệt và nông dân, và có phải bạn đang đòi lợi nhuận hợp lý như một người trung gian giữa hai phía cung cầu? Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là phạm nhân dù đang sống trong lâu đài biệt thự hay chốn lao tù. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là người từ tâm cho dẫu bạn được dân chúng cảm tạ hoặc bị họ đấu tố. Có phải bạn là nhà lãnh đạo tôn giáo đang đan dệt cho hình hài mình chiếc áo chùng tu sĩ xuất từ sự vô minh của dân chúng, đang nặn đúc chiếc mũ miện cho mình xuất từ sự chất phác của tâm hồn dân chúng, và đang giả vờ ghét cái ác chỉ vì muốn sống dựa vào lợi tức của mình? Hay có phải bạn là người ngoan đạo và tận hiến, đang tìm thấy trong lòng mộ đạo của cá nhân mỗi người nền tảng cho một đất nước tiến bộ, và có thể thấy xuyên qua cuộc tìm kiếm sâu xa trong thăm thẳm linh hồn mình chiếc thang dẫn lên linh hồn vĩnh cửu, cái định hướng cho thế giới? Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là tên dị giáo, không tin vào Thượng đế dù đang ăn chay ban ngày và cầu nguyện ban đêm. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là cây hoa tím trong vườn chân lý cho dẫu mùi thơm thất lạc trên cánh mũi của loài người, hoặc cho dẫu hương thơm tỏa vào không khí hiếm hoi ở đó mùi hương của các đóa hoa được giữ gìn. Có phải bạn là người làm báo, đang bán ý tưởng và nguyên tắc của mình trong ngôi chợ nô lệ, và sống trên sự khốn khó của dân chúng, như kên kên chỉ sà cánh xuống các thây ma động vật thối rữa? Hay có phải bạn là nhà giáo trên bục giảng của đô thị, đang thu thập kinh nghiệm từ cuộc sống và trình bày cho dân chúng theo những bài giảng bạn từng học được? Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là vết thương và mụt nhọt. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là thuốc xoa dịu chỗ đau và là dược phẩm. Có phải bạn là người cai trị đang tự hạ trước kẻ bổ nhiệm mình, xem thường những ai bị mình cai trị, và chưa hề nhấc bàn tay trừ phi để với tới các chiếc túi, cũng như không bao giờ cất chân bước tới trừ phi để nghênh đón cấp trên? Hay có phải bạn là người đầy tớ trung thành chỉ phục vụ cho phúc lợi của dân chúng? Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn như bao bì khấu trừ trong sân đập lúa của quốc gia; và nếu là người thứ hai, thế thì bạn là phúc lành trên các kho lẫm. Có phải bạn là người đang cho mình được làm điều mình không cho phép vợ làm, bỏ nàng sống quạnh hiu với chiếc chìa khóa bạn nhét kỹ trong chiếc ủng của mình, và đang tham lam ăn nhậu, nhồi nhét các thức ăn mình ưa chuộng trong khi nàng ngồi đó với chiếc đĩa trống không? Hay có phải bạn là người bạn đời chỉ hành động khi sóng đôi tay trong tay hoặc không làm điều gì nếu nàng chưa đưa ý nghĩ và ý kiến của riêng nàng, và cùng chia sẻ với nàng hạnh phúc và thành công của bạn? Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là một tàn dư của bộ lạc, đang khoác lớp da của loài sinh vật đã biến mất rất lâu trước ngày rời hang động; và nếu bạn là người thứ hai, thế thì bạn là lãnh đạo của một đất nước đang chuyển động trong rạng đông tới ánh sáng của công lý và minh triết. Có phải bạn là một nhà văn đang chỉ tìm kiếm trong sự tự ngưỡng mộ, giữ cho mình ở mãi trong thung lũng quá khứ bụi bặm, nơi các thời đại vứt lại tàn dư y trang và các ý tưởng vô dụng? Hay bạn là người suy tư sáng sủa, đang xem xét điều tốt lành và hữu ích cho xã hội, và trang trải đời mình trong cuộc xây dựng những gì mang lại lợi ích và hủy diệt những gì gây tổn hại? Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn nhu nhược và rồ dại; và nếu là người thứ hai, thế thì bạn là cơm cho những ai đang đói và nước cho những ai đang khát. Có phải bạn là một nhà thơ đang rung lục lạc nơi cửa nhà các tiểu vương gia hay tung hoa trong lễ cưới, và là kẻ bước đi trong đám tang với chiếc khăn thấm đẫm nước ấm trên cửa miệng, rồi được vắt bằng lưỡi cùng môi mình ngay lúc vừa đặt chân tới nghĩa trang? Hay có phải bạn là tặng phẩm Thượng đế đặt trong đôi bàn tay bạn, nơi dạo lên những khúc nhạc tuyệt trần, nâng tâm hồn chúng tôi tới những tuyệt vời trong cuộc sống? Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là gã làm trò tung hứng, đang gợi lên trong lòng chúng tôi điều ngược lại những gì bạn dự tính. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là tình yêu trong con tim của chúng tôi và là khải thị trong tâm trí của chúng tôi. Ở Trung Ðông đang có hai đám rước: một của dân chúng già nua bước đi với những chiếc lưng cong, được nâng đỡ bởi những chiếc gậy cong; họ phì phò thở dù đang trên đường bước xuống đồi. Hai là đám rước của những người trẻ trung, chạy như bằng đôi chân có cánh và hân hoan như trong thanh quản có sợi tơ đàn; họ vượt qua các chướng ngại như thể đang có nam châm hút họ lên sườn núi và đang có ma thuật mê hoặc trái tim họ. Bạn thì sao, bạn muốn mình chuyển động trong đám rước nào? Bạn hãy tự hỏi và lắng mình suy tưởng khi vẫn còn đêm, hãy thấy cho ra mình là nô lệ của hôm qua hay giải thoát cho ngày mai. Tôi nói với bạn rằng con cái của các năm qua đang bước đi trong đám ma của một kỷ nguyên do chúng tạo ra cho chính chúng. Chúng đang níu kéo sợi thừng mục nhão hẳn sẽ sớm đứt và khiến chúng rơi xuống vực thẳm lãng quên. Tôi nói cho biết rằng chúng đang sống trong những ngôi nhà nền móng suy sụp - nhà của chúng sẽ đổ ập xuống đầu chúng, và như thế sẽ trở thành huyệt mộ của chúng. Tôi nói cho biết rằng hết thảy các ý nghĩ của chúng, các lời nói của chúng, các tranh cãi của chúng, các sáng tác phẩm của chúng, các cuốn sách của chúng và toàn bộ công trình của chúng đều chỉ là những dây xích quá yếu ớt chúng lê theo, không đủ sức kéo khối nặng của chính chúng. Nhưng con cái của ngày mai là những người được cuộc đời kêu gọi. Họ đi theo nó với đầu ngẩng cao và bằng bước chân chắc nịch. Họ là rạng động của những biên cương mới, không khói sương nào che phủ được họ, không tiếng loảng xoảng của xiềng xích nào nhấn chìm nổi tiếng nói của họ. Họ ít ỏi về số lượng nhưng khác với đống cỏ khô, họ là hạt lúa giống. Chẳng ai biết họ nhưng họ biết nhau. Họ giống những đỉnh núi có thể thấy nhau và nghe nhau, không như những cái hang chẳng bao giờ có thể nghe và thấy. Là hạt giống gieo bởi bàn tay Thượng đế trên cánh đồng, họ sẽ xuyên thủng vỏ và đong đưa chiếc lá tươi non trước vầng thái dương. Rồi sẽ lớn thành cây mạnh mẽ với rễ cắm sâu trong lòng đất và cành vươn lên giữa trời cao. |