Hiển thị các bài đăng có nhãn Các diễn văn làm thay đổi thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Các diễn văn làm thay đổi thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

“Tôi có một giấc mơ” – Martin Luther King, Jr.

“Tôi có một giấc mơ” – Martin Luther King, Jr.

Các Diễn Văn Làm Thay Đổi Thế Giới –

Chế độ nô lệ và sự phân biệt chủng tộc đối với người da đen luôn là một mảng quan trọng trong lịch sử cận-hiện đại của Hoa Kỳ

Từ năm 1500, trong những chuyến tàu chở nô lệ đầu tiên đến Mỹ, những người nô lệ da đen bị lùa từ châu Phi sang. Họ bị đối xử như súc vật đúng nghĩa (vì luật pháp bấy giờ không coi họ là con người), làm việc 16 giờ 1 ngày và không được hưởng bất cứ quyền gì (Nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về tình cảnh của những nô lệ da đen thời kỳ đầu, có thể đọc thêm cuốn “Cội Rễ” miêu tả về 7 thế hệ người da đen bắt đầu từ ông tổ bị bắt ở châu Phi đến thế hệ cuối cùng được giải phóng)

Từ đó (đến tận ngày nay) người da đen vẫn liên tục đấu tranh cho quyền con người của mình với ước mong được bình đẳng với những con người khác. Trong quá trình đấu tranh đó, xuất hiện 2 người vĩ đại tạo nên những bước ngoặc quan trọng

Người đầu tiên là tổng thống Abraham Lincoln với quyết tâm xoá bỏ chế độ nô lệ. quyết tâm này đã dẫn đến cuộc nội chiến Mỹ giữa chủ nô miền Nam và những người giải phóng nô lệ miền Bắc (nếu ai thích có thể đọc lại “Cuốn Theo Chiều Gió”). Ông đã thành công và người da đen được xem như là “người” tại nước Mỹ. Vì những tranh đấu của mình mà ông bị ám sát chết!

Tuy nhiên, sau khi xoá bỏ chế độ nô lệ, người da đen vẫn bị đối xử như những người “hạ đẳng” trong xã hội, họ phải đi học ở trường riêng, ăn riêng, uống riêng, đi vệ sinh trong các nhà vệ sinh dành riêng cho người da đen. Và những cái “riêng” này thì luôn tồi tệ.

Martin Luther King là người vĩ đại thứ 2, ông đã cống hiến cuộc đời mình, tiếp nối các thành quả của Lincoln, tiếp tục chiến đấu giành quyền bình đẳng thực sự cho người da đen: được hưởng nền giáo dục bình đẳng, quyền công dân bình đẳng (như đi bầu cử). Ông đã có những thành công lớn và ngày nay người da đen được bình đẳng về nguyên tắc với người da trắng. Vì những tranh đấu của mình, ông cũng bị ám sát chết!

Sự phân biệt chủng tộc bám rễ sâu trong lòng người Mỹ và không dễ dàng nhổ ra trong 1 lúc

Trở lại các tranh đấu của King, ông đã kiên trì theo đuổi đường lối bất bạo động, chỉ tác động đến suy nghĩ của người dân thông qua các cuộc biểu tình, tuần hành và phương tiện thông tin đại chúng. Ông tổ chức những cuộc phản kháng nhằm chống lại hệ thống kỳ thị tại các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ, được biết với tên luật Jim Crow, thu hút sự chú ý rộng rãi của các phương tiện truyền thông. Qua tiếp xúc với ông, nhiều nhà báo và quay phim đã làm nên những bài báo, những thước phim được chiếu trên truyền hình về cuộc sống thường nhật của người da đen miền Nam, đầy ắp sỉ nhục và luôn bị tước đoạt, dấy lên một làn sóng đồng cảm lan tỏa rộng khắp trong nhân dân Mỹ.

Năm 1955, ông lãnh đạo phong trào tẩy chay xe bus sau sự kiện Rosa Parks (người phụ nữ da đen bị bắt giữ vì từ chối nhường chỗ ngồi trên xe buýt cho một người đàn ông da trắng theo qui định của Luật Jim Crow) cho đến khi phán quyết của Tòa án Liên bang cấp Quận ra lệnh chấm dứt các hành vi phân biệt chủng tộc trên mạng lưới xe buýt ở Montgomery.

Năm 1963, ông nằm trong ban tổ chức “Cuộc Diễu hành đến Washington vì Việc làm và Tự do” nhằm đưa ra 1 loạt thỉnh cầu về quyền bình đẳng của người da đen: như chấm dứt tình trạng kỳ thị chủng tộc tại trường công, ban hành các đạo luật bảo vệ dân quyền, bao gồm luật cấm phân biệt màu da trong tuyển dụng, bảo vệ người đấu tranh cho dân quyền khỏi sự bạo hành của cảnh sát cũng như ấn định mức lương tối thiểu, và quyền tự trị cho Đặc khu Columbia.

Ngay tại Đài Tưởng niệm Lincoln, ông đã đọc bài diễn văn này, được xem là một trong những bài diễn văn vĩ đại nhất trong lịch sử và được nhiều người xem là là bài diễn văn xuất sắc nhất thế kỷ 20.

Ông đã khéo léo trích dẫn hay nhắc đến những nguồn không thể chối cãi để tạo nên sức mạnh của bài diễn văn: Kinh Thánh, bài Tuyên Ngôn Nhân Quyền (Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ), Diễn văn Gettysburg.

Lập luận logic, dẫn chứng chắc chắn, giọng văn mạch lạc đã thể hiện được 1 bầu nhiệt huyết to lớn với người nghe. Tất cả những điều này tạo thành một bài diễn văn rung động lòng người

Chúng ta hãy cùng nhau đọc một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất trong lịch sử hiện đại, bài “tôi có một giấc mơ” của Martin Luther King

Về tác giả (nguồn Wikipedia)

Martin Luther King, Jr. (viết tắt MLK; 15 tháng 1 năm 1929 – 4 tháng 4 năm 1968) là mục sư Baptist, nhà hoạt động dân quyền Mỹ gốc Phi, và là người đoạt Giải Nobel Hoà bình năm 1964. Ông là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ cũng như lịch sử đương đại của phong trào bất bạo động. King được nhiều người trên khắp thế giới ngưỡng mộ như một anh hùng, nhà kiến tạo hoà bình và thánh tử đạo.

King dẫn dắt cuộc tẩy chay xe buýt diễn ra ở Montgomery (1955-1956), và giúp thành lập Hội nghị Lãnh đạo Cơ Đốc miền Nam (1957), trở thành chủ tịch đầu tiên của tổ chức này. Năm 1963, King tổ chức cuộc tuần hành tại Washington, và đọc bài diễn văn nổi tiếng “Tôi có một giấc mơ” trước hàng ngàn người tụ tập về đây. Ồng nâng cao nhận thức của công chúng về phong trào dân quyền, và được nhìn nhận là một trong những nhà hùng biện vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Năm 1964, King là nhân vật trẻ tuổi nhất được chọn để nhận Giải Nobel Hòa bình vì những nỗ lực chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc qua biện pháp bất tuân dân sự, và các phương tiện bất bạo động khác.

Ngày 4 tháng 4 năm 1968, King bị ám sát tại Memphis, Tennessee. Năm 1977, Tổng thống Jimmy Carter truy tặng King Huân chương Tự do của Tổng thống. Đến năm 1986, ngày Martin Luther King, Jr. được công nhận là quốc lễ. Năm 2004, ông được truy tặng Huân chương vàng Quốc hội.

(Nguyễn Mai Anh Kiệt giới thiệu và bình)

Martin Luther King, Jr.
I have a dream – Tôi Có Một Giấc Mơ

August 28, 2963, Lincoln Memorial (Đài Tưởng Niệm Lincoln), Washington DC.

I am happy to join with you today in what will go down in history as the greatest demonstration for freedom in the history of our nation.

Tôi hạnh phúc được ở cùng với các bạn tại đây hôm nay trong sự kiện sẽ đi vào lịch sử như là cuộc biểu dương lực lượng vì tự do vĩ đại nhất trong lịch sử của đất nước chúng ta.

Five score years ago, a great American, in whose symbolic shadow we stand today, signed the Emancipation Proclamation. This momentous decree came as a great beacon light of hope to millions of Negro slaves who had been seared in the flames of withering injustice. It came as a joyous daybreak to end the long night of their captivity.

Cách đây 100 năm , một người Mỹ Vĩ Đại (1), hôm nay chúng ta đang đứng dưới bóng tượng đài của Người, đã ký Tuyên Ngôn Giải Phóng Nô Lệ (2). Văn kiện trọng đại này đã đến như ánh hải đăng vĩ đại của hy vọng cho hàng triệu nô lệ Da Đen, những con người đã bị thiêu đốt trong ngọn lửa bất công héo hắt. Nó đã đến như buổi rạng đông mừng vui kết thúc đêm dài đằng đẳng của tù đày nô lệ.

But one hundred years later, the Negro still is not free. One hundred years later, the life of the Negro is still sadly crippled by the manacles of segregation and the chains of discrimination. One hundred years later, the Negro lives on a lonely island of poverty in the midst of a vast ocean of material prosperity. One hundred years later, the Negro is still languished in the corners of American society and finds himself an exile in his own land. And so we’ve come here today to dramatize a shameful condition.

Nhưng một trăm năm sau, Người Da Đen vẫn chưa có tự do. Một trăm năm sau, cuộc sống của Người Da Đen vẫn còn què quặt buồn bã do gông cùm của phân biệt và xiềng xích của kỳ thị. Một trăm năm sau, Người Da Đen vẫn sống trên hải đảo cô đơn giữa đại dương bao la của phồn vinh vật chất. Một trăm năm sau, Người Da Đen vẫn mỏi mòn héo hắt trong những góc xó của xã hội Mỹ và thấy mình là kẻ lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Và vì vậy chúng ta đến đây hôm nay để quyết liệt về một tình trạng đáng xấu hổ.

In a sense we’ve come to our nation’s capital to cash a check. When the architects of our republic wrote the magnificent words of the Constitution and the Declaration of Independence, they were signing a promissory note to which every American was to fall heir. This note was a promise that all men, yes, black men as well as white men, would be guaranteed the “unalienable Rights” of “Life, Liberty and the pursuit of Happiness.” It is obvious today that America has defaulted on this promissory note, insofar as her citizens of color are concerned. Instead of honoring this sacred obligation, America has given the Negro people a bad check, a check which has come back marked “insufficient funds.”

Nói một cách khác, chúng ta đến thủ đô của đất nước mình để rút tiền từ ngân phiếu. Khi những kiến trúc sư của nền cộng hòa viết lên những lời uy vĩ cho bản Hiến pháp và bản Tuyên ngôn Độc lập, họ đã ký một giấy nợ mà tất cả mọi người Mỹ đều có quyền thừa kế. Giấy nợ hứa rằng tất cả mọi người, vâng, cả người da đen cũng như người da trắng, đều sẽ được bảo đảm có “Những Quyền Bất Khả Nhượng” được “Sống, Có Tự Do, và Mưu Cầu Hạnh Phúc”. Rõ ràng là ngày nay nước Mỹ đã thất hẹn với giấy nợ đó, ít nhất là đối với những công dân da màu. Thay vì tôn trọng nhiệm vụ thiêng liêng này, nước Mỹ đã trao cho Người Da Đen tờ ngân phiếu không tiền bảo chứng, tờ ngân phiếu đã bị trả lại với con dấu “Không đủ ngân quỹ”.

But we refuse to believe that the bank of justice is bankrupt. We refuse to believe that there are insufficient funds in the great vaults of opportunity of this nation. And so, we’ve come to cash this check, a check that will give us upon demand the riches of freedom and the security of justice.

Nhưng chúng ta nhất định không tin rằng ngân hàng công lý bị phá sản. Chúng ta nhất định không tin rằng không đủ ngân quỹ trong ngân khố cơ hội bao la của đất nước này. Và vì vậy, chúng ta đến để rút tiền từ ngân phiếu này, tấm ngân phiếu sẽ trao cho chúng ta, khi ta yêu cầu, những tài sản của tự do và an toàn công lý.

We have also come to this hallowed spot to remind America of the fierce urgency of Now. This is no time to engage in the luxury of cooling off or to take the tranquilizing drug of gradualism. Now is the time to make real the promises of democracy. Now is the time to rise from the dark and desolate valley of segregation to the sunlit path of racial justice. Now is the time to lift our nation from the quicksands of racial injustice to the solid rock of brotherhood. Now is the time to make justice a reality for all of God’s children.

Chúng ta cũng đến nơi tỏa sáng này hôm nay để nhắc nhở Nước Mỹ tầm khẩn trương nghiêm trọng của HIỆN TẠI. Đây không phải là lúc để xa xỉ chờ hạ nhiệt hay uống thuốc an thần của chủ nghĩa từ từ. Nay là lúc để biến lời hứa dân chủ thành sự thật. Nay là lúc trỗi dậy từ thung lũng hoang tàn và tối tăm của phân biệt để tiến tới con đường sáng chói ánh mặt trời của công lý chủng tộc. Nay là lúc để vực đất nước chúng ta khỏi vùng cát lún của bất công chủng tộc lên đến vầng đá vững chãi của tình huynh đệ. Nay là lúc biến công lý thành hiện thực cho tất cả con cái Chúa.

It would be fatal for the nation to overlook the urgency of the moment. This sweltering summer of the Negro’s legitimate discontent will not pass until there is an invigorating autumn of freedom and equality. Nineteen sixty-three is not an end, but a beginning. And those who hope that the Negro needed to blow off steam and will now be content will have a rude awakening if the nation returns to business as usual. And there will be neither rest nor tranquility in America until the Negro is granted his citizenship rights. The whirlwinds of revolt will continue to shake the foundations of our nation until the bright day of justice emerges.

Sẽ là điều sinh tử nếu cả nước không chú ý đến sự khẩn trương của thời điểm. Mùa hè ngột ngạt của lòng bất mãn chính đáng của Người Da Đen sẽ không đi qua, cho đến khi mùa thu hồi sinh của tự do và công bằng đến. Một chín sáu ba (3) không phải là một kết thúc mà là một khởi đầu. Và những người hy vọng rằng Người Da Đen chỉ cần được xì hơi và bây giờ đã được hài lòng sẽ bị đánh thức một cách cộc cằn nếu cả nước quay lại kiểu làm ăn như bình thường. Và sẽ không có ngơi nghỉ hay yên bình cho nước Mỹ, cho đến khi Người Da Đen được ban những quyền công dân của họ. Cơn gió lốc của nổi loạn sẽ tiếp tục lung lay nền tảng của đất nước chúng ta, cho đến khi ngày tươi sáng của công lý trỗi lên.

But there is something that I must say to my people, who stand on the warm threshold which leads into the palace of justice: In the process of gaining our rightful place, we must not be guilty of wrongful deeds. Let us not seek to satisfy our thirst for freedom by drinking from the cup of bitterness and hatred. We must forever conduct our struggle on the high plane of dignity and discipline. We must not allow our creative protest to degenerate into physical violence. Again and again, we must rise to the majestic heights of meeting physical force with soul force.

Nhưng có vài điều tôi phải thưa với đồng bào của tôi, những người đang đứng tại ngưỡng cửa ấm áp dẫn vào ngôi đền công lý: Trong quá trình lấy lại vị trí đúng đắn của chúng ta, chúng ta không được phạm tội có những hành vi sai trái. Chúng ta đừng thỏa mãn cơn khát tự do bằng cách uống chén đắng cay và thù hận. Chúng ta phải vĩnh viễn tiến hành cuộc đấu tranh của mình trên cao nguyên của lòng tự trọng và kỷ luật. Chúng ta không được cho phép những cuộc biểu tình đầy sáng tạo của chúng ta thoái hóa thành những cuộc bạo loạn bằng bạo lực. Tiếp tiếp và tiếp tiếp, chúng ta phải vươn lên đến đỉnh tối thượng uy nghi nơi sức mạnh của linh hồn đối phó với sức mạnh bạo lực.

The marvelous new militancy which has engulfed the Negro community must not lead us to a distrust of all white people, for many of our white brothers, as evidenced by their presence here today, have come to realize that their destiny is tied up with our destiny. And they have come to realize that their freedom is inextricably bound to our freedom.

Tính chiến đấu mới mẻ phi thường đang bao trùm cộng đồng Người Da Đen không được dẫn dắt chúng ta đến sự mất tin tưởng vào tất cả mọi người da trắng, bởi vì nhiều người anh em da trắng của chúng ta, với bằng chứng là sự hiện diện của họ nơi đây hôm nay, nhận thức rằng vận mệnh của họ gắn chặt với vận mệnh của chúng ta. Và họ đã nhận thức được rằng tự do của họ gắn bó mật thiết với tự do của chúng ta.

We cannot walk alone.

Chúng ta không thể đi một mình.

And as we walk, we must make the pledge that we shall always march ahead.

Và khi chúng ta đi, chúng ta phải tuyên thệ rằng chúng ta sẽ luôn luôn tiến về phía trước.

We cannot turn back.

Chúng ta không thể quay lại.

There are those who are asking the devotees of civil rights, “When will you be satisfied?” We can never be satisfied as long as the Negro is the victim of the unspeakable horrors of police brutality. We can never be satisfied as long as our bodies, heavy with the fatigue of travel, cannot gain lodging in the motels of the highways and the hotels of the cities. We cannot be satisfied as long as the negro’s basic mobility is from a smaller ghetto to a larger one. We can never be satisfied as long as our children are stripped of their self-hood and robbed of their dignity by signs stating: “For Whites Only.” We cannot be satisfied as long as a Negro in Mississippi cannot vote and a Negro in New York believes he has nothing for which to vote. No, no, we are not satisfied, and we will not be satisfied until “justice rolls down like waters, and righteousness like a mighty stream.”

Có những người hỏi những người đấu tranh cho dân quyền, “Bao giờ các bạn mới thỏa mãn?”. Chúng ta không bao giờ có thể thỏa mãn chừng nào Người Da Đen còn là nạn nhân của những khủng khiếp không thể tả của sự tàn bạo của cảnh sát. Chúng ta không bao giờ có thể thỏa mãn chừng nào thể xác của chúng ta, nặng nhọc vì mệt mỏi đường xa, không được phép xin tạm trú ở các nhà trọ dọc xa lộ và các khách sạn trong thành phố. Chúng ta không bao giờ có thể thỏa mãn chừng nào mà chuyển cấp cơ bản của Người Da Đen chỉ là từ khu ổ chuột nhỏ đến khu ổ chuột lớn. Chúng ta không bao giờ có thể thỏa mãn chừng nào mà con cái chúng ta bị tước đoạt phẩm cách và bị cướp trắng lòng tự trọng bởi những tấm biển đề: “Chỉ Dành Riêng Cho Người Da Trắng”. Chúng ta không bao giờ có thể thỏa mãn chừng nào mà Người Da Đen ở Mississippi không được đi bầu và Người Da Đen ở New York tin rằng họ chẳng có gì để mà bầu. Không, không, chúng ta sẽ không thỏa mãn cho đến khi “công lý cuồn cuộn như nước chảy, và sự công chính cuồn cuộn như một dòng sông hùng vĩ” (4)

I am not unmindful that some of you have come here out of great trials and tribulations. Some of you have come fresh from narrow jail cells. And some of you have come from areas where your quest — quest for freedom — left you battered by the storms of persecution and staggered by the winds of police brutality. You have been the veterans of creative suffering. Continue to work with the faith that unearned suffering is redemptive. Go back to Mississippi, go back to Alabama, go back to South Carolina, go back to Georgia, go back to Louisiana, go back to the slums and ghettos of our northern cities, knowing that somehow this situation can and will be changed.

Tôi không vô tâm mà không biết rằng một số các bạn đã đến đây từ những thử thách lớn và nhiều gian khổ. Một số các bạn đã đến ngay từ những buồng giam chật hẹp. Và một số các bạn đã đến từ những nơi mà cuộc hành trình của bạn – hành trình tìm kiếm tự do – đã làm bạn tả tơi vì những trận bão của ngược đãi, và loạng choạng bởi những cuồng phong của sự tàn bạo của cảnh sát. Các bạn đã là những người kỳ cựu về chịu khổ một cách sáng tạo. Hãy tiếp tục hoạt động với niềm tin rằng khổ đau chưa đền trả luôn có tính cứu chuộc. Hãy trở về Mississippi, hãy trở về Alabama, hãy trở về South Carolina, hãy trở về Georgia, hãy trở về Louisiana, hãy trở về những khu nhà lụp xụp và ổ chuột trong những thành phố miền Bắc, và biết chắc rằng bằng một cách nào đó tình trạng này có thể thay đổi và sẽ được thay đổi.

Let us not wallow in the valley of despair, I say to you today, my friends.

Ngày hôm nay tôi nói với các bạn, các bằng hữu của tôi, chúng ta đừng đắm mình trong thung lũng tuyệt vọng.

And so even though we face the difficulties of today and tomorrow, I still have a dream. It is a dream deeply rooted in the American dream.

Và ngay cả khi phải đối đầu với vô vàn khó khăn hôm nay và ngày mai, tôi vẫn có một giấc mơ. Ấy là giấc mơ bắt nguồn sâu thẳm từ giấc mơ Mỹ Quốc.

I have a dream that one day this nation will rise up and live out the true meaning of its creed: “We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal.”

Tôi có một giấc mơ sẽ có một ngày đất nước này vươn lên và sống với ý nghĩa thật của niềm xác tín: “Chúng tôi tin rằng chân lý này là định đề, ấy là tất cả mọi người khi được sinh ra đều bình đẳng”. (5)

I have a dream that one day on the red hills of Georgia, the sons of former slaves and the sons of former slave owners will be able to sit down together at the table of brotherhood.

Tôi có một giấc mơ sẽ có một ngày trên những ngọn đồi đất đỏ của Georgia, con cái của những người đã từng là nô lệ và con cái của những người đã từng là chủ nô có thể ngồi lại với nhau quanh chiếc bàn huynh đệ.

I have a dream that one day even the state of Mississippi, a state sweltering with the heat of injustice, sweltering with the heat of oppression, will be transformed into an oasis of freedom and justice.

Tôi có một giấc mơ sẽ có một ngày ngay cả bang Mississippi, vùng đất bức bối vì hơi nóng của bất công, bức bối vì hơi nóng của áp bức, sẽ trở nên ốc đảo của tự do và công ly’.

I have a dream that my four little children will one day live in a nation where they will not be judged by the color of their skin but by the content of their character.

Tôi có một giấc mơ bốn đứa con nhỏ của tôi sẽ có một ngày được sống trong một đất nước mà chúng không còn bị đánh giá bởi màu da mà bởi con người và cá tính của chúng.

I have a dream today!

Tôi có một giấc mơ hôm nay!

I have a dream that one day, down in Alabama, with its vicious racists, with its governor having his lips dripping with the words of “interposition” and “nullification” — one day right there in Alabama little black boys and black girls will be able to join hands with little white boys and white girls as sisters and brothers.

Tôi có một giấc mơ sẽ có một ngày tận Alabama, với kỳ thị chủng tộc khắc nghiệt ở đó, với ngài thống đốc khóe miệng chảy lòng thòng những từ “phản đối” và “vô hiệu hóa” (6) – sẽ có một ngày ở ngay Alabama những bé trai da đen và những bé gái da đen sẽ có thể tay trong tay với những bé trai da trắng và những bé gái da trắng như là anh chị em.

I have a dream today!

Tôi có một giấc mơ hôm nay!

I have a dream that one day every valley shall be exalted, and every hill and mountain shall be made low, the rough places will be made plain, and the crooked places will be made straight; “and the glory of the Lord shall be revealed and all flesh shall see it together.”

Tôi có một giấc mơ sẽ có một ngày mọi thung lũng sẽ được nâng cao, và mọi đồi núi sẽ bị hạ thấp, chỗ lồi lõm sẽ được ban bằng, và chỗ quanh co sẽ thành ngay thẳng, và “sự vinh hiển của Thiên Chúa sẽ hiển lộ để mọi loài xác thịt cùng nhau chiêm ngưỡng.” (7)

This is our hope, and this is the faith that I go back to the South with.

Đây là hy vọng của chúng ta, và đây là niềm tin tôi mang theo khi trở về Miền Nam.

With this faith, we will be able to hew out of the mountain of despair a stone of hope. With this faith, we will be able to transform the jangling discords of our nation into a beautiful symphony of brotherhood. With this faith, we will be able to work together, to pray together, to struggle together, to go to jail together, to stand up for freedom together, knowing that we will be free one day.

Với niềm tin này, chúng ta sẽ có thể đẽo gọt từ ngọn núi tuyệt vọng một viên đá hy vọng. Với niềm tin này, chúng ta sẽ có thể biến đổi những lạc điệu chói tai của đất nước chúng ta thành bản hòa âm tuyệt đẹp của tình huynh đệ. Với niềm tin này, chúng ta sẽ có thể cùng làm việc với nhau, cùng cầu nguyện với nhau, cùng đấu tranh với nhau, cùng vào tù với nhau, cùng đứng lên vì tự do với nhau, và biết chắc rằng sẽ có một ngày chúng ta sẽ có tự do.

And this will be the day — this will be the day when all of God’s children will be able to sing with new meaning:

My country ’tis of thee, sweet land of liberty, of thee I sing.
Land where my fathers died, land of the Pilgrim’s pride,
From every mountainside, let freedom ring!

Và đây sẽ là ngày đó – đây sẽ là ngày tất cả con cái Chúa có thể cất tiếng hát với ý nghĩa mới mẻ:

Đất nước này là của Người, mảnh đất ngọt ngào của tự do, ca tụng Người tôi hát.
Mảnh đất nơi cha ông tôi đã ngã xuống, mảnh đất mang niềm kiêu hãnh của những Người Hành Hương.
Từ mọi triền núi, hãy để tự do vang tiếng bay xa!

And if America is to be a great nation, this must become true.

Và nếu Nước Mỹ thực sự là một đất nước vĩ đại, điều này phải thành sự thật.

And so
Let freedom ring from the prodigious hilltops of New Hampshire.
Let freedom ring from the mighty mountains of New York.
Let freedom ring from the heightening Alleghenies of Pennsylvania.
Let freedom ring from the snow-capped Rockies of Colorado.
Let freedom ring from the curvaceous slopes of California.

Và như vậy
Hãy để tự do vang tiếng bay xa từ những đỉnh đồi kỳ vĩ ở New Hampshire.
Hãy để tự do vang tiếng bay xa từ những ngọn núi uy nghi ở New York.
Hãy để tự do vang tiếng bay xa từ rặng Allegheny cao ngất ở Pennsylvania.
Hãy để tự do vang tiếng bay xa từ rặng Rockies tuyết phủ ở Colorado.
Hãy để tự do vang tiếng bay xa từ những triền đồi uốn lượn ở California.

But not only that:
Let freedom ring from Stone Mountain of Georgia.
Let freedom ring from Lookout Mountain of Tennessee.
Let freedom ring from every hill and molehill of Mississippi.
From every mountainside, let freedom ring.

Nhưng không chỉ thế:
Hãy để tự do vang tiếng bay xa từ Núi Đá ở Georgia.
Hãy để tự do vang tiếng bay xa từ Núi Lookout ở Tennessee.
Hãy để tự do vang tiếng bay xa từ mọi ngọn đồi và mọi đụn đất ở Mississippi.
Từ mọi triền núi, hãy để tự do vang tiếng bay xa.

And when this happens, when we allow freedom ring, when we let it ring from every village and every hamlet, from every state and every city, we will be able to speed up that day when all of God’s children, black men and white men, Jews and Gentiles, Protestants and Catholics, will be able to join hands and sing in the words of the old Negro spiritual:

Free at last! Free at last!
Thank God Almighty, we are free at last!

Và khi điều này xảy ra, khi chúng ta để tự do được vang tiếng bay xa, khi chúng ta để tự do vang lên từ mọi làng, từ mọi xóm, từ mọi tiểu bang và mọi thành phố, chúng ta sẽ có thể làm ngày ấy đến nhanh khi mọi con cái Chúa, người da đen và người da trắng, người Do Thái và người Ngoại Đạo,(8) người Tin Lành và người Công giáo, sẽ có thể nắm tay nhau cùng hát lời thánh ca cổ của Người Da Đen:

Cuối cùng đã có tự do! Cuối cùng đã có tự do!
Tạ ơn Thiên Chúa Toàn năng, cuối cùng chúng ta đã có tự do! (9)

(Hồng Quyên dịch)

Chú thích:

(1) Ở đây trong bản tiếng Anh Martin Luther King Jr. dùng thành ngữ “five score years” tương tự như câu bắt đầu Diễn Văn Gettysburg của Tổng Thống Lincoln, sau này đã trở thành khuôn mẫu trong nhiều bài diễn văn. 1 score là 20 năm, 5 score là 100 năm, ám chỉ năm 1863, thời điểm Lincoln diễn thuyết bài Diễn Văn Gettysburg, một trong những bài diễn văn vĩ đại nhất lịch sử nước Mỹ và là một trong những bài diễn văn được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn chưa tới 300 từ và dài từ hai đến ba phút này, Lincoln đã viện dẫn những nguyên tắc về bình đẳng được tuyên cáo bởi bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, và khẳng định rằng cuộc Nội chiến là một sự đấu tranh không chỉ cho Liên bang mà để “sản sinh một nền tự do mới”, sẽ mang đến cho mọi công dân một sự bình đẳng thật. (Nguồn: Wiki)

(2) Tuyên Ngôn Giải Phóng Nô Lệ, Emancipation Proclamation, gồm hai văn lệnh hành pháp do Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đề xuất trong thời nội chiến Hoa Kỳ

(3) Năm 1963, thời điểm Martin Luther King Jr. phát biểu bài diễn văn.

(4) Trích nguyên văn từ phẩm Amos 5:24, Kinh Thánh Bản Chuẩn của Mỹ (American Standard Version of the Holy Bible): “justice rolls down like waters, and righteousness like a mighty stream.”
(5) Nguyên văn “We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal.”

(6) Nghĩa Mỹ: người theo “thuyết phản đối”, cho rằng tiểu bang có quyền tuyên bố một hành động của liên bang laf vi hiến, và “thuyết vô hiệu hóa”, cho rằng tiểu bang có thể vô hiệu hóa một hành động của liên bang mà tiểu bang cho là vi hiến. Tuy nhiên hai thuyết này không được tòa án công nhận.

(7) Trích Isaiah 40:4-5, Kinh Thánh Bản Vua James (King James Version): “and the glory of the Lord shall be revealed and all flesh shall see it together”.

(8) Trong tiếng Anh, “Gentiles” dùng để chỉ người không phải là người Do Thái, hoặc không thuộc về một nhóm tôn giáo nào.

(9) Nguồn từ: http://www.negrospirituals.com/news-song/free_at_last_from.htm

Nguồn

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

“Đừng hỏi tổ quốc có thể làm gì cho bạn; hãy hỏi bạn có thể làm gì cho tổ quốc” & “Tôi là người Berlin” – John F. Kennedy

Các Diễn Văn Làm Thay Đổi Thế Giới – “Đừng hỏi tổ quốc có thể làm gì cho bạn; hãy hỏi bạn có thể làm gì cho tổ quốc” & “Tôi là người Berlin” – John F. Kennedy

Ngày 20 tháng 1 năm 1961, John F.Kennedy tuyên thệ nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ. Lúc này tình hình chiến tranh lạnh đang căng thẳng trên thế giới.

2 khối Tư Bản Chủ Nghĩa và Xã Hội Chủ Nghĩa vẫn đối đầu và chạy đua vũ trang ngày càng quyết liệt: khối Warszawa thành lập năm 1955, chiến tranh ở Việt Nam, mâu thuẫn tại Berlin, Liên Xô đang thắng thế trong công nghệ vũ trụ (phóng phi thuyền không người lái đầu tiên – 1957), Cuba vẫn tiếp tục là nước XHCN ngay sát nách Hoa Kỳ…

Do vậy, có thể thấy các vấn đề đặt ra cho vị tân tổng thống này chủ yếu là đối ngoại (mặt dù ông vẫn phải lưu tâm đến giải pháp phát triển kinh tế và giải quyết phân biệt chủng tộc). Do đó, ông cần thúc đẩy sự nhiệt tình của nhân dân Mỹ chiến đấu và cống hiến cho toàn thế giới, toàn nhân loại, mặt khác, ông cần liên kết các nước khác tập hợp xung quanh nước Mỹ tiếp tục chống khối Cộng Sản.

Chúng ta hãy đọc và cảm nhận 2 bài diễn văn của ông:

Bài đầu tiên là diễn văn nhậm chức tổng thống trước dân Mỹ “Đừng hỏi nước nhà có thể làm gì cho bạn; hãy hỏi bạn có thể làm gì cho nước nhà” đây là một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất của Kennedy và là 1 trong những chi tiết người ta nhớ nhất khi nói về ông.

Về nội dung, dễ hiểu là bài diễn văn này chỉ đề cập đến các vấn đề đối ngoại, và chủ yếu là về xung đột giữa các “khối quốc gia”. Có một điểm đáng chú ý là Kennedy – Hoa Kỳ đã thể hiện 1 mong mong muốn hoà bình, để cả 2 bên “bắt đầu lại” vì cả hai đều “hao tốn quá nhiều” để chạy đua vũ trang. Ông chỉ ra rằng chạy đua vũ trang thật phi lý (Tuy nhiên, cả 2 khối NATO và Warszawa tiếp tục chạy đua thêm 20 năm nữa vì không ai dám dừng trước)

Và ông mong mỏi mọi người hãy cống hiến nhiều hơn cho đất nước, vì rõ ràng Hoa Kỳ còn rất nhiều việc phải làm trên toàn thế giới, nên nhân dân Mỹ cần nghĩ đến cống hiến nhiều hơn là đòi hỏi. Điều này là do với văn hoá của Mỹ, là người dân quen với cuộc sống bình yên và có khuynh hướng đòi hỏi nhiều ở chính phủ, nay ông mong họ suy nghĩ theo chiều ngược lại hơn.

Đây là 1 bài diễn văn ý tứ rõ ràng, mạch lạch, giúp người đọc hiểu rất rõ từng ý, từng mảng ý, và từng định hướng của tổng thống

Lạm bàn 1 chút về khẩu hiệu “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta; hãy hỏi ta làm gì cho tổ quốc” rất phổ biến ở Việt Nam thời Kiệt còn đi học, theo Kiệt cảm nhận thì nó không phù hợp với văn hoá của Việt Nam, người Việt mình không có thói quen đòi hỏi gì ở chính phủ. Thật ra hồi còn nhỏ Kiệt nghe khẩu hiệu này đã tự vấn tâm “có bao giờ mình đòi hỏi gì ở tổ quốc/ chính phủ ? – chưa”. Giờ mới biết câu này nguyên gốc không phải của Việt Nam

Bài thứ 2 là bài diễn văn đọc tại Tây Berlin năm 1961, vào lúc này các chính sách kinh tế chủ nghĩa xã hội đang ngày càng bộc lộ nhược điểm, khiến làn sóng di cư từ các nước khối XHCN sang Tây Berlin ngày càng nhiều. Liên Xô đành phải xây dựng 1 bức tường ngăn chặn làn sóng này, bức tường Berlin, chia cắt Berlin ra làm 2 – Tư bản Chủ Nghĩa và Xã Hội Chủ Nghĩa. Bài diễn văn này nhằm giúp dân Tây Berlin tự hào hơn về những thành công của “phần Tây Berlin” so với “Đông Berlin”. Đây là 1 bài diễn văn đọc cho các công dân Đức nhằm lôi kéo họ đoàn kết hơn xung quanh nước Mỹ

Kennedy đã khéo léo dùng cách lặp từ “hãy đến Berlin” trên mỗi luận cứ, để giúp khơi dậy sự tự hào của người dân xứ này, khiến cho bài diễn văn này tràn đầy sự hãnh diện được là “người dân Tây Berlin”, do đó rất có sức thuyết phục

Chúng ta hãy cùng đọc và cảm nhận 2 bài diễn văn rất thuyết phục của vị tổng thống trẻ nhất trong lịch sử của Hoa Kỳ. Đáng tiếc là ông bị ám sát quá sớm khi còn rất nhiều dự định dang dở

Về tác giả (Wikipedia)

John Fitzgerald Kennedy (29 tháng 5 năm 1917 – 22 tháng 11 năm 1963), thường được gọi là Jack Kennedy hay JFK, là tổng thống thứ 35 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, tại nhiệm từ năm 1961 đến năm 1963. Sự kiện Kennedy bị ám sát vào ngày 22 tháng 11 năm 1963 là một bước ngoặt trong dòng lịch sử Hoa Kỳ vào thập niên 1960, khi khắp thế giới thương tiếc ông và các nhà lãnh đạo của nhiều quốc gia đã đi theo quan tài đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Là chính khách trẻ tuổi nhất từng đắc cử tổng thống Hoa Kỳ (Theodore Roosevelt, ở tuổi 42, là chính trị gia trẻ tuổi nhất từng phục vụ trong cương vị tổng thống: vì là phó tổng thống đương chức, Roosevelt kế nhiệm tổng thống William McKinley bị ám sát vào tháng 9 năm 1901), Kennedy cũng là tổng thống trẻ tuổi nhất đã qua đời – ông sống được 46 năm và 177 ngày. Kennedy là tín hữu Công giáo Rôma, là người Mỹ gốc Ireland duy nhất trở thành ông chủ toà Nhà Trắng và là Tổng thống đạt giải Pulitzer duy nhất của Hoa Kỳ. Ông cũng là ứng cử viên cuối cùng thuộc đảng Dân chủ đến từ một tiểu bang miền Bắc giành được thắng lợi trong một cuộc tuyển cử tổng thống, là tổng thống đầu tiên sinh ra trong thế kỷ 20, và cho đến nay ông là tổng thống sau cùng qua đời khi đương chức.

Các sự kiện chính trong nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy gồm có: vụ khủng hoảng hỏa tiễn Cuba, xây dựng Bức tường Berlin, cuộc chạy đua thám hiểm không gian, giai đoạn đầu của Chiến tranh Việt Nam và Phong trào Dân quyền. Ngày nay, ông được xếp hạng cao trong các cuộc thăm dò về uy tín của các tổng thống, nhưng Kennedy qua đời khi các dự định chính trị của ông đang còn dang dở. Người kế nhiệm ông, Lyndon B. Johnson, đã hoàn tất tốt các chính sách về dân quyền khởi xướng bởi Kennedy.

(Nguyễn Mai Anh Kiệt giới thiệu)

Đừng hỏi tổ quốc có thể làm gì cho bạn; hãy hỏi bạn có thể làm gì cho tổ quốc
Diễn văn nhậm chức của John F. Kennedy – 20 tháng 01 năm 1961

Thưa phó Tổng Thống Johnson, Chủ tịch Hạ viện, Chánh Án Tối Cao Pháp Viện, Tổng thống Eisenhower, Phó Tổng thống Nixon, Tổng thống Truman, các giáo sĩ tôn kính, toàn thể đồng bào, hôm nay không phải để kỷ niệm chiến thắng của đảng, nhưng để ăn mừng cho tự do – tượng trưng cho một kết thúc, cũng là một khởi đầu – báo hiệu sự đổi mới, cũng như sự thay đổi. Vì tôi đã tuyên thệ nhậm chức trước các bạn và Đấng Toàn Năng với cùng lời thề nguyện trang trọng mà tổ tiên của chúng ta đã quy định gần một và 3/4 thế kỷ trước đây.

Thế giới ngày nay thay đổi rất nhiều. Vì loài người nắm trong bàn tay giới hạn của mình năng lực để xóa bỏ mọi hình thức nghèo đói cũng như tất cả mọi hình thức sống của con người. Tuy nhiên niềm tin cách mạng mà tổ tiên chúng ta đã chiến đấu để phục vụ vẫn còn là một vấn đề trên toàn thế giới – niềm tin rằng các quyền của con người không phải đến từ sự rộng lượng của nhà nước, mà từ bàn tay của Chúa.

Hôm nay chúng ta không dám quên rằng chúng ta là người thừa kế cuộc cách mạng đầu tiên đó. Hãy để tiếng nói lan tỏa từ bây giờ và nơi đây, đến với bạn bè cũng như kẻ thù, rằng ngọn đuốc đã được sang tay một thế hệ mới của người Mỹ – sinh ra trong thế kỷ này, tôi luyện bởi chiến tranh, kỷ luật bằng hòa bình khó khăn và cay đắng, tự hào với di sản cổ đại – và không muốn chứng kiến hoặc cho phép sự thoái lui của nhân quyền mà Quốc gia này đã luôn luôn cam kết, và chúng ta cam kết hôm nay tại nước nhà cũng như trên toàn thế giới.

Hãy để mỗi quốc gia biết , cho dù quốc gia chúc lành hay trù ếm chúng ta, rằng chúng ta sẽ trả bất cứ giá nào, chịu bất cứ gánh nặng nào, gặp bất cứ khó khăn nào, hỗ trợ bất cứ người bạn nào, chống lại bất cứ kẻ thù nào, để đảm bảo sự sống còn và sự thành công của tự do.

Chúng ta cam kết nhiều như vậy – và hơn thế nữa.

Đối với những đồng minh cũ có cùng nguồn gốc văn hóa và tâm linh, chúng ta cam kết sự trung thành của những người bạn trung thành. Đoàn kết, có rất ít điều mà chúng ta không thể làm trong một loạt phiêu lưu hợp tác. Chia rẽ, có rất ít điều mà chúng ta có thể làm – vì chúng ta không dám đáp ứng một thách thức mạnh mẽ đối nghịch và tách chìm xuống đáy.

Với những quốc gia mới mà chúng ta chào đón vào đẳng cấp của các nước tự do, chúng ta cam kết lời của chúng ta rằng một hình thức thuộc địa sẽ không chết đi chỉ để thay thế bằng một chế độ độc tài sắt thép hơn nhiều. Chúng ta không luôn trông mong rằng họ hỗ trợ quan điểm của ta. Nhưng chúng ta luôn hy vọng họ sẽ hỗ trợ mạnh mẽ chính tự do của họ – và hãy nhớ rằng, trong quá khứ, những người điên rồ tìm kiếm sức mạnh bằng cách cưỡi lưng cọp rốt cuộc nằm trong thân cọp.

Với những ai cư ngụ trong những túp lều và làng mạc trên quả địa cầu đang vùng vẫy để tháo gỡ những ràng buộc của sự nghèo khổ cùng cực, chúng ta cam kết những nỗ lực tốt nhất hầu giúp họ để họ tự giúp bản thân, bất kể thời gian cần thiết là bao lâu – không vì Cộng sản có thể làm việc này, không vì chúng ta muốn họ bỏ phiếu cho chúng ta, nhưng bởi vì điều đó là đúng. Nếu một xã hội tự do không thể giúp đỡ nhiều người nghèo, xã hội đó không thể cứu vãn một vài người giàu.

Với các nước chị em cộng hòa về phía nam biên giới của chúng ta, chúng ta hiến tặng một cam kết đặc biệt – để biến lời nói tốt của chúng ta thành hành động tốt – trong một liên minh mới cho sự tiến bộ – để hỗ trợ những người tự do và chính quyền tự do trong việc phá gỡ những gông cùm của nghèo đói. Nhưng niềm hy vọng cho cách mạng hòa bình không thể trở thành miếng mồi cho các cường quốc thù nghịch. Hãy để tất cả các nước láng giềng của chúng ta biết rằng chúng ta sẽ tham gia với họ để chống lại sự xâm lược hay sự lật đổ tại bất cứ nơi nào ở châu Mỹ. Và hãy cho tất cả các cường quốc khác biết rằng bán cầu này vẫn còn có ý định làm chủ ngôi nhà của chính mình.

Với thế giới tập hợp bởi các nước có chủ quyền, Liên Hiệp Quốc, hy vọng cuối cùng tốt nhất trong một thời đại mà các công cụ chiến tranh đã vượt xa công cụ hòa bình, chúng ta làm mới cam kết của chúng ta để hỗ trợ – để ngăn chặn nó trở thành một diễn đàn của công kích – để tăng cường sự bảo vệ cho các nước mới và yếu – và để mở rộng khu vực mà mệnh lệnh của Liên Hiệp Quốc có thể hoạt động.

Cuối cùng, với những quốc gia tự cho là kẻ thù của chúng ta, chúng ta hiến tặng không phải là một cam kết mà là một yêu cầu: rằng cả hai bên bắt đầu lại bằng một tìm kiếm hòa bình, trước khi những sức mạnh đen tối của sự hủy diệt mà khoa học đã tung ra sẽ nhận chìm tất cả loài người trong sự tự hủy diệt, dù có tính toán hay chỉ là tai nạn.

Chúng ta không cám dỗ những sức mạnh hủy diệt đó bằng sự yếu đuối của ta. Vì chỉ khi vũ khí của chúng ta đầy đủ không một chút nghi ngờ, thì chúng ta mới có thể chắc chắc, không một chút nghi ngờ, rằng vũ khí của ta sẽ không bao giờ được sử dụng.

Nhưng cả nhóm hai cường quốc vĩ đại không thể thoải mái với hoàn cảnh hiện tại – cả hai bên đều hao tốn quá nhiều cho vũ khí hiện đại, cả hai được báo động một cách đúng đắn bởi sự phát triển của nguyên tử giết người, nhưng cả hai đều đua nhau để thay đổi quân bằng chơi vơi của tai họa đó, cái quân bằng hiện đang nắm giữ bàn tay của cuộc chiến cuối cùng của nhân loại.

Vì vậy chúng ta hãy bắt đầu lại – cả hai bên nên nhớ rằng cư xử văn minh không là dấu hiệu của yếu đuối, và tính thành thật luôn luôn đòi bằng chứng. Hãy không bao giờ thương lượng vì sợ hãi. Nhưng hãy không bao giờ sợ hãi để thương lượng.

Hai bên hãy khám phá ra những vấn đề có thể đoàn kết chúng ta thay vì cứ nện vào những vấn đề làm chia rẽ chúng ta.

Hai bên hãy, cho lần đầu tiên, định hình những đề án nghiêm trọng và chính xác trong sự kiểm tra và kiểm soát vũ khí – và đưa sức mạnh tuyệt đối để tiêu diệt những quốc gia khác vào dưới sự kiểm soát tuyệt đối của mọi quốc gia.

Hai bên hãy tìm tòi để khám phá những kỳ diệu của khoa học thay vì những khủng khiếp của khoa học. Chúng ta hãy cùng nhau khám phá những vì sao, chinh phục sa mạc, tiêu trừ bệnh tật, khai thác lòng đại dương, và khuyến khích nghệ thuật và thương mại.

Hai bên hãy đoàn kết để chú tâm đến, tại mọi xó xỉnh của trái đất, mệnh lệnh của Isaiah – “tháo gở gánh nặng -. Và để người bị áp bức đi tự do.”

Và nếu một mũi tấn công của hợp tác có thể đẩy lui một rừng ngờ vực, hai bên hãy cùng nhau xây dựng một nỗ lực mới, không phải là một sự so đo quyền lực mới, nhưng là một thế giới mới của pháp luật, mà trong đó kẻ mạnh thì công chính và kẻ yếu được an toàn và hoà bình được bảo tồn.

Tất cả điều này sẽ không được hoàn thành trong 100 ngày đầu. Cũng không được hoàn thành trong 1.000 ngày đầu, cũng không phải trong đời của chính phủ này, hay thậm chí có lẽ cả đời của chúng ta trên hành tinh này. Nhưng chúng ta hãy bắt đầu.

Bàn tay của các bạn, hỡi đồng bào thân yêu, hơn là tay tôi, sẽ nắm giữ sự thành công hay thất bại cuối cùng của chúng ta. Từ khi đất nước này được hình thành, mỗi thế hệ của người Mỹ đã được triệu tập để làm chứng cho lòng trung thành đối với quốc gia. Những ngôi mộ của những người Mỹ trẻ đáp lời kêu gọi phục vụ đã vòng quanh địa cầu.

Giờ đây tiếng còi triệu tập chúng ta một lần nữa – không phải lời kêu gọi để trang bị vũ khí, dù vũ khí chúng ta cần; cũng không phải lời kêu gọi để ra trận, dù dàn trận chúng ta sẵn sàng – nhưng là lời kêu gọi để chịu đựng gánh nặng của cuộc tranh đấu dai dẳng mù mờ, năm này qua năm khác, “vui mừng trong hy vọng, kiên nhẫn trong khổ cực” – một cuộc đấu tranh chống lại những kẻ thù chung của con người: độc tài, nghèo đói, bệnh tật, và ngay cả chiến tranh.

Chúng ta có thể nào tạo lập một liên minh lớn và toàn cầu, Bắc và Nam, Đông và Tây, để chống lại những kẻ thù này, một liên minh có thể bảo đảm một đời sống phong phú hơn cho cả nhân loại? Bạn sẽ tham gia vào nỗ lực lịch sử đó không?

Qua lịch sử lâu dài của thế giới, chỉ có vài thế hệ được ban cho vai trò bảo vệ tự do trong giờ phút nguy hiểm nhất. Tôi không trốn tránh nhiệm này – Tôi chào đón nó. Tôi không tin rằng bất cứ ai trong chúng ta muốn trao đổi vị trí của mình với bất cứ người nào hay thế hệ nào khác. Năng lượng, đức tin, lòng sùng tín mà chúng ta đem đến cho nỗ lực này sẽ thắp sáng đất nước chúng ta và tất cả những ai phục vụ cho đất nước – và ánh sáng từ ngọn lửa đó có thể thật sự soi sáng thế giới.

Và vì vậy, hỡi đồng bào Mỹ của tôi: đừng hỏi tổ quốc có thể làm gì cho bạn – hãy hỏi bạn có thể làm gì cho tổ quốc.

Hỡi những công dân trên thế giới của tôi: đừng hỏi nước Mỹ sẽ làm gì cho bạn, nhưng hãy hỏi cùng nhau chúng ta có thể làm gì cho tự do của nhân loại.

Cuối cùng, cho dù bạn là công dân Mỹ hay công dân của thế giới, hãy yêu cầu chúng tôi có cùng tiêu chuẩn của sức mạnh và của lòng hy sinh mà chúng tôi yêu cầu nơi các bạn. Với một lương tâm tốt là phần thưởng chắc chắn duy nhất cho chúng ta, với lịch sử là thẩm phán cuối cùng cho hành động của chúng ta, chúng ta hãy tiến tới để lãnh đạo mảnh đất chúng ta thương yêu, cầu xin phước lành và hộ trì của Ngài, nhưng biết rằng nơi đây trên trái đất này việc làm của Chúa thật sự phải là việc làm của chính chúng ta.

(Diệu Sương dịch)

Ask Not What Your Country Can Do For You speech
Inaugural Address by John F. Kennedy – January 20th 1961

Vice President Johnson, Mr. Speaker, Mr. Chief Justice, President Eisenhower, Vice President Nixon, President Truman, reverend clergy, fellow citizens, we observe today not a victory of party, but a celebration of freedom – symbolizing an end, as well as a beginning – signifying renewal, as well as change. For I have sworn before you and Almighty God the same solemn oath our forebears prescribed nearly a century and three quarters ago.

The world is very different now. For man holds in his mortal hands the power to abolish all forms of human poverty and all forms of human life. And yet the same revolutionary beliefs for which our forebears fought are still at issue around the globe – the belief that the rights of man come not from the generosity of the state, but from the hand of God.

We dare not forget today that we are the heirs of that first revolution. Let the word go forth from this time and place, to friend and foe alike, that the torch has been passed to a new generation of Americans – born in this century, tempered by war, disciplined by a hard and bitter peace, proud of our ancient heritage – and unwilling to witness or permit the slow undoing of those human rights to which this Nation has always been committed, and to which we are committed today at home and around the world.

Let every nation know, whether it wishes us well or ill, that we shall pay any price, bear any burden, meet any hardship, support any friend, oppose any foe, in order to assure the survival and the success of liberty.

This much we pledge – and more.

To those old allies whose cultural and spiritual origins we share, we pledge the loyalty of faithful friends. United, there is little we cannot do in a host of cooperative ventures. Divided, there is little we can do – for we dare not meet a powerful challenge at odds and split asunder.

To those new States whom we welcome to the ranks of the free, we pledge our word that one form of colonial control shall not have passed away merely to be replaced by a far more iron tyranny. We shall not always expect to find them supporting our view. But we shall always hope to find them strongly supporting their own freedom – and to remember that, in the past, those who foolishly sought power by riding the back of the tiger ended up inside.

To those peoples in the huts and villages across the globe struggling to break the bonds of mass misery, we pledge our best efforts to help them help themselves, for whatever period is required – not because the Communists may be doing it, not because we seek their votes, but because it is right. If a free society cannot help the many who are poor, it cannot save the few who are rich.

To our sister republics south of our border, we offer a special pledge – to convert our good words into good deeds – in a new alliance for progress – to assist free men and free governments in casting off the chains of poverty. But this peaceful revolution of hope cannot become the prey of hostile powers. Let all our neighbours know that we shall join with them to oppose aggression or subversion anywhere in the Americas. And let every other power know that this Hemisphere intends to remain the master of its own house.

To that world assembly of sovereign states, the United Nations, our last best hope in an age where the instruments of war have far outpaced the instruments of peace, we renew our pledge of support – to prevent it from becoming merely a forum for invective – to strengthen its shield of the new and the weak – and to enlarge the area in which its writ may run.

Finally, to those nations who would make themselves our adversary, we offer not a pledge but a request: that both sides begin anew the quest for peace, before the dark powers of destruction unleashed by science engulf all humanity in planned or accidental self-destruction.

We dare not tempt them with weakness. For only when our arms are sufficient beyond doubt can we be certain beyond doubt that they will never be employed.

But neither can two great and powerful groups of nations take comfort from our present course – both sides overburdened by the cost of modern weapons, both rightly alarmed by the steady spread of the deadly atom, yet both racing to alter that uncertain balance of terror that stays the hand of mankind’s final war.

So let us begin anew – remembering on both sides that civility is not a sign of weakness, and sincerity is always subject to proof. Let us never negotiate out of fear. But let us never fear to negotiate.

Let both sides explore what problems unite us instead of belabouring those problems which divide us.

Let both sides, for the first time, formulate serious and precise proposals for the inspection and control of arms – and bring the absolute power to destroy other nations under the absolute control of all nations.

Let both sides seek to invoke the wonders of science instead of its terrors. Together let us explore the stars, conquer the deserts, eradicate disease, tap the ocean depths, and encourage the arts and commerce.

Let both sides unite to heed in all corners of the earth the command of Isaiah – to “undo the heavy burdens -. and to let the oppressed go free.”

And if a beachhead of cooperation may push back the jungle of suspicion, let both sides join in creating a new endeavour, not a new balance of power, but a new world of law, where the strong are just and the weak secure and the peace preserved.

All this will not be finished in the first 100 days. Nor will it be finished in the first 1,000 days, nor in the life of this Administration, nor even perhaps in our lifetime on this planet. But let us begin.

In your hands, my fellow citizens, more than in mine, will rest the final success or failure of our course. Since this country was founded, each generation of Americans has been summoned to give testimony to its national loyalty. The graves of young Americans who answered the call to service surround the globe.

Now the trumpet summons us again – not as a call to bear arms, though arms we need; not as a call to battle, though embattled we are – but a call to bear the burden of a long twilight struggle, year in and year out, “rejoicing in hope, patient in tribulation” – a struggle against the common enemies of man: tyranny, poverty, disease, and war itself.

Can we forge against these enemies a grand and global alliance, North and South, East and West, that can assure a more fruitful life for all mankind? Will you join in that historic effort?

In the long history of the world, only a few generations have been granted the role of defending freedom in its hour of maximum danger. I do not shank from this responsibility – I welcome it. I do not believe that any of us would exchange places with any other people or any other generation. The energy, the faith, the devotion which we bring to this endeavour will light our country and all who serve it — and the glow from that fire can truly light the world.

And so, my fellow Americans: ask not what your country can do for you – ask what you can do for your country.

My fellow citizens of the world: ask not what America will do for you, but what together we can do for the freedom of man.

Finally, whether you are citizens of America or citizens of the world, ask of us the same high standards of strength and sacrifice which we ask of you. With a good conscience our only sure reward, with history the final judge of our deeds, let us go forth to lead the land we love, asking His blessing and His help, but knowing that here on earth God’s work must truly be our own.

http://www.famousquotes.me.uk/speeches/John_F_Kennedy/5.htm

“Tôi là người Berlin”
Diễn văn của Jhon F. Kennedy tại West Berlin, ngày 26.6.1963

Tôi tự hào đến thành phố này như một người khách của Thị trưởng ưu tú của bạn, người tiêu biểu cho tinh thần chiến đấu của West Berlin trên khắp thế giới. Và tôi tự hào – Và tôi tự hào đến thăm Cộng hòa Liên bang với Thủ tướng xuất sắc của bạn là người trong rất nhiều năm đã cam kết cho nước Đức nền dân chủ và tự do và tiến bộ, và tôi đến đây cùng với người bạn Mỹ của tôi, Tướng Clay, người đã từng ở đây trong những khoảnh khắc vĩ đại của thời khủng hoảng và sẽ trở lại bất cứ khi nào cần thiết.

Hai ngàn năm về trước – Hai ngàn năm về trước, niềm kiêu hãnh tự hào nhất là “civis Romanus sum (Tôi là người Rome.)”. Ngày nay, trong thế giới tự do, niềm kiêu hãnh tự hào nhất là “Tôi là người Berlin.”

(Tôi cảm ơn thông dịch viên dịch sang tiếng Đức dùm tôi).

Có rất nhiều người trên thế giới thật sự không hiểu, hay nói là họ không hiểu, vấn đề lớn giữa thế giới tự do và thế giới Cộng sản là gì.

Hãy để họ đến Berlin.

Vài người nói – Vài người nói rằng cộng sản là làn sóng của tương lai.

Hãy để họ đến Berlin.

Và vài người nói, ở châu Âu và các nơi khác, chúng ta có thể làm việc với Cộng sản.

Hãy để họ đến Berlin.

Và thậm chí vài người nói rằng chế độ cộng sản thật sự là hệ thống xấu ác, nhưng cộng sản cho phép chúng ta thực hiện việc phát triển kinh tế.

Lass’ sie nach Berlin kommen.

Hãy để họ đến Berlin.

Tự do có rất nhiều khó khăn và chế độ dân chủ là không hoàn hảo. Nhưng chúng ta không bao giờ dựng bức tường lên để giữ người của chúng ta lại — để ngăn ngừa họ rời khỏi chúng ta. Tôi muốn nói thay cho đồng bào của tôi những người sống xa nhiều dặm ở phía bên kia của Đại Tây Dương, những người có khoảng cách rất xa với bạn, rằng họ có niềm tự hào vĩ đại nhất, rằng họ có thể chia sẻ với bạn, thậm chí từ khoảng cách thật xa, câu chuyện của 18 năm qua. Tôi biết không có thị trấn nào, thành phố nào, đã bị bao vây trong 18 năm mà vẫn sống với sức sống mãnh liệt, và hy vọng, và quyết tâm như thành phố West Berlin.

Trong khi bức tường là một chứng minh rõ ràng và sinh động nhất của những thất bại của hệ thống Cộng sản – cho cả thế giới thấy – chúng ta không có sự toại nguyện trong đó; vì nó là, như Thị trưởng của các bạn đã nói, một tội phạm không những chống lại lịch sử mà còn là tội phạm chống lại nhân loại, chia rẽ gia đình, ly tán chồng vợ và anh chị em, và chia cách một dân tộc muốn được đoàn tụ với nhau.

Điều gì là — Điều gì là thật với thành phố này cũng là thật với nước Đức; hòa bình lâu dài ở Châu Âu không bao giờ có thể được bảo đảm trong khi một phần tư người Đức bị từ chối quyền cơ bản của những người tự do, và đó là quyền để được thực hiện sự lựa chọn tự do. Trong 18 năm của hòa bình và đức tin, thế hệ của những người Đức này có quyền để được hưởng tự do, bao gồm cả quyền đoàn tụ với gia đình và đất nước của họ trong tự do lâu dài, với niềm mong muốn tốt đẹp cho tất cả mọi người.

Các bạn sống trong một ốc đảo tự do được bảo vệ, nhưng đời sống của các bạn là một phần của toàn thể. Vì vậy, để kết thúc, hãy cho tôi yêu cầu các bạn ngước mắt lên với tầm nhìn xa vượt ra ngoài những nguy hiểm của ngày hôm nay, đến những hy vọng của ngày mai, ra ngoài sự tự do đơn thuần của thành phố Berlin, hay nước Đức của bạn, để bành trướng tự do khắp mọi nơi, vượt qua bức tường đến ngày tự do với công lý, vượt qua chính các bạn và chính chúng ta đến tất cả nhân loại.

Tự do không thể bị phân chia, và khi một người bị nô lệ, mọi người không thể được tự do. Khi tất cả được tự do, thì chúng ta mong – có thể mong mỏi đến ngày đó, khi thành phố này được thống nhất và đất nước này và lục địa châu Âu vĩ đại này kết hợp trong một quả địa cầu hòa bình và hy vọng. Khi ngày đó cuối cùng đến, như nó sẽ đến, người của West Berlin có thể có sự toại nguyện tỉnh táo trong thực tế rằng họ đã đứng tuyến đầu trong gần hai thập kỷ.

Tất cả — Tất cả người tự do, dù đang sống ở bất cứ nơi nào, đều là công dân của Berlin.

Và, vì vậy, là một người tự do, tôi hãnh diện với câu “Ich bin ein Berliner.” (“Tôi là người Berlin”).

(Diệu Sương dịch)

“I am Berliner”
John F. Kennedy’s speech in West Berlin, on June 26, 1963

I am proud to come to this city as the guest of your distinguished Mayor, who has symbolized throughout the world the fighting spirit of West Berlin. And I am proud — And I am proud to visit the Federal Republic with your distinguished Chancellor who for so many years has committed Germany to democracy and freedom and progress, and to come here in the company of my fellow American, General Clay, who – — who has been in this city during its great moments of crisis and will come again if ever needed.
Two thousand years ago — Two thousand years ago, the proudest boast was “civis Romanus sum.”¹ Today, in the world of freedom, the proudest boast is “Ich bin ein Berliner.”
(I appreciate my interpreter translating my German.)
There are many people in the world who really don’t understand, or say they don’t, what is the great issue between the free world and the Communist world.
Let them come to Berlin.
There are some who say — There are some who say that communism is the wave of the future.
Let them come to Berlin.
And there are some who say, in Europe and elsewhere, we can work with the Communists.
Let them come to Berlin.
And there are even a few who say that it is true that communism is an evil system, but it permits us to make economic progress.
Lass’ sie nach Berlin kommen.
Let them come to Berlin.
Freedom has many difficulties and democracy is not perfect. But we have never had to put a wall up to keep our people in — to prevent them from leaving us. I want to say on behalf of my countrymen who live many miles away on the other side of the Atlantic, who are far distant from you, that they take the greatest pride, that they have been able to share with you, even from a distance, the story of the last 18 years. I know of no town, no city, that has been besieged for 18 years that still lives with the vitality and the force, and the hope, and the determination of the city of West Berlin.
While the wall is the most obvious and vivid demonstration of the failures of the Communist system — for all the world to see — we take no satisfaction in it; for it is, as your Mayor has said, an offense not only against history but an offense against humanity, separating families, dividing husbands and wives and brothers and sisters, and dividing a people who wish to be joined together.
What is — What is true of this city is true of Germany: Real, lasting peace in Europe can never be assured as long as one German out of four is denied the elementary right of free men, and that is to make a free choice. In 18 years of peace and good faith, this generation of Germans has earned the right to be free, including the right to unite their families and their nation in lasting peace, with good will to all people.
You live in a defended island of freedom, but your life is part of the main. So let me ask you, as I close, to lift your eyes beyond the dangers of today, to the hopes of tomorrow, beyond the freedom merely of this city of Berlin, or your country of Germany, to the advance of freedom everywhere, beyond the wall to the day of peace with justice, beyond yourselves and ourselves to all mankind.
Freedom is indivisible, and when one man is enslaved, all are not free. When all are free, then we look — can look forward to that day when this city will be joined as one and this country and this great Continent of Europe in a peaceful and hopeful globe. When that day finally comes, as it will, the people of West Berlin can take sober satisfaction in the fact that they were in the front lines for almost two decades.
All — All free men, wherever they may live, are citizens of Berlin.
And, therefore, as a free man, I take pride in the words “Ich bin ein Berliner.”

¹”I am a citizen of Rome” or “I am a Roman citizen”

http://www.americanrhetoric.com/speeches/jfkberliner.html

Nguồn