Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa-Nghệ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa-Nghệ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

ĐÔI NÉT VỀ GỐM NAM BỘ


Rất nhiều món đồ độc của gốm Cây Mai, gốm Biên Hòa và gốm Lái Thiêu đã theo chân chủ nhân chúng - những nhà sưu tập lâu năm chuyên dòng gốm Nam bộ - về Bình Quới (TPHCM) trong một cuộc hội ngộ hiếm hoi mới đây.


Quá trình khai phá vùng đất mới Nam Bộ từ thế kỷ XVII cũng là quá trình hình thành một loại gốm mới, khác với gốm Bắc bộ (như gốm Chu Đậu, Bát Tràng…) hay Trung bộ (như gốm Gò Sành…). Gốm Nam bộ - như giới sưu tầm cổ vật hiện nay định danh - là lọai gốm sản xuất ở khu vực xóm lò gốm Sài Gòn xưa, trong đó có khu lò Cây Mai nổi tiếng, cùng các lò gốm ở Biên Hòa (Đồng Nai) và Lái Thiêu (Bình Dương), niên đại khỏang từ thế kỷ XVIII và phát triển nhất từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.  Có thể nhận biết một số đặc điểm của lọai gốm này:
- Gốm Nam bộ phát triển mạnh mẽ và sớm trở thành hàng hóa cung cấp cho một thị trường rộng lớn chứ không chỉ tự cung tự cấp trong một địa bàn nhỏ. Gốm Nam bộ có tính chất bình dị và phổ biến: từ dân thường đến nhà giàu có đều có thể mua và sử dụng các lọai sản phẩm gốm Nam bộ.
- Chức năng phổ biến của Gốm Nam bộ là gốm gia dụng, sinh họat, đồ thờ cúng trong đình chùa, gốm trang trí kiến trúc... Trang trí hoa văn cũng giản dị, gần gũi với cuộc sống người bình dân. Những sản phẩm mang tính mỹ thuật cao thì cũng có chức năng sử dụng thật sự chứ không chỉ là tác phẩm „mỹ nghệ” để trưng bày ngắm nghía.
- Gốm Nam bộ thể hiện sự giao lưu tiếp nhận rất nhanh về kỹ thuật sản xuất, mẫu mã mới, với những chức năng mới, thích nghi với lối sống và sinh họat mới.

Xóm lò gốm Sài Gòn xưa. Trên bản đồ Phủ Gia Định do Trần Văn Học vẽ năm 1815 có ghi địa danh “Xóm Lò gốm” – một trong những làng nghề nổi tiếng của Sài Gòn xưa, gồm các làng cổ Phú Giáo - Gò cây Mai, làng Phú Định – Phú Lâm, làng Hòa Lục… mà ngày nay thuộc quận 11, quận 6 và quận 8. Khu vực này bây giờ vẫn còn kênh – rạch Lò Gốm và những địa danh liên quan đến nghề làm gốm như (đường) Lò Siêu, (đường) Xóm Đất, cầu Lò Chén… Tên Lò Gốm này đã ghi trong sách Gia Định thành thông chí (1820) “Từ năm 1772 con kênh Ruột Ngựa được đào để nối liền từ Sa Giang ra phía Bắc đến Lò Gốm”. Như vậy, khu lò gốm chắc chắn đã khởi lập trước năm này. Dấu tích Xóm Lò gốm còn lại là khu vực gò Cây Mai (quận 11) và di tích lò gốm cổ Hưng Lợi (phường 16 quận 8).
Khai quật lò Hưng Lợi cho biết sản phẩm chủ yếu là đồ gia dụng: lu chứa nước (nên còn có tên là Lò Lu), các loại hũ men nâu men vàng, nhiều kiểu chậu, vịm, chậu bông kích thước khác nhau. Khỏang từ giữa thế kỷ XIX khu lò sản xuất những sản phẩm in tên “Hưng Lợi diêu” (Lò Hưng Lợi) gồm các loại đồ “bỏ bạch” (bên ngoài không tráng men) như: nồi có nắp và tay cầm (nồi lẩu), siêu nấu nước… Bên trong nồi và siêu có tráng men nâu chống thấm. Chậu bông bằng sành hình tròn hoặc hình lục giác, men nhiều màu, trang trí ô hoa văn “bát tiên” “tùng lộc” “mai điểu”… Từ đấu thế kỷ XX sản xuất các loại bát, đĩa, ấm, ly uống trà, chai, thìa, bình rượu, lư hương, thố có nắp… men trắng vẽ men lam; Có những chữ “Kim ngọc”, “Việt Lợi” trên muỗng, bình trà, ly nhỏ… có thể đó là tên tiệm bán đồ gốm đặt hàng. Ngòai ra còn sản xuất lọai chai gốm men trắng giống như chai thủy tinh. Sản phẩm lò Hưng Lợi làm bằng nặn tay, in khuôn, kết hợp bàn xoay. Hoa văn in khuôn, đắp nổi, chạm khắc, sau đó phủ hoặc tô men nhiều màu, thường là màu xanh đồng hay xanh lam, màu nâu hay đỏ.
Dấu tích khu lò gốm Cây Mai nằm ở sau chùa Cây Mai. Sản phẩm khu lò này gồm loại đồ gốm thông dụng có kích cỡ lớn, sản phẩm trang trí mỹ thuật, tượng đất nung và đồ sành men màu. Lọai sản phẩm độc đáo và đặc trưng của gốm Cây Mai sản xuất vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX là gốm men nhiều màu như trắng, xanh lam, xanh lục, nâu, vàng… gồm nhiều kiểu tô, chén, dĩa, muỗng, bình, cốc, đôn, chậu kiểng, lư hương, bát nhang, tượng thờ; gốm trang trí kiến trúc như long (rồng), voi, ngựa và các quần thể tiểu tượng.
Trên nhiều đồ gốm Sài Gòn còn ghi năm sản xuất và tên điếm (tiệm), diêu (lò), như : tượng Giám Trai ở chùa Giác Viên (quận 11), ở góc dưới bên phải có ghi “Đề ngạn, Nam Hưng Xương, Điếm Tố”, “Canh Thìn Trọng Đông Cát Đán Lập” (1880). Ở miếu Thiên Hậu (Quảng Triệu Hội quán - quận 1) trên quần thể tiếu tượng gốm ở phần sân miếu có những bảng gốm chữ nổi “Lương Mỹ Ngọc Điếm tạo” (tiệm Lương Mỹ Ngọc tạo), “Quang Tự Thập Tam Niên”(1887) và “Thạch Loan Mỹ Ngọc tạo” (lò Mỹ Ngọc ở Thạch Loan tạo), “Quang Tự Đinh Hợi Tuế (1887). Cũng ngay trên quần thể tiếu tượng này còn có những bảng gốm khác ghi “Đề Ngạn Bửu Nguyên Diêu tạo” (lò Bửu Nguyên ở Đề Ngạn làm), “Dân Quốc, Tân Dậu Trùng Kiến” tức trùng tu năm Tân Dậu, Trung Hoa Dân Quốc (1921). Chữ Diêu còn gặp ở một số di tích khác như ở đình Minh Hương Gia Thạnh (Quận 5), trên quần thể tiếu tượng bằng gốm có ghi “Mai Sơn, Đồng Hòa Diêu Tạo” (lò Đồng Hòa - Mai Sơn tạo), “Thiên Liên, Tân Sửu Niên Lập” (1901) hoặc ở miếu Thiên Hậu (Tuệ Thành Hội quán - quận 5) trên những quần thể tiếu tượng gốm trang trí trên nóc miếu có ghi “Bửu Nguyên Diêu Tạo”, “Mậu Thân Niên Lập” (1908); “Đồng Hòa Diêu Tạo” (lò Đồng Hòa tạo), “Quang Tự Mậu Thân”… 
Hiện nay, sản phẩm gốm Cây Mai vẫn còn được lưu giữ trong dân gian, trong các đình miếu, hội quán ở Nam Bộ với các sản phẩm dân dụng như: ơ, siêu, bát, bình, lu, hũ, thống có nắp, khạp có nắp, chậu tròn, chóe có quai, đôn tròn, đôn lục giác, lân, gạch trang trí hình vuông… Có thể nói gốm Sài Gòn đặc biệt phát triển vào nửa sau thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, sản phẩm được sử dụng không những ở Nam Bộ mà còn được ưa chuộng ở nhiều nơi khác nữa.

Gốm Biên Hòa.  Từ khỏang đầu thế kỷ XX vùng Sài Gòn – Chợ Lớn đô thị hóa khá nhanh, khu vực xóm Lò Gốm mất dần những ưu thế so với vùng gốm Biên Hòa, Lái Thiêu. Trường Mỹ nghệ Biên Hòa thành lập vào năm 1903 đã tập hợp được nhiều nghệ nhân làm gốm. Dần dần gốm Biên Hòa trở nên nổi tiếng . Gốm Biên Hòa thiên về trang trí hoa văn dày đặc bao quanh sản phẩm bằng phương pháp vẽ nét chìm hoặc lấy nét chìm kết hợp với trổ thủng để tạo hoa văn, sau đó tô men không có sự phân biệt giữa men và màu ve. Hoa văn trang trí hình rồng hay “cúc hóa long”, hoa mai… khá đặc sắc. Sản phẩm gốm Biên Hòa đa dạng bao gồm bình bông, hũ, lọ, chóe, chậu, đôn, đôn voi, bộ bàn ghế tròn, đèn lồng, đĩa trang trí, tượng voi, tượng lân, tượng người… Loại chóe men đen hoặc men nâu hoa văn khắc chìm sản xuất ở Biên Hòa còn cung cấp cho nhiều khu vực ở Tây Nguyên. Một loại sản phẩm gốm Biên Hòa vẫn được sản xuất nhiều là các loại lu đựng nước bằng đất nung không men.
Cho đến nửa sau thế kỷ XX gốm mỹ nghệ Biên Hòa vẫn được xuất khẩu đi Liên xô (cũ) và nhiều nước Đông Âu.

Gốm Lái Thiêu ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Gốm sứ Lái Thiêu có các trường phái (theo nguồn gốc của các chủ lò gốm) như  trường phái Quảng Đông sử dụng men nhiều màu chuyên sản xuất các tượng trang trí, các loại chậu, các loại đôn voi; trường phái Triều Châu sử dụng men xanh trắng chuyên sản xuất đồ gốm gia dụng như chén, đĩa, tô và các loại bình trà, bình rượu; trường phái Phúc Kiến sử dụng men màu đen, men da lươn, chuyên sản xuất chóe, lu, vại, hũ, vịm. Trong đó gốm men nhiều màu Lái Thiêu được sản xuất hàng lọat, hiện nay còn được lưu giữ khá nhiều trong dân gian, trong các bảo tàng cũng như trong các sưu tập tư nhân. Gốm men nhiều màu Lái Thiêu với nguồn nguyên liệu địa phương kết hợp với kỹ thuật truyền thống của người Hoa và cả người Việt đã tạo nên một dòng gốm men nhiều màu rất bình dị, dân dã mà cũng rất thanh thóat, độc đáo.

Hoa văn trang trí trên gốm Lái Thiêu có nhiều dạng khác nhau, thường theo xu hướng đồ án hóa, đường nét to, thô nhưng không vì thế mà kém trau chuốt, sinh động. Nội dung tranh vẽ lấy hoa lá làm thể chính, chiếm số lượng nhiều nhất là đồ án hoa mẫu đơn  được bố cục chặt chẽ: Mẫu Đơn với chữ Thọ; Mẫu Đơn Kê (hoa mẫu đơn với gà trống); Mẫu Đơn Điểu (hoa mẫu đơn với chim). Ngoài ra còn có các đồ án: Tùng Hạc, Hoa Lan, Hồng Điệp (hoa hồng với bươm bướm), Lý Ngư (cá chép), và vẽ Sơn Thủy phong cảnh hữu tình… Đặc biệt đồ án tranh “cát tường” với hình ảnh con gà trống trên tô, đĩa.. đã trở thành “thương hiệu” của gốm men màu Lái Thiêu.
Thị trường của gốm Nam bộ là cả miền Đông và Tây Nam bộ, thậm chí cả một phần Tây Nguyên và Campuchia. Trong nửa đầu thế kỷ 20 khi thương nghiệp Nam – Bắc phát triển mạnh thì gốm Nam bộ còn theo chân các thương nhân ra miền Bắc miền Trung, có mặt trong nhiều nhà giàu có và một số đình chùa... Nếu không xuất phát từ đặc điểm lịch sử - xã hội và đặc trưng văn hóa Nam bộ để nghiên cứu thì dễ quan niệm rằng, gốm Nam bộ không có giá trị đặc biệt, vì niên đại muộn và tính mỹ thuật không cao vì quá... bình dân.
Gần đây giới sưu tầm cổ vật đã tổ chức một cuộc Hội ngộ „Gốm Nam bộ”. Đây là một họat động của cộng đồng yêu thích cổ vật, do cộng đồng tổ chức và vì lợi ích của cộng đồng. Những họat động như thế này chính là thực hiện „xã hội hóa” việc bảo tồn di sản văn hóa, nhưng xuất phát từ cộng đồng chứ không trông chờ phụ thuộc vào sự tổ chức của nhà nước. Qua đó cộng đồng sưu tầm cổ vật cũng có dịp gặp gỡ trao đổi, nâng cao sự hiểu biết về cổ vật, giá trị của di sản văn hóa càng được phổ biến rộng rãi hơn trong xã hội.


Tác giả Hậu khảo cổ

Thứ Năm, 15 tháng 3, 2012

Ca Nhạc sĩ Sài Gòn , trước 04 / 1975





Image Hosted by ImageShack.us
Tác giả trao giải Kim Khánh ( do báo Trắng Đen tổ chức )
cho nữ nghệ sĩ Kim Ngọc
Lời người viết :
Lâu rồi các bạn bè thân hữu mỗi khi gặp tôi cứ hỏi “ Liệu ông có viết lại các mẫu chuyện về Ca Sĩ Sài Gòn trước năm 75 được không ? ”. Bởi dù gì ngày trước ở Sài Gòn tôi viết chuyên mục về điện ảnh tân nhạc cho nhiều báo và tạp chí, mà nhật báo Trắng Đen với số bán chạy nhất thời đó là chủ chốt ; đồng thời cũng là sáng lập viên “ Nhóm thân hữu ký giả Điện ảnh Tân nhạc Việt Nam ” , thuộc “ thiên lý nhãn ” …. trăm tai ngàn mắt thời đó .
Viết về giới ca nhạc sĩ Sài Gòn thời trước 1975, là viết những chuyện đằng sau hậu trường, những chuyện dính dáng vào đời tư nhưng không đến nỗi phải bồi thường “một đồng danh dự”; có thể có những vụ việc đã từng được đăng hoặc chưa được đăng trên báo, viết về người còn ở lại và người đã xa quê hương,quả thật hết sức phức tạp !
Lý do “ sự thật hay mích lòng ”, nhưng đã hơn 30 năm xin cứ coi đây là kỷ niệm, thật hư thế nào chính người trong cuộc sẽ hiểu !!! …. Nhưng vì một lẽ giản đơn “ không muốn vạch áo cho gười xem lưng ” đó thôi .!!!???
Cuối cùng, những phần hồi ký này chỉ trích đăng từng phần, nếu có dịp xin sẽ viết tiếp… và viết ra để những người về sau tham khảo và biết về các Nhạc Sĩ & Ca Sĩ trước 1975 , đang ở VN Hải ngoại đã thành danh như thế nào . ( TV )
CA SĨ SAIGON – XUẤT HIỆN TỪ ĐÂU ?
Nói đến ca sĩ từ đâu đến hay nôm na từ đâu mà thành danh. Tôi chợt nhớ đến Chế Linh đầu tiên, nhớ ngay cái ngày một thanh niên gốc Chàm khúm núm đến gặp Tùng Lâm ở hậu trường rạp Olympic, một sân khấu đại nhạc hội do quái kiệt Tùng Lâm tổ chức song song với Duy Ngọc ở bên rạp Hưng Đạo vào mỗi sáng chủ nhật .
Tôi nhớ buổi sáng chủ nhật hôm đó khi anh chàng da ngâm đen tóc quăn, ăn mặc nguyên bộ đồ jean. Đến Tùng Lâm cũng không hiểu tại sao anh ta một người lạ mat vào được tận trong hậu trường. Còn đang ngạc nhiên thì anh chàng người Chàm đã tới gặp ngay Tùng Lâm xin cho được hát vào những lúc ca sĩ còn chạy show chưa đến kịp.
Tùng Lâm quyết liệt từ chối, dù lúc đó phải đóng màn chờ ca sĩ cũng không dám cho anh chàng người Chàm này lên hát, một phần do anh ta là người dân tộc thiểu số và cũng chưa từng nghe anh ta hát bao giờ.
Nhưng kế tiếp những tuần sau, anh chàng người Chàm lì lợm vẫn đều đặn xuất hiện xin Tùng Lâm cho được hát, và rồi Tùng Lâm cũng đành thua sự lì quá mức, đành chấp nhận cho anh ta hát một bài để thử, với lời dặn chỉ hát một bài và không có tiền “cát sê”
Tôi chứng kiến các buổi anh chàng người Chàm đến và cả buổi đầu tiên được Tùng Lâm cho hên hát một nhạc phẩm của Duy Khánh, với tên được giới thiệu là Chế Linh. Không rõ Chế Linh có được học hát hay có thiên bẫm hát theo đĩa hay băng nhạc mà nhiều nam nữ mầm non ca sĩ thường hát nhái đến thuộc lòng, đến khi bài hát chấm dứt thì hàng loạt tiếng vỗ tay nổi lên tán thưởng kèm theo những tiếng gào “bis, bis” nổi lên ầm ỉ nơi hàng ghế khán giả.
Nhưng nhìn những người ái mộ vo tay gào thét kia chính là đồng hương của Chế Linh, do chính Chế Linh bỏ tiền ra mua vé cho họ vao xem và chờ đợi cái ngày hôm đó, để chỉ làm một động tác vỗ tay hoan hô và gào lên những tiếng bis, bis.
Do không được ai lăng xê, không được ai kèm cặp, Chế Linh thường hát nhái theo giọng ca Duy Khánh và cả những bài hát từ Duy Khánh từng thành đạt . Và nhờ những đồng hương hàng tuần đến vỗ tay, sau này Chế Linh được Tùng Lâm nhận làm “đệ tử” trong lò đào tạo ca sĩ của mình (?).
Từ lúc đó Chế Linh mới được uốn nắn rèn giũa lại chính giọng ca của mình. Khi nói đến những lò “đào tạo ca sĩ” thường là những nơi có môi trường “lăng xê”, như nhạc sĩ Nguyễn Đức có hai chươ ng trình trên Đài truyền hình số 9 là Ban Thiếu nhi Sao Băng và chương trình Nguyễn Đức, cùng hai chương trình trên Đài phát thanh là Ban Việt Nhi, ban ABC.
Còn quái kiệt Tùng Lâm có Đại nhạc Hội, và chương trình Tạp Lục trên truyền hình. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với đoàn văn nghệ Hoa Tình Thương của TC/CTCT mà Song Ngọc đứng đầu tàu.
Image Hosted by ImageShack.us
Nhạc sĩ Ngọc Chánh có phòng trà Quốc Tế (International) và hàng loạt nhãn băng như Shotguns, Thanh Thúy, Nhạc Trẻ , Hồn Nước, Chế Linh.
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ có sân khấu phòng trà Maxim’s, đoàn Văn nghệ và băng nhạc mang cùng tên do hãng đĩa Việt Nam sản xuất v.v…
Image Hosted by ImageShack.us
Đây là những lò nhạc giới thiệu nhiều ca sĩ nhất trong thời gian đó. Như lò Nguyễn Đức có một lô ca sĩ họ Phương gồm Phương Hồng Loan, Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc (Cẩm Hồng) hay trước đó là Hoàng Oanh có cả nghệ sĩ hài Thanh Hoài, Trần Tỷ.
Lò Tùng Tâm giới thiệu Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến rồi Chế Linh, Giang Tử.
Lớp nhạc Bảo Thu có Thanh Mai, Thanh Tâm sau này Kim Loan; Hoàng20Thi Thơ có Sơn Ca, Bùi Thiện, Họa Mi v.v…
Trở lại với Chế Linh, tuy quái kiệt Tùng Lâm có môi trường “ lăng xê” nhưng về chuyên môn dạy thanh âm cho ca sĩ lại “mù tịt”; qua đó đã liên kết với nhạc sĩ Bảo Thu và Duy Khánh đào tạo hay lăng xê Chế Linh trở thành một danh ca như từng đào tạo lăng xê ra những Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến…
Vì từ lò Bảo Thu ( còn là ảo thuật gia Nguyễn Khuyến ) cùng Duy Khánh (khi đó ở chung cư Trần Hưng Đạo) đã cho “ ra lò ” nhiều ca nhạc sĩ như Quốc Dũng, Thanh Mai, Thanh Tâm, Kim Loan…
Việc liên kết giữa Tùng Lâm – Bảo Thu – Duy Khánh làm cho nhiều lò đào tạo ca sĩ bấy giờ lên cơn sốt, bởi ở đây có đủ môi tr ờng để các tài năng trẻ thi thố tài năng, Tùng Lâm có sân khấu đại nhạc hội, Bảo Thu có chương trình truyền hình; dạy thanh âm và cung cách biểu diễn. Chế Linh nhờ vào “ lò ” Tùng Lâm mà thành danh cho đến ngày nay.
Tuy nhiên ngoài những lò “ đào tạo ca sĩ ” nói trên cũng có những ca sĩ thành danh từ những phòng trà khiêu vũ trường, trong phong trào văn nghệ học đường, đại hội nhạc trẻ, những đoàn văn nghệ do chính quyền thành lập .
Như Vi Vân, Julie Quang, Carol Kim, Đức Huy, Ngọc Bích, Thúy Hà Tú ( Khánh Hà – Anh Tú ), Thanh Tuyền, hài có Khả Nang, Thanh Việt, Phi Thoàn, Xuân Phát…
Elvis Phương nổi danh từ lúc 1972 do Thanh Thúy khai thác phòng trà Queen Bee với ông Tuất ( sau thời kỳ Khánh Ly ), nhưng Elvis Phương đã tạo cho mình một chổ đứng lúc còn là học sinh cùng với ban nhạc trẻ học đường. Sau đó Elvis Phương đi hát cho nhiều phòng trà nhưng do không ai dìu dắt lăng xê đến nơi đến chốn nên vẫn chỉ là cái bóng của những đàn anh àn chị.
Khi Thanh Thúy khai thác Queen Bee, có nhạc sĩ Ngọc Chánh làm trưởng ban nhạc Shotguns cùng Cao Phi Long, Hoàng Liêm, Đan Hà; và hội nhập vào làng sản xuât băng nhạc 1972 .
Elvis Phương mới được biết đến từ đó ( 1969 ) . Tuy vậy Ngọc Chánh không cho mình đã tạo ra tên tuổi Elvis Phương, anh chỉ có công “ lăng xê ” còn giọng hát của Elvis Phương là do thiên phú hay từ môi trường văn nghệ học đường mà thành công.
Các lò đào tạo ca sĩ ngoài những môi trường để dễ dàng“ lăng xê ” gà nhà, nhưng muốn lăng xê một ca sĩ còn phải qua nhiều cửa ải khác, như tìm một nhạc phẩm thích hợp với giọng ca để ca sĩ chọn làm bài hát tủ như người ta thường ví đo ni đóng giày.
Bài hát tủ như khi nghe Phương Dung hát chỉ có bài Nổi Buồn Gác Trọ là nổi bật, nghe Túy Hồng biết đang hát nhạc của Lam Phương (cũng là chồng của Túy Hồng), nghe Thanh Thúy lúc nào cũng có bản Ngăn Cách của Y Vân, Thanh Lan với các ca khúc Bài không tên cuối cùng của Vũ Thành An hay Tình khúc… của Từ Công Phụng, Lệ Thu với Nữa hồn thương đau của Phạm Đình Chương, Thái Thanh thì chỉ có Dòng Sông Xanh nhạc Việt hóa của Phạm Duy, Khánh Ly ngoài những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, thường tìm cho mình con đường mới là hát nhạc tiền chiến của Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Văn Cao. Phương Hồng Quế với Phố Đêm, Những chuyện tình không suy tư của Tâm Anh v.v…
Sau khi ca sĩ có những bài hát tủ, các lò còn phải nhờ báo chí viết bài ca tụng tán dương, bỏ tiền cho các tạp ch í lên ảnh bìa hay nhờ báo chí cho đứng tên một mục thường xuyên nào đó như phụ trách trang nhi đồng, giải đáp tâm tình, trả lời thư tín, nhưng các ông bầu đào tạo thường trao đổi ca sĩ cho nhau giữa các show truyền hình truyền thanh, vì ít tốn kém và hiệu quả, tạo đến tai nghe mắt nhìn cho khán thính giả một cách thực tế, được chú ý hơn.
Một Phương Hồng Quế có thời gian chiếm lĩnh trọn vẹn trên truyền hình, từ show này đến show khác, được phong tặng ” Tivi Chi Bảo “, giữ trang Vườn Hồng, Họa Mi trên báo Tin Điển, Chuông Mai, Trắng Đen, Đồng Nai, Hòa Bình cùng Phương Hồng Hạnh.
Nhưng ai có biết Nguyễn Đức đã bỏ ra bao nhiêu tiền để Phương Hồng Quế, Phương Hồng Hạnh dược như thế ?! Chị em Thanh Thúy, Thanh Mỹ giữ mục Trả lời thư tín trên báo Tiếng Dân, sau này cô em út là Thanh Châu trên báo Trắng Đen v.v..
Tất cả chỉ là cái tên trên báo, vì đã có người làm giúp viết giúp và lãnh tiền giúp, đó là những ngón nghề lăng xê ca sĩ từ các lò ” đào tạo ca sĩ “. Đa số các lò nhạc chỉ thích lăng xê ” nữ ca sĩ ” hơn nam vì có nhiều lý do, nhưng lý do dễ hiểu nhất đa số … các ông thầy đều có máu dê .
Có một giai thoại, người ta đồn một nhạc sĩ gốc mật vụ đệ tử Trần Kim Tuyến thời Ngô Đình Diệm, rất thích các nữ nghệ sĩ, muốn cô nào từ ca sĩ đến kịch sĩ là nhờ bọn đàn em mời về cơ quan hứa hẹn dành cho ho. nhiều ưu đãi trong nghề nghiệp với điều kiện cho ông ta được ” thưởng thức “, sau đó giữ bí mật chuyện giữa ông ta với nàng.
Chuyện bí mật đó là gì ? Trước đó tức trước khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, có lần ông nhạc sĩ mật vụ còn cao hứng đòi lấy một nữ nghệ sĩ làm vợ, khiến cô nàng sợ quá vọt trốn ra nước ngoài sống mấy năm mới dám về Sài Gòn hoạt động kĩch nghệ trở lại ( cũng nhờ ra nước ngoài mà sau này được trọng vọng thành người thân cộng ).
Không phải người nữ nghệ sĩ này không khoái ông sĩ quan mật vụ , mà không khoái khi nghe ông show bầu quái kiệt Trần Văn Trạch của “ Đại nhạc hội một cây ” nói đến tính bất lực của ông ta. Vậy mà sau này có những con thiêu thân “ ca sĩ mầm non ” đang bán phở hủ tíu chấp nhận cho ông ta được “thưởng thức” để có môi trường trở thành nữ danh ca ..
Image Hosted by ImageShack.us
TOÀN CẢNH TÂN NHẠC MIỀN NAM
Bước vào những năm 63 – 70 của thập kỷ trước , phong trào Kich Dong Nhac va Nhạc trẻ bắt đầu xâm nhập mạnh , các ca khúc lãng mạn hay lá cải gần như chìm lắng nhường cho nh1c ngoại quốc được Việt hóa , lý do bộ thong tin & tâm lý chiến bấy giờ ra lệnh các nhạc phẩm VN phải có lời mang tính ca tụng người lính hay tính chiến đấu.
Những nhạc phẩm sặc mùi chiến tranh tâm lý chiến như Lính dù lên điểm, Người ở lại Charlie, Đám cưới nhà binh, Hoa biển, Anh không chết đâu em, Câu chuyện chiếc cầu đã gãy, Kỷ vật cho em, Mùa thu chết v.v.. ra đời. Loại Kich Dong Nhac , nhạc VN tâm lý chiến có Trần Trịnh viết cho Mai L7 Huyền lúc đó đang còn sống chung ( sau Mai Lệ Huyền lấy một đạo diễn trên Đài truyền hình số 9 rồi mới vượt biên ), hát cặp với Hùng Cường thuộc loại ăn khách.
Nhật Trường – Trần Thiện Thanh viết cho chính anh cùng với Thanh Lan; Còn Khánh Ly, Lệ Thu chỉ nỉ non hát những bài của Phạm Duy như Mùa Thu Chết, Kỷ vật cho Em, Giọt mưa trên lá… Còn các nhạc sĩ khác không có nhạc phẩm mới chỉ cho ca sĩ nhai đi nhai lại các bài hát cũ.
Image Hosted by ImageShack.us
Image Hosted by ImageShack.us
Vì vậy nhạc Pop Rock – Việt hóa ăn khách do không nằm trong lệnh của bộthong tin & tâm lý chiến. Những ca khúc trữ tình như Hởi người tình La-ra nhạc phim Dr.Zivago, Roméo Juliette, Giàn thiên lý đã xa, Khi xưa ta bé, Lịch sử một chuyện tình… được ra đời. Truoc do’ xuất hiện cùng những ca sĩ ban nhạc Black Caps , Les Vampires , Rockin Stars , The 46 , Fanatiques , Spotlights , va` phong trao` Viet Hoa’ như Phượng Hoàng , Mây Trắng ( Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Trung Hành, Elvis Phương ), CBC ( Bích Liên ), Crazy Dog ( Những đứa con của cặp nghệ sĩ Việt Hùng – Ngọc Nuôi với Ngọc Bích đầu đàn ),
Image Hosted by ImageShack.us
Ba Con Mèo ( có Vi Vân, Julie và Mỹ Hòa ), Tú Hà Thúy ( Anh Tú, Khánh Hà, Thuy’ Anh ) và những ” thủ lãnh ” phong trào lúc đó là Nhac Tre : Trường Kỳ, Tùng Giang, Đức Huy , Kỳ Phát , Nam Lộc .
Saigon 1972
Image Hosted by ImageShack.us
Nên phải nói rằng nền ca nhạc ở Sài Gòn từ những năm 60 đến 75 mới thực sự có nhiều điều để nói, vì trước đó thời Ngô Đình Diệm cấm mở khiêu vũ trường, nên sinh hoạt tân nhạc còn trong phạm vi thu hẹp chỉ có Đài phát thanh, Phòng trà và Đại Nhạc Hội. Trong thời gian này có Ban Thăng Long với Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh, Thái Hằng, nhạc hài hước có Trần Văn Trạch, song ca Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết hay Thúy Nga với tiếng đàn phong cầm ( sau th nh vợ Hoàng Thi Thơ ) , Duy Trác, Bạch Yến, Thanh Thúy , Minh Hiếu , Phương Dung, Ánh Tuyết , Cao Thái…
Image Hosted by ImageShack.us
Bach Yen 2007
Do thiếu hụt ca sĩ, các tay tổ chức Đai Nhạc Hội thường đưa vào các tiết mục múa của Lưu Bình, LB 0u Hồng, Trịnh Toàn, kịch nói chưa phát hiện ra Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, La Thoại Tân, Vân Hùng… chỉ có những nghệ sĩ gần đứng tuổi như Phùng Há, Bảy Nam, Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Hoàng Mai, Anh Lân, Kim Lan, Kim Cúc, Túy Hoa, Xuân Dung hay cua-rơ Phượng Hoàng Lê Thành Cát kịch sĩ nghiệp dư chiếm lĩnh sân khấu cùng kịch sĩ đất Bắc như Lê Văn, Vũ Huân, Vũ Huyến…
Thời gian 1965 – 1975 giới thưởng thức tân nhạc bắt đầu chia khán giả cho từng loại ca sĩ :
- SVHS thì thích những giọng hát của Thanh Lan, Khánh Ly, Lệ Thu, Xuân Sơn, Anh Khoa, Jo Marcel, Sĩ Phú , Paolo Tuan , Elvis Phương bởi khi hát có chọn lọc nhạc phẩm mang tính nghệ thuat cao cấp .
Image Hosted by ImageShack.us
Image Hosted by ImageShack.us
- Đại đa số quần chúng lại thích nghe Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung, Thanh Tuyền, Túy Hồng, Nhật Trường, Thái Châu hát những nhạc phẩm bậc trung nẳm giữa nghệ thuật và thị hiếu.
Còn lại các ca sĩ như Chế Linh, Duy Khánh, Hùng Cường, Mai Lệ Huyền, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Giang Tử, Trang Thanh Lan, Thanh Hùng , Trang Mỹ Dung, Thiên Trang hát các bài được soạn theo kiểu tiểu thuyết lá cải như Chuyện tình Lan và Điệp, Nhẫn cỏ cho em, Đồi thông hai mộ, Rước tình về với quê hương … được giới bình dân ưa thích.
Cho nên giới sản xuất băng nhạc bấy giờ rất kén ca sĩ hat’ cho nhãn băng nhạc, nếu nhãn băng nhạc nào có những Lệ Thu, Khánh Ly, Elvis Phương , Paolo Tuan , Thanh Lan v.v… thì sẽ không có những Chế Linh, Giao Linh, Trang Mỹ Dung , Giang Tử, Duy Khánh v.v…
Image Hosted by ImageShack.us
Image Hosted by ImageShack.us
Nữ Danh ca THANH LAN
Khán thính giả đã phân chia hạng bậc ca sĩ nhạc phẩm để thưởng thức . Ông bầu Ngọc Chánh liền cho ra nhiều nhãn hiệu băng mong chiếm trọn thị trường, vì làm băng nhạc phải nhạy bén với lớp người thưởng ngoạn do đã phân chia ra từng lớp :
- Shotguns dành cho lớp người có trình độ thưởng thức cao.
- Nhãn băng Thanh Thúy dành cho mọi tầng lớp khán thính giả.
- Nhãn băng Hồn Nước có Chế Li nh, Duy Khánh, Trang Mỹ Dung, Phương Hồng Quế v.v…
- Phục vụ thành phần cao niên hoài cổ có băng nhạc Tơ Vàng của Văn Phụng Châu Hà, quy tụ những ca sĩ di cư từ đất Bắc như Duy Trác, Châu Hà, Kim Tước, Thái Thanh, Sĩ Phú qua những nhạc phẩm tiền chiến của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Từ Linh, Dương Thiệu Tước, Nghiêm Phú Phi, Phạm Duy, Phạm Đình Chương… vừa có nhạc tiền chiến vừa có nhạc hiện đại của những nhạc sĩ tên tuổi.
- Tầng lớp SVHS có nhãn bang hieu Shotguns, Khánh Ly, Jo Marcel để nghe nhạc phẩm Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Y Vân, Phạm Thế Mỹ, Nguyễn Ánh 9.
Giới bình dân có rất nhiều nhãn hiệu băng như Hoàng Thi Thơ, Họa Mi, Hồn Nước, Chế Linh, Âm Thanh, Trường Sơn, Nguồn Sống qua nhạc phẩm Châu Kỳ, Mạnh Phát, Anh Việt Thu, Đỗ Lễ, Trầm Tử Thiêng, Vinh Sử, Tú Nhi, Hàn Châu, Song Ngọc, Duy Khánh, Thanh Sơn, Y Vũ, Trần Trịnh, Tâm Anh, Đynh Trầm Ca…
- Nhạc trẻ có nhóm Trường Kỳ, Tùng Giang, Kỳ Phát đều có nhãn băng nhạc riêng, riêng kiosque của chị em Thúy Nga ( không phải vợ Hoàng Thi Thơ ) lúc đó chỉ chuyên sang nhạc đĩa nhac Ngoai Quoc nước ngoai` mang nhãn Selection hay Anna / Hon Hoang .
Thế giới ca nhạc Saigon VN đã phân chia thứ bậc theo sự thưởng ngoạn, ca sĩ cũng được phân chia ngôi thứ rõ ràng, đó là đặc tính của tân nhạc miền Nam ngày trước… thang’ 04 /1975 .
Saigon 1972
Image Hosted by ImageShack.us
Thiên Việt
Nguồn

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012

Thăng( thất) Phu* hữu trách với quốc gia?!


Thăng( thất) Phu* hữu trách với quốc gia?!

Lê Xuân Quang

Tưởng nhớ 3 năm, ngày Phù Thăng về cõi vĩnh hằng (21.2.2009 – 21.2.2012), 84 năm ngày sinh (1928 – 2012).


Nhà văn Phù Thăng ( Nguyễn Trọng Phu)

Cổ nhân có câu răn dậy hậu thế :”Quốc gia hưng vong, Thất phu hữu trách’’. Câu nói đó được dân Việt ngàn đời ghi nhớ, làm theo. Thời đại nào nước Việt cũng có hằng hà sa số Thất phu (1) , điển hình là’’Thằng Phu’’ – (đọc lái đi của bút danh Phù Thăng) – tên thật Nguyễn Trọng Phu, người xã Công Lạc, huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.
Cuộc đời ông là một bi kịch nhưng thật bi tráng, cái bi tráng của người trí thức chân chính, nhà nghệ sĩ tài năng, tâm huyết với đất nước , dân tộc, người  Quân  tử thời hiện đại luôn giữ được tôn nghiêm của mình:
Giầu sang không thể quyến rũ
Gian khổ không thể chuyển lay
Uy vũ không thể khuất phục.

Về Phù Thăng, không ai nói vắn tắt nhưng đầy đủ, sống động bằng nhà thơ Xuân Sách (đồng thời với Phù Thăng) – qua kí hoạ bức chân dung bạn mình bằng thơ, in trong tác phẩm Chân Dung Nhà Văn của ông :
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá Vây xong lại chết mòn trong vây.

Trong 4 câu thơ, có tên 3 tác phẩm tiêu biểu của Phù Thăng :
Biển Lửa (truyện phim),
Phá Vây (tiểu thuyết),
Con nuôi của trung đoàn (truyện)

Nguyễn Trọng Phu – Phù Thăng, tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm 1947. Theo lời Thiếu úy Đỗ Đức Dân: Nguyễn Trọng Phu là bạn thân, đồng hương, cùng đơn vi chiến đấu. Ông Dân chuyển ngành đợt 8 vạn binh sĩ giải trừ quân bị (1958), về làm phó chỉ huy công trường Khoan – Bắn mìn mỏ Cọc 6 – Quảng Ninh, nơi tác giả bài viết này đang làm thợ máy khoan BU dưới quyền ông – kể lại : Ngay từ khi làm báo tường của đơn vị,’’cậu ấy’’ (ông Phu) đã kí bút danh Phù Thăng. Bạn bè vui, hỏi, NTP  xác nhận và giải thích : Tên tớ là Phu. Để nhấn mạnh với đời, tớ tự coi mình là’’Thằng Phu’’ cho dân dã. Vả lại đang’’học cầy – (Nông phu)’’ trên cánh đồng chữ nghĩa nên Thằng -  Phu – Chữ , vất vả lắm !

Khi báo chi phê phán cuốn tiểu thuyết Phá Vây (1963), ông Đỗ Đức Dân mới biết tình hình của bạn mình, xúc động, kể cho mọi người nghe những kỉ niệm về người bạn chiến đấu với vẻ nể trọng, tự hào…

Sau khi chuyển ngành, trở thành hội viên Hội nhà văn, trên văn đàn Việt Nam, Nguyễn Trọng Phu vẫn dùng bút danh Phù Thăng, và ngay sau đó Phù Thăng đã trở nên nổi tiếng qua cuốn tiểu thuyết Phá Vây. Và Phá Vây đã trở thành ’’sự kiện văn học’’ xứng đáng xếp vào loại ’’độc nhất vô nhị’’ trong lịch sử văn học của làng Văn Chương Việt, ở nửa sau thế kỷ 20!

Phá Vây viết về đề tài chiến tranh.

Nhân vật chính (hóa thân của tác giả) là cán bộ chỉ huy đơn vị trinh sát, có những suy tư về chiến tranh, về hòa bình khác thường, độc đáo… Lãnh đạo Văn Nghê thời đó rất ’’cay’’ nhà văn mượn lời nhân vật để phê phán chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng bạo lực – chiến tranh. Quan điểm của PT  ngược lại quan điểm của học thuyết Mác – Lê nin đã được các’’môn hộ cực đoan’’ phát triển thành nguyên lý: Làm Cách Mạng không thể đeo găng tay (J.Stalin), Súng đẻ ra chính quyền (Mao Trạch Đông). Sau này (1975 – 1979) – Pol Pot – tên đồ đệ quái dị  của học thuyết mang mầu sắc ‘’Cộng sản kiểu Trung Hoa’’- đã phát triển hơn lên một bậc : Tiến hành đấu tranh giai cấp bằng’’bạo lực cách mạng’’, gây ra cuộc diệt chủng tàn bạo, man rợ với chính dân tộc mình)…
Trần Đăng Khoa nói văn tắt trong cuốn Chân Dung Và Đối Thoại của anh (xuất bản lần đầu 1999)về nguyên nhân Phù Thăng ‘’mang hoạ’’:
‘’Tập sách sẽ là con thuyền xuôi chèo mát mái nếu không có vài dòng Phù Thăng luận về chiến tranh…’’ (CD&ĐT trang 66).
Nguyễn Quang Thân trên TT&VH số 55 ngày 24.02.2008 – thì ‘’tóm tắt cụt lủn’’ về nguyên nhân tai họa của Phù Thăng chỉ do một câu than vãn: ‘’… Đời Lính là đời quá nhọc nhằn’’.
Nói và trích dẫn như vậy quá thiếu, dễ gây phản cảm cho người đọc, nhiều người đặt câu hỏi: Lẽ nào chỉ viết có thế mà các vị ‘’Trên’’đầy đoạ một con nguời – một nhà văn tài năng đến tận đáy cuộc đời ?
Sự thực đoạn văn nặng kí ‘’vài dòng’’ do Giáo sư Nguyện Hưng Quốc trích – đưa vào một tiểu luận của ông – như sau : … Chiến tranh đã gây nên và sẽ gây nên bao nỗi đau khổ, vất vả, tủi nhục, căm giận khác nữa… Chiến tranh không có gì đáng ca ngợi cả, và đời lính chỉ là cuộc đời nhọc nhằn mà thôi. Nếu như trong chiến đãu có thu được cái vinh quang chân chính của nó, thì cũng đã trả một gía quá đắt. Phải sớm kết thúc cuộc đổ máu cùng những thảm họa của nó !.
Có thế chứ !
Đây mới chính là nguyên nhân khiến tác gỉa Phá Vây mang họa.
Đoạn văn, tác gỉa viết ra hoàn toàn không đúng lúc. Vào năm 1963 , khi nghị quyết’’chống xét lại hiện đại’’ của Trung ương ĐLĐVN (sau đổi tên thành ĐCSVN) khóa III đang được thực hiện, khi không khí chiến tranh đang bao trùm không gian Việt Nam, được hệ thống truyền thông truyền bá, tuyên huấn lí giải : Có 2 loại Chiến tranh : Chiến tranh Chính nghĩa và Chiến tranh Phi nghĩa. Chúng ta làm chiến tranh dù dưới hình thức nào, với lí do gì cũng là Chính nghĩa. Bọn Đế quốc và bè lũ tay sai gây chiến tranh là Phi nghĩa. Cần phải ủng hộ triệt để cuộc chiến tranh CHÍNH NGHĨA, chống lại chiến tranh PHI NGHĨA.
Thế mà Phù Thăng lại nói chiến tranh chung chung… và cần phải ‘’sớm kết thúc’’. Trong thời điểm đó, các đoàn quân đang rùng rùng chuyển động hướng tới chiến trường ở bên kia vĩ tuyến 17, làm sao có thể chấp nhận, cho ‘’luồng tư tưởng’’ này tồn tại.
Hệ thống tuyên truyền được huy động tối đa ủng hộ, cổ vũ cho cuộc chiến nhằm thống nhất đất nước. Bỗng dưng cuốn sách của Phù Thăng công khai nói ngược, thậm chí phủ định quan điểm về chiến tranh cách mạng của những người lãnh đạo, đó là  một ý kiến lạc lõng mang tính‘’chống đối’’. Không bị xếp vào rọ ‘’Phản động’’ là may cho Phù Thăng lắm rồi. Sếp lớn không nghi ngờ lòng trung thành của một sĩ quan quân đội nhiều năm cầm súng chống Pháp, giờ cấm bút chiến đấu trên mặt trận Văn Nghệ – chỉ gọi lên phê phán rồi yêu cầu phải sửa lại tác phẩm, (cắt bỏ những đoạn văn luận bàn về chiến tranh).
Phù Thăng không chịu, công khai từ chối :
Thực tâm tôi nghĩ thế nào thì tôi viết ra một cách trung thực thế. Nếu các anh cảm thấy không được thì thôi, không in nữa. Nếu trót in rồi thì không phát hành nữa, chứ bây giờ bảo tôi chữa khác đi, thì thú thực tôi chẳng biết chữa thế nào. (Chân dung và Đối thoại trang 67).
Một cuộc đối thoại’’ngầm’’ giữa hai thế lực diễn ra gay gắt:
- Thế là thế nào ?
- Nuôi quân ba năm sử dụng một ngày. Đảng và Nhà nước nuôi anh, cho anh cơm ăn, áo mặc, môi trường để viết rồi gíup anh in ấn, phổ biến, quảng bá tác phẩm để anh gặt hái vinh quang. Giờ cần anh ủng hộ, dù chỉ một đoạn văn, một câu nói (…), anh lại từ chối à ?
- Ơn đó tôi ghi nhận, nhưng đây là lương tâm, lương tri, bản lĩnh của người cầm bút chân chính, tôi không thể làm khác.
- Thế thì…được… được !…
Ngay sau đó, các Báo, Tạp chí ào ạt đăng tải những bài viết phê bình , lên án Phá Vây mà không cho tác gỉa lên tiếng thanh minh, bảo vệ. Cũng giống như trường hợp các nhà văn cùng thời, từng bị Trói vào mà đánh, khen thay chịu đòn. Kết quả là : Phá Vây bị thu hồi, tác giả bị treo bút, chuyển đi, lần lượt từ cơ quan này đến cơ quan khác, bị ‘’vô hiệu hoá’’. Từ đó không thấy ông xuất hiện trên văn trường VN nữa. Ông sống lặng lẽ cho tới khi về hưu – về quê nhà’’theo đít trâu’’ (đi cầy) với chú’’trâu điên’’ (theo CDvĐT), vui với đồng ruộng và lũ … gà – vịt (2). Đề tài này quả thật gai góc : Cả chục năm sau – Việt Phương cũng viết, bàn về chiến tranh, bằng những câu thơ ‘’Không hợp thời’’ và cũng phải về (làm) vườn… non:

Ta thắng Mỹ cho ngàn vạn năm đời sắp tới
Cho cả thời con cháu ta sẽ hỏi
Vì đâu ?
Ngày xưa trước năm 2000
Người ta giết nhau,
mạng người như hòn sỏi
 ?…

Sau Hiệp định Paris (1973) – Phạm Tiến Duật – cũng lại ‘’mất lập trường’’ khi than vãn về hậu qủa của  chiến tranh thể hiện trong bài thơ Vòng Trắng và đã thất sủng nhiều năm tiếp theo:

…Khói bom lên trời thành một vòng đen
Trên mặt đất hiện bao nhiêu vòng trắng


Có mất mát nào lớn bằng cái chết
Khăn tang vòng tròn như một số Không…

Việt Phương, Phạm Tiến Duật – cũng giống như Phù Thăng – có những suy nghĩ ‘’lệch lạc’’ về chiến tranh khiến ‘’Con thuyền… cuộc đời’’ họ một thời guian dài đã không ‘’xuôi chèo mát mái’’…
Cũng không thể ‘’trách’’ những người lãnh đạo đương thời, vì lúc đó, chủ trương, đường lối, nghị quyết giải phóng miền Nam bằng vũ lực đã ban hành, muốn thực hiện được mục đích, người lãnh đạo buộc phải làm như vậy.
Nhưng cũng không thể ‘’chê’’ Phù Thăng qúa cố chấp (…). Đó là ‘’nghiệp chướng’’ của người cầm bút chân chính ! Cả hai phía hành động đều đúng theo ‘’chức trách’’ của mỗi bên… Cuộc đấu sức qúa chênh lệch khiến nhà văn phải lãnh nhận hậu qủa.
Có điều : Hành động của Phù Thăng khiến chúng ta nhớ đến chuyện viên quan viết Sử thời Đông Chu Liệt Quốc bên Trung Hoa, cách đây hơn 2000 năm, Sử gia Tư Mã Thiên đã ghi lại, có thể tóm tắt :
Thừa tướng Thôi Trữ và Khánh Phương muốn thâu tóm 1uyèn lực toa rập nhau giết Tề Trang Vương . Ông ta ra lệnh cho quan Ngự sử không được chép vào sử sách hành động giết vua của mình mà phải chép khác đi… Quan Ngự sử không nghe – TT giết ngay. Người em kế của viên quan chép sử thay  anh tiếp tục lặp lại: Ngày ấy… tháng ấy… Thôi Trữ giết vua. !
Thôi Trữ  lại chém anh ta.
Người em thứ 3 tiếp tục vào chéo thay hai anh.
Thôi Trữ chém một lúc hai người, mệt mỏi nhìn người em út kia, hỏi : Nhà ngươi có sợ chết không, sao lại chép như hai anh mình?
Người kia khẳng khái đáp : Sợ, nhưng đây là chân lí, là sự thật ta chết sẽ có người khác thay ! TT buông gươm dơ tay lên than : Ta chịu thua các ngươi – rồi  tha chết cho em út người chép Sử.
Khi ra về anh ta thấy có rất nhiều người đứng xếp hàng ở ngoài cổng, ngạc nhiên hỏi, đám người kia giải thích : Chúng tôi chờ, nếu ông bị chém, sẽ lần lượt thay thế chức vị của ông.

Ta cũng lại liên tưởng tới hoàn cảnh của nhà bác học Ga li lê vì  nói ngược ý của giáo hoàng (theo sử sách ghi lại). Nhà bác học lừng danh bị cột vào giàn thiêu xử chết.Trước lúc đao phủ – đồ đệ của giáo hoàng – châm lửa, họ được lệnh hỏi ông lần cuối : Có thừa nhận trái đất đứng nguyên không ? (trong khi khoa học xác định trái đất quay…). Trước ngọn lửa rừng rực… Ga li lê đành chấp nhận và đồng ý cải chính: ‘’trái đất đứng nguyên’’… Khi được cởi trói, chưa ra khỏi giàn thiêu, ông đã lại thốt lên : Dù sao thì trái đất vẫn cứ… quay !
Gía – Phù Thăng hành xử như Ga li lê !
Gía ông đừng cố chấp…
Nhưng ‘’Thằng – Phu – Chữ’’ đã nêu tấm gương sáng về lòng dũng cảm của người Nghệ sĩ chân chính : Thà gánh chịu tai ương chứ nhất định không chịu uốn cong ngòi bút !  Có thể coi Phù Thăng là người chép Sử lớn của Việt Nam thời hiện đại, chỉ kém sử gia của nước Trung Hoa c cổ từ  hơn 2 nghìn năm trước – chút ít !…

Việt Nam ta có câu ngạn ngữ: Về đuổi gà cho vợ, là ám chỉ việc các đấng trượng phu thất bại trong sự nghiệp, trở thành phế nhân, chỉ còn làm ông chồng suốt mùa đông ru rú bên bếp lửa vuốt… đuôi mèo (3), hoặc đuổi gà cho bà xã… Câu nói đó vận ngay vào Phù Thăng. Chỉ khác một điều, ông không hoàn toàn thất bại theo nghiã hẹp. Ông về phục vụ bà nhà : Đi cầy, và’’hàng phục trâu điên’’, chăn… Vịt – như Trần Đăng Khoa kể trong CD&ĐT !
Thế nhưng nếu Trâu điên, Vịt… không làm ông nhụt chí, thì…lũ GÀ lại làm ông phát điên. Trong Chân dung và Đối thoại, Trần Đăng Khoa dành cho Phù Thăng những dòng chứa chan ân tình rồi giới thiệu tóm tắt, truyện ngắn Hạt Thóc của PT. Có thể xem Hạt thóc (4) là tác phẩm‘’Nặng kí’’ trong sự nghiệp sáng tác sau Phá Vây . Người đọc ‘’rùng mình’’ khi nghe đoạn văn của Hạt Thóc, (cũng như đã từng rùng minh khi đọc ‘’vài dòng’’ trong Phá Vây) : … Thật tội nghiệp cho gã (nhà văn) ! Thà gã cứ coi mình là một cục cứt để rồi mà sợ chó thì đời gã chẳng đến nỗi khổ như vậy…. .
Câu văn gợi cho ta nhớ tới câu ví : Trí thức không đáng gía bằng cục… phân của ông Mao (5) ! Nhưng ‘’Trí – ta’’ hãy dẹp sự tự ái sang bên, tiếp tục nghe Phù Thăng, TĐK trần tình trong CDvĐT:
… Chó đang thưa vắng dần… Chỉ ở Hà Nội mới có chó. Rất nhiều chó. Chó ngào ngạt suốt một rẻo đê Nhật Tân… Nhưng đó lại là những con chó hoà bình, chẳng có gì phải sợ. Khốn nỗi gã lại là hạt thóc, một hạt thóc bé nhỏ nên mới sợ Gà. Mà Gà thì ở đâu chẳng có. Chúng sinh sôi nẩy nở đàn đàn lũ lũ… đến cả những phố phường xầm uất… cũng có thể bất thần nghe tiếng gà gáy te te… bởi vậy tính mạng gã luôn bị đe dọa. (CD&ĐT Trang 62 – 63).
Chó thì được bà con nông dân nuôi ở làng quê để giữ nhà chống trộm, để giúp các cháu bé làm sạch sau khi các chắu bĩnh ra, chứ ở Hà Nội có điện, có nước máy, cần gì chó, ai nuôi chó… ta ? Thế mà bây giờ chó ở làng quê, miền ngược đang thưa dần…’’chỉ ở Hà Nội mới có chó’’… thậm chí rất nhiều chó là đằng khác ! Sao lạ vậy nhỉ ?
Chó nhiều – chẳng việc gì phải sợ : Không phải chó điên, chó sói, chó Berger to như con bê, được nuôi phục vụ việc bắt trộm cướp, bắt hung thủ trong các vụ án hình sự! Đây là những con chó không thể làm hại người – chó thuần chủng…Việt , chó gia súc – ’’chó hoà bình’’ để có thể bóp riềng mẻ mắm tôm, nướng, ninh, xáo, nhựa mận -  nhắm với rượu cuốc lủi , đến độ mùi ngào ngạt chẳng những suốt rẻo đê Nhật Tân, mà còn lan ra, phát tán toàn Hà Nội, các địa phương khác cũng’’toa rập’’ bắt chước, khiến hàng ngày người ta ‘’đánh hơi’’ , lũ lượt kéo đến những quán cầy tơ 7 món rồi nhai ngồm ngoàm, nuốt ừng ực !
Chó – nhưng đó là những con chó hoà bình chẳng có gì phải sợ – nghĩa là chúng không thể cắn người được. Ngược lại, chúng còn bị người ‘’cắn’’… lại – rồi ăn ‘’chín’’, nuốt ‘’tươi’’!
Một số ông chủ của đất’’Ngàn năm văn hiến’’ và ngay cả ở Sài Thành hoa lệ Hòn ngọc của Viễn Đông – dùng chó làm phương tiện hốt vàng… Họ biến việc nuôi, cung cấp, nhập khẩu chó, (chở hàng thuyền, hàng đoàn xe) vượt biên giới đổ bộ vào đất Việt nhằm thu lợi! Rượu – thịt chó đã trở thành món hấp dẫn của cả dân Việt, khiến ngành kinh doanh’’mộc tồn – cây còn – con cầy’’ phát triển thành ngành kinh doanh xuyên  quốc gia. Chó của Việt ta gần hết, các lái buôn sang Lào, Miên, Thái khai thác mang về phục vụ thị trường đầy tiềm năng. Trong nền kinh tế thị trường chó ngày một phát triển, phát đạt, khiến họ hàng nhà Khuyển đi dần đến tuyệt chủng bởi đám lái buôn, đám nghiện ăn – phân loại, xếp hạng: Nhất Vện, nhì Vàng, tam Khoang, tứ Mực – và’’tìm…diệt’’!
Thế là người này bảo người kia, rủ nhau ùn ùn, nghìn ngịt kéo đến tụ tập, hình thành từng mâm, từng nhóm, từng cặp… Từ gìa đên choai choai. Từ các ông, gã, thằng… Phu đến các Sỹ Phu đủ kích cở, chủng loại – đều có mặt trong bữa nhậu sau khi đã ước hẹn nhau’’làm xong phi vụ…’’ – như các quan chức TP Hải Phòng và Huyện Tiên Lãng thoả thuận cưỡng chế thành công đầm cá của gia đình họ Đoàn rồi cùng nhau liên hoan bằng bữa thịt chó !
Đến ngay cả các nam thanh, nữ tú – sinh viên, học sinh – cũng hăng hái tham gia mâm rượu. xếp chân bằng tròn trên chiếu, đồng loạt vui vẻ, hả hê đưa cay, gào lên – ‘’trăm phần trăm’’ , thưởng thức hương vị của xâu dồi, kẹp chả, nồi nhựa mận, đĩa thịt luộc chấm mắm tôm chanh trong tâm trạng ‘’thăng hoa’’, say sưa nghẫm nghĩ về câu nói của dân gian:

Sống ở trên đời ăn miếng Dồi chó
Chết xuống âm phủ liệu có hay không.

Tiếp đó, TĐK diễn giải – Hạt Thóc (5).
Câu chuyện kể về nhà văn bị tâm thần.
Gã tâm thần mang trong lòng nỗi ám ảnh, tưởng mình là một hạt thóc… và vì là Thóc nên luôn sợ…’’Gà’’ – mổ !
Nỗi ám ảnh ngày một tăng… đến độ gã phải vào nhà thương điên để chữa trị. Rất may, thời đó được người bác sỹ tài giỏi, thân ái, thậm chí kính trọng trí tuệ gã người bệnh của mình. Ông bác sĩ nhân ái kia chăm sóc con bệnh tận tình đúng như câu khẩu hiệu do đích thân cụ Hồ nói về trách nhiêm của thầy thuốc, được ghi khắp nơi trên tường của các trạm xá, bệnh viện : Lương y ‘‘kiêm‘‘ từ mẫu. (Thầy thuốc kiêm mẹ hiền – nguyên văn lúc đầu phát ra, sau sửa ‘‘kiêm‘‘ thành ‘‘như‘‘). Gã được sống trong căn phòng : … chẳng có cửa rả, ngày đêm mở thông thống… bệnh viên chẳng có tường ngăn, rào chắn, bệnh nhân chẳng ai bị trói giữ giam nhốt… (Sách đã dẫn, trang 63) – nghĩa là gã tâm thần được sống và chữa trị trong môi trường thoải mái, tự do…Nhờ vậy, nhà văn kia khỏi bệnh. Người ta cho gã xuất viện.
Trên đường từ bệnh viện về nhà, nghe thấy tiếng gà gáy… căn bệnh cũ tái phát… Người Bác sỹ lại phải ra tay cứu, chữa… khi tạm ổn, ông ta ngạc nhiên hỏi, gã trả lời : Quả thực tôi đã khỏi bệnh, tôi là NGƯỜI hẳn hoi !
- Thế sao nghe tiếng GÀ… anh lại sợ mà trở cơn vậy ?
- Đúng ! Dù tôi là NGƯƠI… Nhưng lũ GÀ kia lại cứ coi tôi là… HẠT THÓC – thì sao?…
Thực ra Phù Thăng không phài là Thóc… Không phải ‘’Gà’’. Chẳng phải ’’Chó’’, lại càng không về… đuổi Gà ! Theo Trần Đăng Khoa : Nhà văn tâm thần là chỉ huy của một đoàn quân… ông chỉ khẽ vẫy tay là cái đoàn quân ấy rùng rùng chuyển động…, (CD và ĐT trang 67).
- Phù Thăng là Tư Lệnh của đoàn quân… Vịt !
Việt Nam ta khi xưa thường gọi những người lao động là PHU : Phu Mỏ (thợ mỏ), Nông Phu (thợ cầy). Phu Xe (thợ xe kéo), Phu Mộ (thợ đào, bốc mả)… Phu… Phu… Nếu là người có chữ nghiã, trí thức thì gọi là SỸ PHU. Còn nếu là kẻ tầm thường – vô tích sự thì là THẤT PHU ! Nhà văn tự nguyện đại diện cho họ hàng nhà Phu bằng bút danh PHÙ THĂNG – THẰNG PHU, là bởi ông sinh ra từ giới cần lao này. Phù Thăng tình nguyện đại diện cho những Ông, những Gã, những Thằng Phu… vì Ông muốn làm một người Phu chân chính, thực hiện lời dậy cuả tiền nhân : Quốc Gia hưng vong, Thất Phu hữu trách !
Nhưng, ông đã phải trả gía quá đắt cho hành động tích cực, dám đi ra ngoài khuôn mẫu để rồi nhận lấy sự trả thù của ý thức hệ. Phù Thăng chết dần, chết mòn trong vòng vây thù địch chỉ vì yêu quý chế độ, giữ vững khí tiết của nhà văn chân chính : Vắt’’ kiệt những giọt, những giòng… mắu lầy nhầy tủy – não để’’hữu trách với quốc gia’’, mà lẽ ra ông cần phải biết, nhớ : Người cầm quyền của chế độ không thích loại ‘’mắu’’ này!
Nhưng khốn nỗi : Ông là Phù Thăng – Thằng Phu… Chữ !
Sau sự kiện Phá Vây, trên văn đàn Việt Nam, tên tuổi ông bị sổ thẳng.
Cho đến nay, gần 50 năm trôi qua, kể từ ngày nổ ra sự kiện Phá Vây, người đương thời – lớp trẻ hậu sinh – không còn ai biết đến bút danh Phù Thăng nữa. Khi ông nhắm mắt suôi tay, tờ báo mạng Văn Chương Việt vẫn dành cho ông chỗ, để đăng tải truyện ngắn Hạt Thóc và vài dòng cáo phó chân tình. Đó cũng là thẻ nhang thắp, cầu cho ông về nơi chín suối thanh thản.
Giá như Phù Thăng chịu uốn cong ngòi bút !
Gía như Phù Thăng chịu sống xu thời !
Tiếc thay ông không sống, làm được như nhiều đồng nghiệp đã làm…
Phá Vây – đứa con PT rứt ruột đẻ ra – đã bị ‘’cầm tù’’ ngay khi mới chào đời. Bây giờ ‘’nó’’ cũng sắp lên lão (50). Có muốn phục vụ cho đời cũng không còn cơ hội vì cũng sắp’’lên đường theo tổ tiên’’.
Qúa muộn rồi ! Tiếc thay !
Đứa con tinh thần nào của Nhà văn cũng muốn được sống thoải mái, tự do trong cuộc đời của chúng. Người cha, người mẹ nào cũng muốn đưọc nhìn thấy con mình khôn lớn trưởng thành… Nhưng, người cha Phù Thăng – Thằng Phu đã không may mắn : Mãi hai mươi năm sau (1963 – 1983) ‘’thằng Phá Vây’’ mới mãn hạn tù’’! Khi đó -Bố gìa yếu, mòn mỏi trong vòng vây… Con ngơ ngác, lạc lõng giữa cuộc đời.Chẳng ai biết hắn là ai ?
Nếu được mãn nguyện trước khi nhắm mắt, chắc ông bố Phù Thăng sẽ ngậm cười mà an nghỉ ở thế giới bên kia !

BERLIN 10.02.2012
LXQ

(*) – Từ Phù Thăng, đọc lái đi thành Thằng Phu.

(1) . Theo giải thích của từ đoển tiếng Việt : Thất phu – Người đàn ông là dân thường, kẻ tầm thường, kẻ vô tích sự, (hàm ý coi khinh, theo quan niệm cũ) thể hiện trong câu mắng : Hạng thất phu. Đồ thất phu!
(2) – Trong phim Chuyện Tử Tế, Đạo diễn Trần Văn Thủy đã dùng câu bình rất ‘’sắc’’ :’’Xem ra khoảng cách giữa nhà quay phim và gã chăn vịt chỉ là gang tấc’’. Phù Thăng trước khi về đi cầy là nhà biên kịch ở hãng phim, là nhà văn rồi về quê đi chăn vịt . ‘’Gã chăn vịt’’ của Trần Văn Thủy chính là Phù Thăng…
(3) – Nguyên văn câu ca dao :
Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp vuốt đưôi con mèo .
(4) – Hạt Thóc – VCV đăng ngày 23.02.2008.

http://vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=7452&LOAIID=2&LOAIREF=1&TGID=1514
(5) – Từ trước tới giờ các sách báo đều coi câu này là của Mao Trạch Đông. Nhưng mới đây Tiến sĩ Nguyễn Đình Dăng  cho biết : Câu ví này được rút ra từ một lá thư V. Lénin gửi cho Đại văn hào M.Gorki ngày 15.9.1919 .Mao Trạch Đông chỉ lặp lại lời V.Lénin ! (Xemhttp://www.danchimviet.info/archives/52238 (dcv.info 12.2.2012)

Theotrannhuong.com

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

Sê-ri công trình kiến trúc 'cổ kính' nhất ở Sài Gòn

Dù là thành phố hiện đại bậc nhất Việt Nam, Sài Gòn - TP HCM vẫn giữ được vẻ cổ kính, trầm mặc... quyến rũ đến không ngờ.
Nhà hát cổ nhất: Nhà hát lớn TP
Nhà hát lớn TP HCM (còn gọi là Nhà hát Tây) tọa lạc trên đường Ðồng Khởi, bên cạnh là hai khách sạn lớn Caravelle và Continental. Đây là nhà hát thuộc loại lâu đời nhất, do người Pháp xây dựng hoàn tất vào ngày 17/1/1900 và được xem như một địa điểm du lịch của thành phố.


Nhà hát lớn TP HCM. Ảnh tư liệu Tuy nhỏ và kém tráng lệ hơn Nhà hát lớn Hà Nội, Nhà hát TP HCM vẫn giữ riêng nét đặc thù có một không hai, mang đậm nét kiến trúc "flamboyant" và tác giả của nó là kiến trúc sư Félix Olivier, Ernest Guichard và Eugène Ferret.

Cửa mặt tiền của nhà hát chịu ảnh hưởng nghệ thuật khá rõ nét của Petit Palais xây dựng cùng năm tại Pháp. Với mái vòm lớn cùng những họa tiết tinh xảo trên khu vực cửa chính, còn có tượng hai nữ thần nghệ thuật tay cầm đàn Lyre được trang trí ở cổng lối vào nhà hát. Thiết kế bên trong tân tiến với đầy đủ thiết bị âm thanh và ánh sáng hiện đại.

Năm 1956, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện chế độ cũ; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát Thành phố. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - TP HCM, toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài của nhà hát được phục chế lại như nguyên mẫu ban đầu. Ngoài tầng trệt, còn hai tầng lầu tổng cộng 1.800 chỗ ngồi.


Công trình Nhà hát lớn TP HCM hiện nay. Ảnh: internet Nếu trước đây, Nhà hát lớn Thành phố là nơi giải trí cho các nhân vật sang trọng của Pháp, thì nay là địa điểm quen thuộc của dân Sài Gòn. Hiện nay, nhà hát là nơi tổ chức biểu diễn sân khấu chuyên nghiệp như: biểu diễn kịch nói, cải lương, ca nhạc, múa balê, dân tộc, ôpêra cho tất cả các đoàn nghệ thuật trong và ngoài nước. Tại đây có thể tổ chức những buổi mít tinh, kỷ niệm những ngày lễ lớn, các hội thảo chuyên đề...
Ngôi chùa cổ nhất: Chùa Huê Nghiêm

Chùa tọa lạc ở số 208 đường Đặng Văn Bi, thị trấn Thủ Đức, huyện Thủ Đức, TP HCM; được Thiền sư Thiệt Thoại - Tánh Tường khai sơn vào thế kỷ XVIII. Nhìn bên ngoài, chùa Huê Nghiêm ngày nay mang dáng vẻ của ngôi chùa hiện đại, nhưng các gian phía trong, vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền.

Chùa Huê Nghiêm. Ảnh: Internet
Tên gọi Huê Nghiêm xuất phát từ việc lấy tên bộ kinh Huê Nghiêm đặt tên chùa. Lúc đầu, chùa xây ở vùng đất thấp, cách ngôi chùa hiện nay khoảng 100m. Về sau, bà Nguyễn Thị Hiên đã hiến đất để xây dựng lại ngôi chùa.
Tại đây còn lưu truyền câu chuyện kể về bà Nguyễn Thị Hiên như sau: khi bà Hiên sắp lâm chung, bà nhờ viết trên lòng hai bàn tay một câu bằng son đỏ: “Nguyễn Thị Hiên, làng Linh Chiểu Đông, Gia Định, chùa Huê Nghiêm, An Nam”. Năm 1821, hoàng hậu nhà Thanh (Trung Quốc) hạ sinh công chúa, trên lòng bàn tay hiện rõ những chữ bằng son đỏ hệt như ở lòng bàn tay bà Hiên. Sau đó, vua Thanh sai sứ sang Việt Nam và tìm đến chùa Huê Nghiêm để tìm xác nhận điều linh ứng trên. Sứ nhà Thanh xin trùng tu chùa và xây lại ngôi mộ cho bà Hiên, đồng thời cũng hiến tặng chùa một pho tượng quan âm bằng đồng, cao 80cm.

Lịch sử ghi rằng, chùa được trùng tu nhiều lần. Lần trùng kiến lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX do Thiền sư Đạt Lý - Huệ Lưu (đời thứ 38 dòng Lâm Tế) tổ chức. Kiến trúc chùa hiện nay được thay đổi ở những lần trùng tu vào các năm 1960, 1969 và 1990, mang dáng dấp của một ngôi chùa hiện đại. Chánh điện chùa Huệ Nghiêm bài trí tôn nghiêm, trầm mặc. Chính giữa tôn trí bộ tượng Thích Ca Tam Tôn (Phật Thích Ca, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền), ở phía trước điện thờ là thờ ba vị Di Đà Tam Tôn. Bên phải chánh điện là tượng Địa Tạng, còn bên trái là tượng Quan Âm. Trước hai tượng Địa Tạng và Quan Âm cũng ở hai góc bên trái, bên phải là hai tượng Hộ Pháp. Đặt trước chánh điện là tượng Di Lặc. Tất cả đều bằng gỗ. Có tượng bằng gỗ Gõ đỏ, có tượng bằng gỗ Giáng Hương bông, có tượng bằng cây Xuyên Mộc đều được tạo tác ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.

Chùa Huê Nghiêm đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam (Vietkings) công nhận là ngôi chùa có bộ cửa bằng gỗ lim khắc nổi bát bộ kim cương và thập nhị địa chi thần lớn nhất Việt Nam. Phật tử bước vào chiêm bái, nếu để ý sẽ nhận ra nét hoành tráng và đặc thù của bộ cửa mở vào chánh điện. Bộ cửa này dài 15,2m, cao 3,2m được làm bằng gỗ Lim (một loại thiết mộc) gồm 20 tấm. Trong đó, mỗi tấm cao 3,2m, ngang 0,76m. Ở hai ô cửa nằm về bên phải và bên trái của bộ cửa gồm 8 tấm khắc nổi Bát Bộ Kim Cương thì 12 tấm nằm nơi 3 ô giữa lại khắc nổi 12 vị thần biểu trưng cho Thập Nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. 8 vị Kim Cương và 12 vị thần này được những người thợ khắc nổi ngay chính giữa của từng tấm với chiều cao 1,06m, ngang 0,45m.

Bộ cửa bằng gỗ Lim này được những người thợ thực hiện trong năm 2005, tạo nét điêu khắc công phu, điêu luyện, độc đáo nơi cửa Phật.

Nhà thờ cổ nhất: Nhà thờ chợ Quán

Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc ở số 120 Trần Bình Trọng, phường 2, quận 5, TP HCM; mang kiến trúc theo kiểu Gothique, trải qua hơn 100 năm nhưng vẫn uy nghi, đồ sộ nhất khu vực chợ Lớn.


Nhà thờ chợ Quán. Ảnh: internet
Chợ Quán là một trong những họ Đạo lâu đời nhất của Tổng giáo phận TP HCM. Nơi đây đã xây dựng ngôi nhà nguyện đầu tiên vào năm 1674 do giáo dân từ miền Bắc, Trung vào xây dựng.
Sau nhiều lần xây lại nhà thờ, năm 1887, cha xứ Nicola Ham (Tài) khởi công xây dựng nhà thờ mới. Công trình này được khánh thành vào mùng 4 tết Bính Thân (1896) và tồn tại đến nay.
Khách sạn Continental, Nhà thờ Đức Bà, Bưu Điện Thành phố... là những công trình cổ kính nhất giữa lòng Sài Gòn - TP HCM tráng lệ và sôi động.
Khách sạn Continental Saigon

Tọa lạc ở số 132-134 Đồng Khởi (quận 1) - vị trí trung tâm thành phố với nhiều công trình kiến trúc trang nhã của Pháp, Khách sạn Continental Saigon thực sự mang đậm nét truyền thống độc nhất vô nhị của nét kiến trúc với lịch sử 121 năm. Đây là một trong những khách sạn cổ nhất tại Sài Gòn - TP HCM.


Khách sạn Continental Saigon xưa. Ảnh tư liệu
Khách sạn được xây dựng vào năm 1878 dưới thời Pháp thuộc, do ông Pierre Cazeau, một nhà sản xuất vật liệu xây cất và dụng cụ trong nhà làm chủ. Ông Cazeau muốn mở một khách sạn sang trọng để tiếp đón các du khách từ Pháp đến Sài Gòn sau một cuộc hải hành rất dài từ "mẫu quốc". Khách sạn khánh thành năm 1880.

Năm 1911, khách sạn được sang tên cho Công tước De Montpensier, rồi sau đó năm 1930, có chủ mới là Mathieu Francini, một gangster đảo Corse, điều hành trong suốt một thời gian dài cho đến ngày miền nam Việt Nam được giải phóng (1975). Thập niên 60 - 70, chính quyền yêu cầu các cơ sở kinh doanh ghi tên bảng hiệu bằng tiếng Việt, thì khách sạn được dịch ra thành Đại Lục Lữ quán.

Tuy nhiên, sự nổi tiếng của Khách sạn Continental Saigon không phải xuất phát từ các chủ nhân của nó, mà từ vị trí và những dấu ấn mà lịch sử đã lưu lại. Trước cuộc chiến tranhh Thế giới lần thứ hai, thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (giải thưởng Nobel văn chương năm 1913), nhà văn lừng danh Andre Malraux, tác giả La condition Humaine (Thân phận con người 1933) từng lưu tại đây; nhà văn người Anh Graham Greene lưu trú dài hạn tại phòng 214 đã viết nên tác phẩm The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng) về buổi giao thời giữa thực Dân Pháp và đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam...

Không chỉ có thế, khách sạn còn tiêu biểu cho cả con đường Catinat (sau năm 1975, được đổi tên thành Đồng Khởi) với cụm từ Radio Catinat bởi đây là nơi tụ họp của giới báo chí truyền thông, những chính trị gia, doanh nhân bàn luận chuyện chính trường, chuyện làm ăn và thời cuộc, như: cựu Tổng thống Pháp Giscard D’Estaing, Thị trưởng Paris - cựu Tổng thống Pháp Jacques Chirac, cựu Thủ tướng Malaysia - ông Mohamad Mahathir, Tổng thống Thụy Sỹ, Bộ trưởng Ngoại giao Australia, diễn viên điện ảnh Nero, Catherine Deneuve, người mẫu Kate Moss... Vì lẽ thế, chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta nói: "Nếu những bức tường của Hotel Continental biết nói, chúng sẽ kể cho bạn rất nhiều điều".


Khách sạn Continental Saigon nay. Ảnh: Internet
Ngày nay, Khách sạn Continental vẫn giữ nguyên giáng vẻ thưở nào, duyên dáng và uy nghi. Gam màu trắng chủ đạo đã làm nổi bật sự thanh tao, quý phái và sang trọng của khách sạn cao 4 tầng, gồm 86 phòng đầy đủ tiện nghi và trang thiết bị hiện đại. Trong đó có 6 loại phòng là: Executive Suite, Continental Suite, Junior Suite, Oriental Suite, Deluxe & Superior. Nếu như du khách thích cảm giác ngắm nhìn màu xanh của khu vườn xanh thì có thể chọn phòng hướng vườn; còn nếu thích không gian náo nhiệt của thành phố nhộn nhịp thì có thể chọn phòng hướng phố...

Nhà thờ Đức Bà

Bên cạnh nhà thờ Chợ Quán được xây dựng vào năm 1674 thì nhà thờ Đức Bà được khởi công xây dựng ngày 7/10/1877 và khánh thành ngày 11/4/1880 - cũng được coi là công trình kiến trúc cổ kính nhất của TP HCM.

Theo dòng chảy lịch sử, vào tháng 8/1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ Đức Bà (còn gọi là Nhà thờ Lớn). Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu Roman cải biên pha trộn nét Gotich đã được chọn, với tổng chi phí xây dựng, trang trí nội thất ước tính 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ.

Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.


Nhà thờ Đức Bà. Ảnh: Panoramio
Nhìn từ bên ngoài, toàn bộ nhà thờ từ mái đến tường là một màu đỏ gạch nung. Đặc điểm của loại gạch và ngói xây dựng nhà thờ là giữ nguyên màu từ ngày xây dựng đến nay và không hề đóng rêu mốc. Bên trong nhà thờ khá rộng, có sức chứa 1.200 người, với hai hàng cột chính hình chữ nhật mỗi bên sáu chiếc (tổng cộng 12 chiếc) tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang có khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) với các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Chưa kể, trên tường được trang trí nổi bật là 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp.

Hiện, nhà thờ Đức Bà trở thành một công trình tiêu biểu cho không gian đô thị cả vùng trung tâm Sài Gòn và do đó ý nghĩa về mặt biểu tượng nhiều khi còn vượt trên cả ý nghĩa công năng của nó. Dù không thành văn, người dân Sài Gòn và cả du khách đến thăm thành phố đều công nhận nhà thờ Đức Bà là ngôi thánh đường đẹp nhất và quan trọng nhất của giáo phận Sài Gòn, là niềm tự hào của người dân thành phố. Thậm chí, nhà thờ trở thành một điểm lý tưởng của những cặp uyên ương đánh dấu cho một cuộc sống mới.

Bưu điện Thành phố

Bưu điện trung tâm TP HCM có địa chỉ số 2, đường Công Xã Paris. Đây là tòa nhà được người Pháp xây dựng với phong cách chiết trung trong khoảng 1886 - 1891 theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Villedieu cùng phụ tá Foulhoux; là công trình kiến trúc mang phong cách châu Âu kết hợp với nét trang trí châu Á.


Bưu điện Sài Gòn xưa. Ảnh tư liệu
Vẻ đẹp độc đáo của toà nhà Bưu điện Thành phố càng được tôn lên vì trước mặt nó có một công trình lộng lẫy là Nhà thờ Đức Bà với tháp chuông cao vút. Tòa nhà nổi bật với sự bố cục cân đối của các hạng mục công trình mang tính thẩm mỹ cao. Các chi tiết cân đối, chia đều ra hai bên, đối xứng nhau qua một "trục" trung tâm. Mặt tiền có kết cấu hình khối, với vòm cung phía trên các cửa. Hệ thống cột, trụ chính, phụ, mái hiên đều có kết cấu hình khối vuông. Trên mỗi đầu trụ, cột được chạm khắc hoa văn, phù điều công phu, tỉ mỉ. Ở mặt tiền tòa nhà có hệ thống đường viền, đường chỉ là những chuỗi hoa văn chạy ngang, tạo nên vẻ đẹp, sự cân đối và làm cho tòa nhà có vẻ như không cao lắm.
Bên trong tòa nhà là hệ thống vòm cung sát cửa chính và vòm cung dài bên trong. Vòm cung lớn được chống đỡ bởi bốn trụ sắt nằm bốn góc, mỗi cột chống đỡ bốn kèo sắt tỏa ra bốn phía. Vòm cung dài được chịu lực bởi hai hàng trụ sắt hai bên. Các điểm tiếp nối giữa trụ và kèo sắt được thiết kế công phu, chạm khắc thành những chi tiết có hoa văn đẹp. Với hệ thống vòm cung này, tòa nhà trở nên cao, rộng rãi và thoáng mát, thích hợp với một nơi thường có nhiều người ra vào.

Ngoài ra, trên vòm mái trong tiền sảnh của toà nhà có hai bản đồ lịch sử Saigon et ses environs 1892 và Lignes télegraphiques du Sud Vietnam et du Cambodge 1936.


Bưu điện trung tâm TP HCM ngày nay. Ảnh: Panoramio
Hiện nay, xung quanh tòa nhà Bưu điện trung tâm TP HCM còn có thêm một số công trình kiến trúc làm kho tàng, lắp đặt những máy móc, thiết bị bưu điện truyền tin hiện đại…


Nguồn

Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2011

Chuyện tình qua tiểu thuyết Kim Dung Tác giả: Hồng Hạc

Kỳ 6: Mấy ai học được chữ ngờ ?


Không ngờ:
Ném khỏi tam thiên
cả trái núi lớn,
nhưng bồng bóng mình
bồng mãi không lên.

Chẳng ai ngờ vương phi Đao Bạch Phượng, một phu nhân cao quý "kiều diễm như một đóa sơn trà" lại ngã vào vòng tay một gã ăn mày hôi hám, người đầy vết thương và ruồi nhặng như Đoàn Diên Khánh.
Duyên do cũng vì ghen với chồng là Đoàn Chính Thuần, có số đào hoa với quá nhiều người tình, mà ra. Nàng oán hận, lẩm bẩm một mình như nói với chồng: "Ta đã tha thứ cho ngươi hết lần này đến lần khác, bây giờ không thể tiếp tục tha thứ nữa. Ngươi có lỗi với ta, ta cũng sẽ có lỗi với ngươi. Ngươi đi tìm người khác, ta cũng sẽ đi tìm người khác (…). Ta nên tìm một kẻ xấu xí, ô uế nhất thiên hạ để hiến thân. Ngươi là Vương gia, là Đại tướng quân, ta lại càng nên đối xử tốt với gã hành khất bẩn thỉu này" (1). Rồi nàng không nói gì, dưới gốc bồ đề chùa Thiên Long "từ từ trút bỏ y phục, đến trước mặt Đoàn Diên Khánh, chui vào lòng lão, đưa hai cánh tay như hoa như ngọc quàng lấy cổ lão (…). Nữ lang áo trắng đứng dậy lâu rồi, Đoàn Diên Khánh vẫn còn tưởng mình nằm mơ, chẳng hiểu chuyện thật hay giả. Thần trí lão vẫn hồ đồ, nghĩ rằng đây là Bồ Tát giáng trần. Mũi lão vẫn còn phảng phất ngửi thấy mùi hương nhẹ nhàng của nàng. Lão nghiêng đầu đi, lấy tay viết xuống đất bảy chữ: “Nàng là Quan Thế Âm tóc dài?". Lão viết bảy chữ này để hỏi nữ lang, thấy nàng gật gật đầu, rồi đột nhiên, mấy hạt châu nhỏ xuống bên dòng chữ. Không hiểu đó là nước mắt của nàng hay nước cam lồ của Quan Âm vẩy ra" (2).

Cái chẳng ai ngờ nữa, là gã ăn mày Đoàn Diên Khánh kia lại là hoàng thái tử của nước Đại Lý, do một biến loạn ở triều đình, đã phải lao vào gió bụi. Sau nhiều chuyện không may khác, y lê tấm thân tàn tạ, cố vươn lên. Nhưng những bi đát ngày càng bủa vây. Y lại càng vùng vẫy, trở thành đệ nhất ác nhân giang hồ. Nhưng khi sắp xuống tay giết Đoàn Dự, y bỗng nghe tiếng Đao Bạch Phượng ngâm nga: Ngoài chùa Thiên Long. Dưới gốc bồ đề. Hành khất phương xa. Quan Âm tóc dài, thì nghĩ đến chuyện cũ năm xưa, lúc tình cờ được vương phi hiến thân, rồi biết Đoàn Dự là con mình...

Những cái không ngờ vẫn đầy dẫy. Anh hùng hảo hớn như Kiều Phong có lúc phải khóc vì "ngày mình lên kế vị Bang chúa, ân sư lại ngấm ngầm viết đạo huấn dụ (về trường hợp nếu Kiều Phong thân Liêu phản Hán, giúp Khất Đan để hiếp đáp Đại Tống thì phải lập tức hạ sát ngay)"(3). Hoặc những chuyện bất ngờ xảy đến mà ngay cả người thọ nhận không hề biết trước. Như Lệnh Hồ Xung lúc võ công đột biến lên mức thượng thừa "người còn lơ lửng trên không, thừa thế rút trường kiếm ở sau lưng tiện tay phóng ra. Cổ tay chàng vừa rung động đã nghe đánh "cách" một tiếng. Thanh trường kiếm tra vào vỏ rồi, chân trái chàng cũng vừa chấm đất. Chàng ngẩng nhìn lên thấy năm chiếc lá liễu ở trên không đang từ từ bay xuống. Nguyên vừa rồi chàng phóng nhát kiếm đó dĩ nhiên đã phân biệt đâm trúng vào năm cuống lá liễu", Lệnh Hồ Xung lại rút kiếm khoa thành một đường hình cánh cung "kiếm quang vừa lấp loáng lóe mắt, năm chiếc lá liễu đều đã thu vào trên mặt lưỡi kiếm" (4).

Kiếm pháp tuyệt diệu như thế thật "khó hiểu khó tin". Như có bạn đọc trách tác giả "bịa đặt ghê gớm quá". Chỗ này, Vương Trí Nhàn viết: "lối thưởng thức văn chương trong sự ràng buộc với cái thực đã thâm căn cố đế ở nhiều người, và suy nghĩ về vấn đề này người ta thường vẫn bị các bậc thầy của văn học phương Tây ám ảnh. Rằng, tác phẩm này diễn tả thành phố Paris đúng đắn từng chi tiết. Rằng, trong tác phẩm kia, có những tài liệu có thể dùng làm dữ kiện tham khảo cho các nhà nghiên cứu kinh tế. Kể ra, đó cũng là những nhận xét xác đáng, có điều, nếu coi đó là phương hướng duy nhất để văn học đi theo thì không đúng" (5). Khó tìm ra những cái "duy nhất" làm mẫu mực cho các loài. Hoa, cũng có hoa cúc, hoa kim ba tuần. Người, cũng có người thiện, kẻ ác. Cái thiện là đáng quý. Cái ác đương nhiên phải bị bài trừ, lên án. Song cũng đừng đẩy cái ác đến mặt đối lập tuyệt đối với những tiêu chuẩn của cái thiện. Mà đặt nó trong bối cảnh xuất phát các hành vi để xem xét và hóa giải nó. Nên con đường trung đạo cuối cùng đã thức tỉnh bước chân của Tạ Tốn vốn để về lại chân tâm của mình sẵn có, chứ không phải bắt đầu học những bài vỡ lòng trong các giáo điều, văn tự. Vì dù học nghìn pho kinh con người vẫn không thể thuộc làu làu trôi chảy, chính xác bằng một máy ghi âm. Nhưng máy ghi âm dẫu in tám vạn bốn nghìn pháp môn của ba nghìn thế giới vẫn mãi mãi không thể biến thành người, huống hồ thành bậc vô sư. Những bức thư tình hay nhất thế giới cũng không thể giúp một trái tim tan vỡ trở nên lành lặn. Chúng có giá trị thực sự trong đời sống chỉ khi được sử dụng như thế nào để góp sức mở cửa một tâm hồn. Do vậy cần có những tác duyên sống động ngoài văn tự, giáo điều, như tiếng trẻ khóc trên hoang đảo, tiếng gọi cha đằm thắm bất ngờ, hoặc tiếng một người phụ nữ cất lên đúng lúc, một cành cây gãy, một đóa hoa rơi, một tiếng hét, một tách trà bị đánh vỡ, hoặc đôi khi - một niềm im lặng miên man...

Người ta yêu nhau cũng vậy. Những tác duyên lặng lẽ đưa họ bước vào thế giới của "hai người". Những cuộc chia ly của họ có thể được hẹn hò gặp gỡ ở một nơi khác, xa hơn mặt đất này. Ngược lại, dầu ở mặt đất, những người không biết yêu khó mà biết sống như Đỗ Long Vân viết: "Cái tên Bất Hối mà Kỷ Hiểu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình có lẽ đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung Phục sẽ bị trừng trị đến hóa điên, không phải vì tham vọng của chàng quá lớn, mà tại vì chàng là nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết thế nào là tình yêu".
---------------------
* (1) và (2): Thiên long bát bộ, Kim Dung. Đông Hải dịch, NXB Văn học, Hà Nội 2003.
* (3) và (4): Hàn Giang Nhạn tiên sinh dịch. Xin lưu ý, những câu trích từ Cô gái đồ long trong các bài trước là theo bản dịch của Từ Khánh Phụng, không phải của Hàn Giang Nhạn như chú thích ở kỳ 1 của loạt bài.
* (5): Kim Dung - tác phẩm và dư luận (nhiều tác giả). Trần Thức sưu tầm và tuyển chọn, NXB Văn học và Công ty Văn hóa Phương Nam ấn hành, 2001.

Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2011

Chuyện tình qua tiểu thuyết Kim Dung-Kỳ 5

Kỳ 5: Lăng Sương Hoa: sống và chết bên hoa


Sớm nhìn hoa nở
Tối mơ thấy người
Mỗi đóa hoa tươi
Một vời vợi nhớ
Đến như hoa có mặt suốt cuộc tình của Lăng Sương Hoa, với ý nghĩa và vị trí đặc biệt "thăng hoa" trong tiểu thuyết Liên thành quyết, ngay từ buổi "khai hoa" của mối tình giữa nàng với giang hồ khách Đinh Điển.
Ở đó, hoa đã thay mặt nói lên tiếng nói nhớ thương của người tình ngoài cửa ngục, gửi đến người yêu bị xiềng xích bên trong. Rồi hoa lặng lẽ thở dài bên tro xương tàn tạ của hai người trong đoạn cuối. Mở đầu, họ gặp nhau trong một hội hoa. Đinh Điển trao hoa cho Lăng Sương Hoa và bảo hoa đó rất lâu tàn: "mỗi lần ngắm hoa hãy kể như có Đinh Điển trước mặt". Tuy muốn mãi gần người tặng hoa, như màu hoa và cánh hoa không tách rời nhau, nhưng tri phủ Kinh Châu Lăng Thoái Chi, cha của Lăng Sương Hoa, ngăn cấm, chia cách họ. Vì dưới mắt ông, Đinh Điển thuộc hàng giang hồ trôi giạt như mây, không xứng với Lăng Sương Hoa là tiểu thư, hoa khôi vùng Vũ Hán. Nghe tin Đinh Điển nắm bí mật của kho tàng mà mình đang ham muốn, tìm kiếm, tri phủ họ Lăng mời Đinh Điển đến để bàn chuyện tác hợp mối duyên với con gái mình, nhưng thật ra ông ta đã dùng hoa độc làm thuốc mê bắt giam Đinh Điển, tra tấn hòng chiếm đoạt Liên thành quyết để giải mã bí ẩn về kho tàng và môn Thần chiếu công. Đinh Điển nhìn qua cửa ngục thường ngày thấy hoa trên cửa phòng của tiểu thư Lăng Sương Hoa vẫn tươi, biết là hoa ấy tươi vì mình, nở cho mình, là tín hiệu tình yêu không tàn của nàng. Đoạn này, Huỳnh Ngọc Chiến liên tưởng khá thú vị: "Cảnh đưa tin của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa giống như anh chàng Hời trong chuyện Tô Hoài. Một người ngồi dệt vải, khi nghe mùi hương thoang thoảng lan trong cảnh đêm thanh tĩnh của cánh hoa lài ném qua cửa sổ, là biết đã đến giờ hẹn với người yêu" và "chỉ có một sự hòa điệu của cung bậc tri âm trong tình yêu chân chính mới có thể giúp người con gái xinh đẹp (Lăng Sương Hoa) làm một điều mà cả thượng đế cũng phải bàng hoàng", đó là hủy hoại nhan sắc, trở nên xấu xí, để không ai muốn cầu hôn nữa và giữ chung thủy với Đinh Điển đến chết trong sầu muộn. Đinh Điển được thả khỏi nhà giam đến bên quan tài của nàng vốn đã bị tri phủ họ Lăng dùng chất độc của hoa kim ba tuần rải lên. Đinh Điển chết, tro tàn được hợp táng cùng mộ nàng Hoa. Có thể nói, chuyện tình này là một trong những chuyện lãng mạn đậm đà mà Kim Dung đã viết và đem vào thế giới võ hiệp của ông mùi hương của một loài "hoa tình yêu" mới, nhưng vẫn mang cái tên khai sinh thanh khiết và quen thuộc đặt cho người là: Hoa.
Những chuyện tình như vậy trong thế giới võ hiệp Kim Dung đến với bạn đọc Việt Nam khá sớm. Cuối những năm của thập niên 1960, đã có một số tác giả như Đỗ Long Vân, Bửu Ý hoặc Bùi Giáng viết về Kim Dung qua các bài phê bình, sáng tác của mình. Trong đó, nhận định về chữ Tình (và các đề tài triết học, văn học khác) trong tác phẩm Kim Dung đến nay vẫn được nhiều bạn đọc tâm đắc, là của nhà nghiên cứu Đỗ Long Vân với Vô Kỵ giữa chúng ta (viết cách đây hơn 38 năm, NXB Trình Bày 1967). Theo đó, các nhân vật của Kim Dung đã thường xuyên tự tra vấn, xét lại những thành kiến và những quyết định mà họ trót bị cột chặt vào đó, cho nên "người nào cũng có một đời sống bên trong sôi động". Và bên ngoài cái phong cách tàn bạo giang hồ thì "nhân vật nào trong Kim Dung lại không đa sầu, đa cảm và đa tình?". Như Hoàng Dược Sư thủy chung với người vợ sớm qua đời đã "cất tiếng sáo trên nước biếc, một mình một chiếc thuyền, ông đi khắp bốn bể tìm con".
Từ đề dẫn trên, Đỗ Long Vân viết: "Cái tình là tiếng nói của cái phần sâu xa nhất trong mỗi người", tuy cái tình đó khó biểu lộ và khá lạnh lùng giữa quan hệ của "các vai trò xã hội" nhưng nó lại bùng phát tự nhiên, ấm áp, hoặc nóng bỏng một khi "hai nhân vật khám phá ra nhau". Ví dụ khi Trương Thúy Sơn thuộc danh môn chánh phái Võ Đang thấy rằng Hân Tố Tố "không giống hẳn cái ảnh tượng mà ba tiếng nữ ma đầu gợi ra trong đầu chàng thì cái tình giữa hai người đã bắt đầu". Điều khác nơi các nhân vật của Kim Dung so với chuyện võ hiệp cổ điển là họ dám phá vỡ những khuôn khổ chật hẹp của các quan niệm cũ. Trước họ, chữ Tình "chỉ định một tương quan ngoại tại, ước lệ và trừu tượng, quy định bởi thứ bậc xã hội và những tiêu chuẩn đạo lý" nên khó có mối tình nào nảy nở đơm bông giữa hai người Tà môn và Chính giáo. Đến Kim Dung "cái tình là tinh hoa của năng tính" có sức mạnh chuyển hóa các mâu thuẫn nội tại cũng như những "giới hạn giả tạo" do con người đặt ra ngoài xã hội. Cái tinh hoa đó tự phát tiết mang lại những sắc thái của tình yêu mà Đỗ Long Vân đúc kết như sau: "Tri kỷ như giữa Hoàng Dung và Quách Tĩnh, thần tiên như giữa Dương Qua và Tiểu Long Nữ, ác độc như giữa Du Thản Chi và A Tỷ. Có những mối tình trưởng thành trong sự chia sẻ những nguy hiểm và gian khổ chung, và những mối tình như của Hân Ly với Vô Kỵ kết tinh từ một kỷ niệm nhỏ thuở thiếu thời. Lại có những mối tình sét đánh, như Đoàn Dự vừa trông thấy Vương Ngọc Yến là tưởng như tất cả những nhan sắc khác đều bị xóa nhòa. Những người yêu thì có kẻ đào hoa như Đoàn Chính Thuần, phụng hiến như Đoàn Dự, ngây thơ như Hân Ly, đau khổ như Chu Chỉ Nhược, dịu dàng như A Chu, nhưng người nào cũng yêu đắm đuối như đã gặp trong người mình yêu một cái gì không thể gặp được lần thứ hai ở trên đời". Tới đây chúng ta hãy đến với mối tình nở hoa giữa Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Kết quả của mối tình này khác hoàn toàn với mối tình sầu muộn của Lăng Sương Hoa viết ở đầu bài. Tiểu Long Nữ là người dạy võ nghệ cho Dương Qua nên đứng về vai vế là sư phụ của Dương Qua. Vì thế trong khuôn khổ trật tự truyền thống, hai người không thể "yêu nhau" được... Nhưng họ đã vượt qua rào cản đó để đến với nhau. Tình yêu của họ nảy mầm từ một thế giới cách biệt với người đời - hồn nhiên như mây gặp gió trên trời. Như Tiểu Long Nữ từ trong cổ mộ bước ra và Dương Qua từ cõi mồ côi vắng vẻ đến gặp nàng. Khi Tiểu Long Nữ bị kẻ khác chiếm đoạt trinh tiết, Dương Qua không coi đó là hố sâu ngăn cách. Khi Dương Qua bị chém cụt cánh tay, thành tàn tật, Tiểu Long Nữ không bị ám ảnh bởi "khiếm khuyết" đó của người yêu. Họ sẵn sàng đổi sinh mạng của người này cho sự sống người kia. Suốt 16 năm xa cách, lúc nào họ cũng nghĩ đến nhau. Gặp lại bên bàn tiệc của Cái bang, trước mặt đông đảo giới giang hồ, họ vẫn ngồi kề bên nhau chuyện trò, thắm thiết. Vượt qua những cái nhìn khắt khe, không ám ảnh bởi sự thất tiết, tật nguyền, được thử thách bởi sự phân ly, sinh tử, để cuối cùng họ sống bên nhau, thiết lập "một cõi riêng" bềnh bồng trong thế giới đầy định kiến của con người. Chuyện tình của họ đến nay vẫn được nhắc đến bởi nhiều cây bút Việt Nam. Những năm gần đây, đã xuất hiện thêm các chuyên luận, bài viết và bản dịch của các tác giả: Ông Văn Tùng, Cao Tự Thanh, Phạm Tú Châu. Vũ Đức Sao Biển, Lê Khánh Trường, Huỳnh Ngọc Chiến, Nguyễn Thị Bích Hải... Trong đó Ngoài trời lại có trời của Vương Trí Nhàn gợi mở "một cách nhìn khác xưa" như thế nào về tiểu thuyết Kim Dung?

Hồng Hạc

Thứ Hai, 5 tháng 12, 2011

Kahlil Gibran - Ðừng hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn

Kahlil Gibran

Nguyễn Ước dịch

Lời người dịch: Trên vách nhà của nhiều người Mỹ có treo tấm lắc ghi câu cố Tổng thống John F. Kennedy kêu gọi đồng bào Hoa Kỳ của ông và các công dân thế giới, trong diễn văn nhậm chức ngày 20.1.1961:

“Ask not what your country can do for you, but ask what you can do for your country.”

(Ðừng hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước.)

Lời phát biểu bất hủ ấy lần đầu tiên xuất hiện trong một bài thơ xuôi của Kahlil Gibran, viết bằng tiếng Arập, khoảng thập niên 1920, mà nhan đề của nó, theo Joseph Sheban, có thể dịch sang tiếng Anh là The New Deal(Đối xử mới) hoặc The New Frontier (Biên cương mới).

Kahlil Gibran (1883-1931) là thi sĩ và họa sĩ người Mỹ gốc Liban. Cùng gia đình di dân sang New York năm 1895, tới năm 15 tuổi ông quay về học ở quê hương và trở lại Mỹ năm 1902. Ba mươi năm sau, thi hài của ông được đem về an táng tại thị trấn chôn nhau cắt rốn.

Gibran để lại hàng trăm bức họa và khoảng 30 tác phẩm viết bằng tiếng Arập hoặc tiếng Anh. Với cung giọng ngôn sứ đầy chất thơ, tác phẩm của Kahil Gibran như một dòng chảy tổng hợp các suối nguồn Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Các bài trường đoản cú hay các bài thơ xuôi của ông cao nhã, ngôn từ trang trọng, với hình ảnh con người hướng thượng, chiêm nghiệm, và dấn thân, kèm theo những cái nhìn thấu suốt vào các chủ đề của cuộc sống, được diễn tả bằng thuật ngữ tâm linh.

Tuyệt phẩm The Prophet (Ngôn sứ) của Gibran xuất bản lần đầu năm 1923, được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và là một trong các sách bán chạy nhất tại Mỹ trong thế kỷ 20. The Prophet gồm 26 tiểu luận bằng thơ xuôi, ứng xử chuyên biệt với các chủ đề trong cuộc sống. Nó đặc biệt nổi bật trong thập niên 1960 với hai trào lưu Thời đại Mới (New Age) và Phản Văn hóa (Counter-culture), đồng thời tinh thần Biên cương mới góp phần tạo cảm hứng cho các phong trào thiện nguyện viên quốc tế, các tổ chức bất vụ lợi (NGO) hoạt động văn hóa, xã hội, y tế… trên khắp thế giới.

Với Kahil Gibran, “Lịch sử chỉ lặp lại chính nó trong tâm trí những kẻ không biết lịch sử” (History does not repeat itself except in the minds of those who do not know history), và “Một nửa những gì tôi viết là vô nghĩa, nhưng tôi nói nửa ấy ra để nửa kia có thể với tới bạn” (Half of what I say is meaningless, but I say it so that the other half may reach you).

Một số câu truyện và bài viết của Gibran bảy tám chục năm trước đã thuộc về lịch sử, nhưng một số khác vẫn mang tính đương đại, vượt thời gian và thích hợp với hoàn cảnh chính trị và văn hóa thời nay, trong đó có thể kể luôn cả Việt Nam. Có lẽ nhờ thế từ sau khi Gibran qua đời, ảnh hưởng của ông ngày càng lan rộng từ lãnh vực hội họa, triết học, văn học cho tới môi sinh, tại các đại học Hoa Kỳ và Trung Ðông, Unesco, các giải thưởng quốc tế mang tên ông…

Tại Nam Việt trước năm 1975, có ít nhất năm tác phẩm của Kahil Gibran được dịch ra tiếng Việt và xuất bản. Cuốn The Prophet có hai bản dịch: Kẻ tiên triMật khải.

Bài thơ xuôi dưới đây dịch từ bản tiếng Anh của Joseph Sheban, trích từ cuốn A Third Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng thứ ba của Kahlil Gibran) do Andrew Dib Sherfan biên tập và giới thiệu, Nxb The Citadel Press, Secaucus, New Jersey, HK, tái bản lần thứ ba năm 1975, tt. 52-57.

______________

Biên cương mới

Kahlil Gibran

Ở Trung Ðông ngày nay có hai ý tưởng cũ và mới đang thách thức nhau.

Những ý tưởng cũ rồi sẽ biến mất vì chúng yếu ớt và kiệt quệ.

Ở Trung Ðông đang có cơn bừng tỉnh xem thường những giấc ngủ say. Cơn bừng tỉnh này sẽ lướt thắng vì mặt trời là thủ lãnh và bình minh là đạo binh của nó.

Trên các cánh đồng Trung Ðông, nơi bao la đất nghĩa trang, đứng lên tuổi trẻ của mùa Xuân, cất lời kêu gọi những ai cư ngụ trong mộ đá hãy trỗi dậy và tiến về những biên cương mới.

Khi mùa Xuân ngân lên nhịp điệu của nó cũng là lúc thần chết vươn vai, trải tấm vải liệm và cất bước chân đi.

Nơi chân trời Trung Ðông cơn bừng tỉnh mới đang dâng cao và trải rộng, chạm tới và bao phủ mọi linh hồn mẫn tuệ và nhạy cảm, thấm sâu và thu phục thiện cảm của những con tim cao nhã.

Trung Ðông ngày nay có hai chủ nhân. Một là người quyết định, ra lệnh và được vâng lời; nhưng kẻ đó đang lâm vào thời điểm tử vong.

Còn chủ nhân kia dù im tiếng tuân giữ luật lệ và trật tự, trầm lặng trông chờ công lý; nhưng là người khổng lồ đầy quyền năng, biết rõ sức mạnh của mình, tự tin vào sự hiện hữu của mình và tin tưởng định mệnh của mình.

Ở Trung Ðông ngày nay, có hai loại người: một của quá khứ và một của tương lai. Bạn là con người nào trong hai loại đó? Hãy tới sát bên tôi để tôi nhìn bạn, và hãy cho tôi được bảo đảm, bằng diện mạo và hạnh kiểm của bạn, rằng bạn là người cất bước tiến về nơi ánh sáng hay là kẻ đang đi vào chốn tối tăm.

Hãy tới kề bên tôi, nói cho tôi biết bạn là ai và bạn làm gì.

Có phải là bạn là kẻ làm chính trị đang hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn, hay bạn là người nhiệt tình đang hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước?

Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là ký sinh trùng; nếu là người thứ hai, thế thì bạn đang là ốc đảo trong sa mạc.

Có phải bạn là một thương buôn đang sử dụng những cần thiết của xã hội cho các nhu cầu của cuộc sống mình, cho lợi nhuận độc quyền và phi lý, hay bạn là người siêng năng giản dị, cần cù lao động, sẵn lòng cho sự đổi chác giữa thợ dệt và nông dân, và có phải bạn đang đòi lợi nhuận hợp lý như một người trung gian giữa hai phía cung cầu?

Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là phạm nhân dù đang sống trong lâu đài biệt thự hay chốn lao tù. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là người từ tâm cho dẫu bạn được dân chúng cảm tạ hoặc bị họ đấu tố.

Có phải bạn là nhà lãnh đạo tôn giáo đang đan dệt cho hình hài mình chiếc áo chùng tu sĩ xuất từ sự vô minh của dân chúng, đang nặn đúc chiếc mũ miện cho mình xuất từ sự chất phác của tâm hồn dân chúng, và đang giả vờ ghét cái ác chỉ vì muốn sống dựa vào lợi tức của mình?

Hay có phải bạn là người ngoan đạo và tận hiến, đang tìm thấy trong lòng mộ đạo của cá nhân mỗi người nền tảng cho một đất nước tiến bộ, và có thể thấy xuyên qua cuộc tìm kiếm sâu xa trong thăm thẳm linh hồn mình chiếc thang dẫn lên linh hồn vĩnh cửu, cái định hướng cho thế giới?

Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là tên dị giáo, không tin vào Thượng đế dù đang ăn chay ban ngày và cầu nguyện ban đêm.

Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là cây hoa tím trong vườn chân lý cho dẫu mùi thơm thất lạc trên cánh mũi của loài người, hoặc cho dẫu hương thơm tỏa vào không khí hiếm hoi ở đó mùi hương của các đóa hoa được giữ gìn.

Có phải bạn là người làm báo, đang bán ý tưởng và nguyên tắc của mình trong ngôi chợ nô lệ, và sống trên sự khốn khó của dân chúng, như kên kên chỉ sà cánh xuống các thây ma động vật thối rữa?

Hay có phải bạn là nhà giáo trên bục giảng của đô thị, đang thu thập kinh nghiệm từ cuộc sống và trình bày cho dân chúng theo những bài giảng bạn từng học được?

Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là vết thương và mụt nhọt. Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là thuốc xoa dịu chỗ đau và là dược phẩm.

Có phải bạn là người cai trị đang tự hạ trước kẻ bổ nhiệm mình, xem thường những ai bị mình cai trị, và chưa hề nhấc bàn tay trừ phi để với tới các chiếc túi, cũng như không bao giờ cất chân bước tới trừ phi để nghênh đón cấp trên?

Hay có phải bạn là người đầy tớ trung thành chỉ phục vụ cho phúc lợi của dân chúng?

Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn như bao bì khấu trừ trong sân đập lúa của quốc gia; và nếu là người thứ hai, thế thì bạn là phúc lành trên các kho lẫm.

Có phải bạn là người đang cho mình được làm điều mình không cho phép vợ làm, bỏ nàng sống quạnh hiu với chiếc chìa khóa bạn nhét kỹ trong chiếc ủng của mình, và đang tham lam ăn nhậu, nhồi nhét các thức ăn mình ưa chuộng trong khi nàng ngồi đó với chiếc đĩa trống không?

Hay có phải bạn là người bạn đời chỉ hành động khi sóng đôi tay trong tay hoặc không làm điều gì nếu nàng chưa đưa ý nghĩ và ý kiến của riêng nàng, và cùng chia sẻ với nàng hạnh phúc và thành công của bạn?

Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là một tàn dư của bộ lạc, đang khoác lớp da của loài sinh vật đã biến mất rất lâu trước ngày rời hang động; và nếu bạn là người thứ hai, thế thì bạn là lãnh đạo của một đất nước đang chuyển động trong rạng đông tới ánh sáng của công lý và minh triết.

Có phải bạn là một nhà văn đang chỉ tìm kiếm trong sự tự ngưỡng mộ, giữ cho mình ở mãi trong thung lũng quá khứ bụi bặm, nơi các thời đại vứt lại tàn dư y trang và các ý tưởng vô dụng?

Hay bạn là người suy tư sáng sủa, đang xem xét điều tốt lành và hữu ích cho xã hội, và trang trải đời mình trong cuộc xây dựng những gì mang lại lợi ích và hủy diệt những gì gây tổn hại?

Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn nhu nhược và rồ dại; và nếu là người thứ hai, thế thì bạn là cơm cho những ai đang đói và nước cho những ai đang khát.

Có phải bạn là một nhà thơ đang rung lục lạc nơi cửa nhà các tiểu vương gia hay tung hoa trong lễ cưới, và là kẻ bước đi trong đám tang với chiếc khăn thấm đẫm nước ấm trên cửa miệng, rồi được vắt bằng lưỡi cùng môi mình ngay lúc vừa đặt chân tới nghĩa trang?

Hay có phải bạn là tặng phẩm Thượng đế đặt trong đôi bàn tay bạn, nơi dạo lên những khúc nhạc tuyệt trần, nâng tâm hồn chúng tôi tới những tuyệt vời trong cuộc sống?

Nếu là kẻ thứ nhất, thế thì bạn là gã làm trò tung hứng, đang gợi lên trong lòng chúng tôi điều ngược lại những gì bạn dự tính.

Nếu là người thứ hai, thế thì bạn là tình yêu trong con tim của chúng tôi và là khải thị trong tâm trí của chúng tôi.

Ở Trung Ðông đang có hai đám rước: một của dân chúng già nua bước đi với những chiếc lưng cong, được nâng đỡ bởi những chiếc gậy cong; họ phì phò thở dù đang trên đường bước xuống đồi.

Hai là đám rước của những người trẻ trung, chạy như bằng đôi chân có cánh và hân hoan như trong thanh quản có sợi tơ đàn; họ vượt qua các chướng ngại như thể đang có nam châm hút họ lên sườn núi và đang có ma thuật mê hoặc trái tim họ.

Bạn thì sao, bạn muốn mình chuyển động trong đám rước nào?

Bạn hãy tự hỏi và lắng mình suy tưởng khi vẫn còn đêm, hãy thấy cho ra mình là nô lệ của hôm qua hay giải thoát cho ngày mai.

Tôi nói với bạn rằng con cái của các năm qua đang bước đi trong đám ma của một kỷ nguyên do chúng tạo ra cho chính chúng. Chúng đang níu kéo sợi thừng mục nhão hẳn sẽ sớm đứt và khiến chúng rơi xuống vực thẳm lãng quên. Tôi nói cho biết rằng chúng đang sống trong những ngôi nhà nền móng suy sụp - nhà của chúng sẽ đổ ập xuống đầu chúng, và như thế sẽ trở thành huyệt mộ của chúng. Tôi nói cho biết rằng hết thảy các ý nghĩ của chúng, các lời nói của chúng, các tranh cãi của chúng, các sáng tác phẩm của chúng, các cuốn sách của chúng và toàn bộ công trình của chúng đều chỉ là những dây xích quá yếu ớt chúng lê theo, không đủ sức kéo khối nặng của chính chúng.

Nhưng con cái của ngày mai là những người được cuộc đời kêu gọi. Họ đi theo nó với đầu ngẩng cao và bằng bước chân chắc nịch. Họ là rạng động của những biên cương mới, không khói sương nào che phủ được họ, không tiếng loảng xoảng của xiềng xích nào nhấn chìm nổi tiếng nói của họ. Họ ít ỏi về số lượng nhưng khác với đống cỏ khô, họ là hạt lúa giống. Chẳng ai biết họ nhưng họ biết nhau. Họ giống những đỉnh núi có thể thấy nhau và nghe nhau, không như những cái hang chẳng bao giờ có thể nghe và thấy. Là hạt giống gieo bởi bàn tay Thượng đế trên cánh đồng, họ sẽ xuyên thủng vỏ và đong đưa chiếc lá tươi non trước vầng thái dương. Rồi sẽ lớn thành cây mạnh mẽ với rễ cắm sâu trong lòng đất và cành vươn lên giữa trời cao.

Nguồn