Phần III
GIỐNG ĐỰC VÀ GIỐNG CÁI TRÊN TRIỀU ĐÌNH
Tạ Chí Ðại Trường
Khi Thánh giáo lên ngôi
Rõ ràng từ triều (Hậu) Lê, nhất là từ Lê Thánh Tông (1460-1497), ý thức hệ Nho giáo đã được chấp nhận là chính thống từ trên tột đỉnh quyền hành - ít ra là trên đại thể và Lý thuyết, để hướng dẫn tổ chức chính trị và cách hành xử cá nhân.
Công cuộc cải cách lễ nhạc diễn tiến trong sự giằng co giữa bảo thủ và đổi thay, nằm cả trong quan điểm của hai phe đối nghịch với đại diện là Lương Đăng và Nguyễn Trãi nhưng căn bản vẫn là "phỏng theo quy chế của nhà Minh" đương thời. Tổ chức học hành thi cử nhặt nhiệm, thường xuyên hơn thời trước đã đem những nguyên tắc Nho đi vào tầng lớp dân chúng rộng rãi hơn. Cho nên những gương tiết nghĩa, những việc trừng trị các quan dân không theo "lễ" cũng được ghi nhận nhiều hơn.
Vợ goá của Nguyễn Văn Điều là tiết phụ được cấp bảng vàng (1456). Người ta truy tặng cả những nhân vật trong quá khứ: Lê Thị Liễn (ghi được cả tên họ), vợ Túc vệ Lương Thiên Tích đời Hồ, có nhan sắc, goá chồng sớm, không con, ở vậy, được biểu dương (1437). Trong lúc đó thì Quốc tử giám sinh Lê Tử Dục dụ dỗ vợ cả, vợ lẽ của người khác (mắc cùng các tội khác) liền bị xử chém. Hàn lâm viện đãi chế Vũ Văn Phỉ thông dâm với mẹ vợ, tuy bỏ tiền chuộc tội nhưng vẫn phải đi đày, bất thường khác với trường hợp Trạng nguyên "Lợn" Nguyễn Nghiêu Tư (1448) vẫn cứ còn khoa bảng, làm quan triều đình. Ngay đến người có tên trong biển ngạch công thần (1429) như Lê Thụ mà vẫn bị hặc tội (đầu 1435) "đang có quốc tang lại lấy vợ lẽ... không theo lễ, phép". Bà Dương Hậu được ngồi chung với hai ông chồng Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành, nay phải di dời. Đến ông vua Hùng Quốc tổ được Ngô Sĩ Liên chế biến cũng bị chê mất ngôi chỉ vì ham ăn uống, vui chơi.
Quy chế Lễ của Khổng Tử rất gắt gao trong việc phân biệt giao tiếp trai, gái. Nam nữ không được ngồi lẫn lộn với nhau, không treo quần áo cùng chỗ, không dùng chung khăn lược, không trao vật gì tận tay... Nếu có trao, người nữ phải cầm một cái thúng, không có thúng thì hai bên ngồi xuống đặt vật xuống đất rồi mới nhận của nhau. (Kinh Lễ, Nguyễn Tôn Nhan trích dịch, Nxb. Văn học 1999, tr. 41,
135). Nguyên tắc "trai gái không được tắm chung" đã được đề ra trong "24 điều giáo huấn" của thời Hồng Đức. Chắc là bắt chước của Đại Việt nên vài thế kỉ sau đó, một giáo phái Tin Lành Mĩ, Giáo phái Shakers cũng chủ trương nam nữ ăn riêng, làm lễ riêng, không được bắt tay nhau, cả đến ngăn cấm tình dục nữa. Chỉ vì giáo chủ " Mẹ Lee" của giáo phái này đã mộng thấy mình trở lại Vườn Địa Đàng, gặp cảnh ông Ađam bà Êvà giao hợp để từ việc đó, phát sinh muôn đời phiền luỵ khổ ải cho nhân loại. (Reay Tannahill, tr. 187). Thánh Tông lại muốn vươn lễ giáo đến cả các dân tộc thiểu số nên sắc chỉ 1470 cũng nhắc đến việc trị tội những người Man lấy vợ cả, vợ lẽ của anh em đã chết rồi, cho là phạm đến luân thường đạo Lý (như khi mắng chửi vua Chiêm) mà không biết rằng đó là tục lệ thường của họ. Và chắc Thánh Tông cũng không biết rằng ngay trên vùng quyền lực trực tiếp của ông, người dân cũng chỉ quan tâm đến một nửa của một trong 24 điều giáo huấn kia. Nhà văn Chu Tử còn thấy ở gần quê ông, phụ nữ vẫn tắm truồng và có lần cậu bé Chu Văn Bình (lén đi coi) đã bắt quả tang ông thầy khả kính của mình cũng lảng vảng gần đó!
Lê Thánh Tông mắng chửi bọn man di mọi rợ nhưng cũng không ngờ con cháu mình lúc thất thế cũng lâm vào vòng loạn dâm như ai. Lê Thần Tông Duy Kì (1607-1662) là cháu ngoại Trịnh Tùng, cháu gọi Trịnh Tráng bằng cậu, thế mà phải chịu làm rể ông này, lại lấy bà vợ có 4 con của ông bác họ Lê Trừ bị Tráng giam trong ngục, hành động bị triều thần can ngăn, nhưng trước sự thể bị áp bức đành chỉ có thể ngậm ngùi than van! Chỉ vì họ Trịnh trong thế không thể cướp ngôi Lê thì để con cháu làm hoàng hậu, làm vua thay mình. Tính chất tương tranh của các dòng họ lớn đương thời khiến họ dùng nhân vật nữ làm thế kết giao, hoà hợp tạm thời, không kể gì đến lời Thánh dạy. Nguyễn Hoàng khi về Nam (1600), đã để con cháu làm tin ở đất Bắc, thấy chưa đủ, bèn gả con gái cho Trịnh Tráng, nghĩa là người ôngcậu trở thành cha vợ! Loại incest vì nhu cầu chính trị như thế là chuyện thông thường của khắp nơi, không riêng gì Đại Việt.
Đời sống vốn không phải chỉ là chuyện của sách vở như đã thoáng thấy trong các trường hợp bị trừng trị, làm cớ hoà hợp hoà giải kể ở trên. Cái nghề xưa như trái đất, đầu tiên của nhân loại (trước nghề thầy thuốc) cũng được ghi lại cẩn thận vào đời Lê, thời ông vua nối nghiệp cha, thấy không cần sửa đổi gì nhiều vì coi là đã đạt đến tột đỉnh của văn minh. Đầu năm mới (1501), Hiến Tông về Tây Kinh thăm quê cha đất tổ, ra lệnh cấm các quan không được mang theo vợ con, đĩ, để "bừa bãi tình dục". Chữ "nữ kĩ" của Toàn thư đã được các sử quan Nguyễn thế kỉ XIX sửa thành "nữ nhạc" vừa cho hợp với thể giá tầng lớp thanh cao của mình, vừa để khỏi thất kính dưới mắt đấng quân vương sắp buông lời Châu phê. Một chữ dùng ngắn ngủi không cho ta hiểu nhiều về sinh hoạt thường tục đó của nhân loại nhưng cũng cho ta thấy ra một tổ chức, lỏng lẻo hay chặt chẽ thì không rõ, nhưng vẫn là một tổ chức cung ứng sinh hoạt tình dục cho người có quyền thế, tiền bạc đi theo với thời thịnh trị, an bình tương đối của Lê Thánh Tông.
Tổ chức cung ứng tình dục đã phát triển rất đa tạp ở mẫu hình Trung Quốc của Đại Việt vào thời Tống, Nguyên, Minh - cùng lúc với Lê. Đất Hàng Châu nổi danh của Tống có các hoa thất, ở cấp bực thấp nhất, do nhà nước quản Lý, dành cho Lýnh tráng, thuỷ thủ và cả dân nghèo tìm vui. "Gái" ở đây là chiến lợi phẩm từ nước bại trận, là vợ con tù phạm, lưu đày. Ở cấp bực giữa là tửu gia, đôi lúc do Bộ Công quản Lý, dành cho quan chức, nơi có "cơn vui suốt sáng trận cười thâu đêm" với gái đẹp, rượu ngon chuốc trong chén bạc, với cao lương mĩ vị, thắp đèn màu, phát sinh ra từ ngữ thanh/hồng lâu để thêm cho Mĩ tập họp "red light district" khi theo lưu dân tìm quý kim ở Núi Vàng Cũ (San Francisco) vào cuối thế kỉ XIX. Ở cấp bực cao nhất, bảo trợ do quý quan, cự phú, văn nghệ sĩ là một loạt tên: ca thất, ca kĩ thất, trà gia, mà khách làng chơi khi mới bước qua cửa đã phải bỏ vài quan tiền ra mắt với "chén trà tìm hoa", rồi lên lầu tốn thêm vài quan với chung rượu, để thấy mặt người đẹp dành cho chọn lựa, rồi cơm rượu, rồi ca múa, mỗi tiết mục trải qua là nghi lễ, là tiền tung "trăm nghìn đổ một trận cười như không" nhưng cũng xứng đáng với cao lương mĩ vị, khung cảnh người đẹp lụa là gấm vóc chiều đãi, trong căn phòng có sưởi ấm mùa đông, bầu nước đá làm mát mùa hè. (Reay Tannahill, tr. 191
193). Cô Kiều than "thanh lâu hai lượt" nhưng chắc lần đầu đã ở đây gặp Thúc Sinh, sau mới hạ giá "mắt xanh" với Từ Hải ở thanh lâu thực sự.
Ở Đại Việt không thấy nhà nước bao cấp hay tổ chức với nhân dân cùng làm công việc này. Có một khía cạnh của một tổ chức không lên đến cấp bậc trung ương nhưng ở khu vực hành chính thấp đã gây nên tai tiếng dưới mắt vua quan thấm nhuần kinh sách. Từ khi đình thành lập cuối thế kỉ XV, tổ chức Hát cửa đình với từng nhóm chuyên nghiệp nhận thù lao từ làng xã có sinh hoạt đó, có thể mua bán, trao đổi sinh hoạt này để kiếm lợi hay làm phương tiện cho làng xã giải quyết túng thiếu trong việc quan. Các tổ chức này có khi mở rộng tầm hoạt động theo với sự thành lập các giáo phường, nhưng tính chất cấp thấp của chúng khiến cho sinh hoạt các thành phần không xa rời nếp sống phóng túng tự nhiên thường nhật, khác với sự câu thúc triều đình muốn có. Đó là đầu mối của sự khinh miệt "xướng ca vô loài" mà những người dù bất mãn với quan niệm trên cũng không thể phủ nhận những bằng cớ còn xuất hiện mãi đến ngày nay. Đào với kép, đào chính với bầu gánh, với chức quyền địa phương, có khi trở thành một tầng lớp mãi dâm không chuyên nghiệp, khuất lấp mà vẫn có đó trong sinh hoạt xã hội thường được mô tả là thanh cao dưới ngòi bút của sử thần.
Các dấu vết ấy phải nhờ các biến loạn mới bày tỏ ra dưới ngòi bút của những nho sĩ nhân dịp thoát được sự kềm thúc của "cương thường đạo Lý" để sống buông thả - tuy theo lẽ thường cũng tránh né bằng văn từ hoa mĩ. Đò sông Hương không phải đợi tới thực dân Pháp mới có, vì các bài Nam bình, Nam ai đi theo các câu hò mái đẩy, tuy không chứng cớ về thời điểm nhưng rõ ràng là xuất hiện từ rất lâu. Nguyễn Du đã thưởng thức tiếng đàn của người ca kĩ thành Thăng Long, cùng với đám quân tướng Tây Sơn chắc là há hốc mồm theo với tiếng nhạc lời ca. Sao lại có thể nghĩ rằng "cầm giả" này chỉ hát làm vui cho tác giả Truyện Kiều mà lúc khác không làm việc như người kĩ nữ bến Tầm Dương xưa kia? Người của nhà thế gia này không giã từ Thánh Khổng một thời gian lâu dài thì hẳn không biết đến "Nước vỏ lựu, máu mào gà", không thể viết những câu như: "Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên" được. Thi sĩ ngắm nghía, trầm trồ rồi câu thơ vụt ra như một thứ orgasme qua thi tứ, một thứ khoái trá được giải thoát của kẻ phải chịu ép mình trong kềm thúc lâu ngày. Trước ông một chút, nho sĩ võ biền Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều tả cảnh ân ái "Bóng dương lồng bóng đồ mi chập chùng", theo cách nói khác với của bình dân "Gặp thằng vua phải gió nó đè em cung nữ ra". Ở những nơi có các "Hồng Hồng, Tuyết Tuyết mới ngày nào còn chửa biết cái chi chi" vừa cho thấy một tình trạng mại dâm trẻ em về phía chủ chứa, mà cũng tỏ rõ khuynh hướng ưa thích trẻ em ở các nhà nho đi tìm thú vui ngoài văn thơ. Chính từ nơi này cũng nảy ra thảm cảnh gia đình như của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, hay các chuyện chính trị lớn lao với trường hợp Thủ tướng tương lai Trần Trọng Kim vì đi hát ả đào chung với người thân Nhật bị Pháp vây bắt (Dương Bá Trạc), nên phải lẩn trốn để rồi thành nhà chính trị ngơ ngáo trong thời đại chỉ cần đến quần chúng, âm mưu, bạo lực. (Dẫn chứng từ Hoàng Văn Chí).
Đã nói nhà nước Đại Việt không dính dáng gì đến tổ chức mãi dâm. Dân chiến bại được ban cho các
quan có công về làm nô, vợ con tù phạm, kể cả vợ con các cựu công thần (như trường hợp vợ Đại tư đồ Lê Sát), ban cho quan đương chức. Lê Tương Dực đánh thắng Uy Mục rồi "sử dụng" phi tần của ông này cũng có thể coi là một trường hợp chiếm đoạt chiến lợi phẩm. Tuy nhiên rõ ràng là có tổ chức mãi dâm trong dân chúng như đã thấy ở trên. Điều này không tránh khỏi vì tổ chức thương nghiệp tuy bị chèn ép nhưng vẫn phát triển với các chứng tích từ rất xưa. "Chợ Đông" không phải chỉ xuất hiện với Trần mà đã phồn thịnh cả trong thời Bắc thuộc. Cao Biền mua chuộc thần Long Độ/Đỗ bằng cách tạc tượng đồng, rồi quay trở lại làm bùa yểm trấn áp không được, đành chịu thua "trở về Bắc". Thời Lý Thái Tông, "chợ Đông mở rộng thêm, huyên náo tấp nập", đời Trần uy thế chợ lớn lên cùng với tước phong của vua, nên người đương thời thấy "lửa cháy ba lần thiêu chẳng hết" (thơ Trần Quang Khải, bản dịch Việt điện u linh tập). Vua Lý muốn dời đền đi chỗ khác vẫn không xong, chỉ vì thần là tượng trưng cho sinh hoạt thương mãi. Chợ đông người, sinh hoạt phồn thịnh nên Trần muốn chém người "phỉ báng nhà nước" để thị chúng cũng đem ra xử ở đây (1283). Bước phát triển mới của Lê hẳn là làm mất cái tên Bụng Rồng mang tính cách phong thuỷ rơi rớt của Đường Đạo Giáo mà thay vào cho hợp với thời đại Tống, Nguyên, là ông thần cụ thể của thương nghiệp, thần Bạch Mã Balaha, còn tới bây giờ. Thế thì tuy không được như Trung Quốc, nhưng Đại Việt cũng có một bộ phận thương nhân khuất lấp dưới mắt nho sĩ mà vẫn thường trực, để kéo theo sinh hoạt riêng đi với tiền bạc rủng rỉnh, trong đó có sinh hoạt gái. Các ông quan của Lê Hiến Tông đi về Tây Kinh hẳn là mang nguồn cung cấp từ chợ Đông này.
Dưới không theo Lễ thì vua việc gì phải bận tâm. Quan như Nguyễn Lĩnh lấy em gái Mạc Đăng Dung sau khi có đến 10 vợ lẽ thì vua tam cung lục viện là chuyện đời thường. Cho nên sử thần lại có dịp chê các ông vua say đắm tửu sắc. Vẫn biết sự suy sụp của một triều đại nhìn dưới mắt sử gia về sau là do nhiều nguyên nhân khác sâu xa hơn, nhưng với thời đại mà quyền bính tập trung vào một gia đình, có các nguyên tắc đạo Lý làm nền tảng cho sự an nguy của đất nước thì hạnh kiểm của một ông vua cũng có phần góp vào sự đảo lộn chính tình.
Lê xuất thân từ tù trưởng phụ đạo, rõ ràng vào những ngày đầu của triều đại vẫn mang dấu vết cũ. Đánh nhau vừa xong thì có lệnh cho các đầu mục trở về quê cũ giành lại ruộng đất bị lấn chiếm. Quan xuất thân từ đầy tớ (Đinh Lễ 1368-1449, Nguyễn Xí 1397-1465, Trương Lôi), từ chủ đất lên làm bộ phận của chủ nước, coi đây là dịp để thanh toán hận thù, giống như từ lúc còn tranh giành xẻo ruộng, bờ mương. Tám năm sau khi Minh về nước (1434), Tư không Lê Ngân sai bắt tội theo giặc (lúc trước) của một người cùng làng để trả thù việc tranh ruộng với gia nô của mình mà có nói "vài lời bất kính" (quen miệng cứ tưởng như hồi còn chung cày cuốc cũ!) Đại tư đồ Lê Sát nói: "Nay bọn ta có quyền thế mà thù hằn người làng thì làm thế nào chẳng được? Sau này lỡ ta hết quyền thế rồi chả lẽ con cháu ta gánh chịu tai hoạ thù oán sao?" Ngân quát rằng: "Con cháu nó còn biết gây oán, con cháu ta lại không biết trả thù hay sao?" Câu chuyện cho ta thấy một người nắm quyền chưa tự tin ở ngôi vị của mình (Lê Sát), người khác (Lê Ngân) tuy làm vẻ gân guốc nhưng vẫn xử trí như hồi chưa mang quyền tước, cũng không tin ở sự vững vàng trong hiện tại có thể kéo dài. Con cháu công thần tụ tập giết người giữa chợ
(1449). Đời ông vua cháu Nhân Tông còn chăng lưới săn trước nhà (1449). Ông này bị giết (1460) có lễ chiêu hồn. Ông vua con Thái Tông còn cầm cung bắn chim để đám thần tử quen với sinh hoạt Thăng Long sang cả, phải dâng thư chê trách (1435). Không trách được điều đó vì ông đã lên ngôi không theo phép của Khổng Nho mà chắc là theo với truyền thống địa phương: em có thể kế ngôi anh. Không phải vì Tư Tề, con trưởng của Lê Lợi "ngông cuồng, bậy bạ(?)" nên bị truất phế mà từ lúc đầu (1429) Tư Tề được phong Quốc vương thì Nguyên Long (Thái Tông) đã được phong là Hoàng thái tử. Mâu thuẫn của vị thế phụ đạo cũ và hoàng đế mới đã gây nên những rối loạn cung đình cộng với những mâu thuẫn khác làm nên những biến động buổi đầu Lê sơ.
Nội tình gia thất của Quốc/Quận vương Tư Tề có chuyện người vợ lẽ bị ruồng bỏ được vừa mắt Hoàng Nguyên Ý, một ông phụ đạo khác ở Lạng Sơn, cũng là một nguyên nhân khởi loạn của ông này. Tổ chức cung đình chưa đủ quy củ ràng buộc nên ông vua thứ hai (Thái Tông) có bà vợ lớn quậy phá thật dữ. Sử quan cho là bà Dương Thị Bí "lăng loàn kiêu căng" vì có con được phong Thái tử nhưng hẳn
với nguyên nhân khác, vì có chuyện vua "nín nhịn bao dung" và bà bị giáng chức vẫn "hằn học trong lòng không kiêng nể gì cả" - tất cả những triệu chứng viện dẫn đều là của tình trạng xung đột ghen tuông tột đỉnh mà khuôn phép "lễ giáo" tỏ ra chưa đủ sức ràng buộc bà vợ. Hai tháng sau khi bỏ vợ (giáng làm thứ nhân), vua "ra lệnh-chỉ tuyển con gái đẹp ở các huyện". Thế mà bên mình vua đã có Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, "người rất đẹp, văn chương rất hay... ngày đêm hầu bên cạnh", ba năm sau
(1442) sẽ gây nên cái chết của ông vua 19 tuổi. Sử quan ghi gọn ghẽ mà nhiều ý:"Vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng." Sử quan thế kỉ XIX, lại vẫn thói quen che đỡ quân vương, tuyệt đối tránh nói chuyện tính dục, nên chuyển qua việc Thái Tông "mắc chứng sốt rét (?!)", Thị Lộ vào hầu, chẳng để vua làm phiền (!) gì nhưng vẫn bị tội thí quân, gây vạ cho ông chồng già Nguyễn Trãi. Tự Đức gạt bỏ danh hiệu "người hiền" thiên hạ gán cho Nguyễn Trãi vì "Trãi nếu là người hiền thì sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích... (trái lại) thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ... (nên) cái vạ tru di cũng là do Trãi chuốc lấy." Ông vua không-thể-có-con này chắc không chú ý đến một chi tiết khác của Toàn thư: "Tháng 9 ngày 9, giết bọn hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng vì khi Nguyễn Trãi sắp bị hành hình, có nói là hối không nghe lời của Thắng và Phúc."
Với sự kiện này, thì theo ý Tự Đức, Nguyễn Trãi còn tệ hơn là không phải "hiền giả" nữa. Nhưng hãy xét theo tính cách một mưu thần nổi danh, của Nguyễn Trãi, người thấy được tình thế đương thời của chính mình, phải chọn lựa đường lối thoát thân mà kết quả tàn hại cho bản thân, cho gia tộc không phải là do ông kém cỏi. Sự xung đột sau chiến tranh giữa Trần cũ và Lê mới, giữa truyền thống tông tộc Thăng Long và sức mạnh phụ đạo Lam Sơn không phải là điều tưởng tượng mà người tôn vinh tinh thần đoàn kết dân tộc thời bây giờ có thể cho là chuyện vu khống xấu xa. Sử quan Lê chỉ nói chuyện giết Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo "người Kinh lộ" bên lề những sự kiện khác, nhưng ý định tránh né lỗi của vua, đổ tội cho các nịnh thần cũng là một chỉ dấu của sự xung đột không nằm trong tính cách cá nhân mà có dạng tập thể.
Võ tướng đủ sức lật đổ chính quyền mới đã bị giết, nhưng có thể buông tha cho văn thần không nguy hiểm mà vẫn phải cần thiết cho việc trị nước vốn nằm trong tay các võ tướng Lam Sơn chỉ có mỗi một quyết định là "giết". Trong việc xử tử 7 tên ăn trộm vị thành niên (1435), Nguyễn Trãi nói chuyện nhân nghĩa, dẫn Kinh Thư , Tả Truyện liền bị các Đại tư đồ Lê Sát, Lê Ngân đùn, nói dỗi: "Ông có nhân nghĩa có thể cảm hoá người ác thành thiện, xin giao chúng phiền ông cảm hoá cho." Nguyễn Trãi đã gặp xung đột với Lương Đăng trong việc chế định mũ áo, nhạc lễ mới cho dòng họ cầm quyền từ lâu vốn chỉ biết mặc khố đâm trâu hội thề. (Quan tài ông Lê Tương Dực +1516 còn có cái khố đấy!) Quan văn gốc Lam Sơn cũng vậy: Ngôn quan, thái sử Bùi Thì Hanh cùng với ông Lễ bộ thị lang gốc đạo sĩ làm lễ giết vượn sống cứu mặt trời, bị Đồng Hanh Phát, học trò của Nguyễn Mộng Tuân ("người tài sĩ" theo Phan Phu Tiên), bài bác tâu với vua là không nên sử dụng "bọn âm dương, bói toán" làm mất thể thống triều đình. Cũng chính Đồng Hanh Phát xin bỏ lối hát rí ren của Thanh Hoá, và khi Bùi Thì Hanh bị giáng thì Ngô Sĩ Liên "Kinh lộ" ghi là "mọi người rất khoái chí". Văn quan cấp dưới có thể chịu luồn lọt ẩn nhẫn để thoát thân nhưng công thần Nguyễn Trãi tất thấy thế mình khó hơn nhiều. Muốn thoát được, ông phải vận dụng công sức nhiều hơn. Vì thế với óc mưu sĩ, ông đã cho Thị Lộ vào cung tìm thanh thế tận bên trong. Lời các hoạn quan can ngăn không làm ông co lại mà còn như chỉ dấu rằng mưu định của ông có cơ sở vững chắc hơn: Vua 17, 18 tuổi con nít ham sắc thì "vợ" ông, lớn tuổi hơn, lão luyện hơn, càng dễ xỏ mũi đắc thế hơn chứ sao! Không thấy bà Thị Lộ xúi được vua giáng chức ông đại công thần Đinh Lễ "cưng" của Lê Thái Tổ là gì! Vậy thì Nguyễn Trãi không "hiền", là "thứ dữ" nhưng chỉ vì không vượt qua được tình thế, không thể nào ngăn trở cơn "thượng mã phong" của Lê Nguyên Long Thái Tông mà mắc vạ đấy thôi. Không phải chỉ Thái Tông mà Hiến Tông có vẻ cũng chết cùng nguyên cớ: "Tháng 5, ngày 23 (1504), vua vì ham nữ sắc bị bệnh nặng", và ngày hôm sau thì băng. Có vẻ còn nhanh hơn cái chết của Nguyễn Tự cuối Lý qua Trần.
Tình thế ghen tuông trong cung cấm cũng thấy dưới đời Lê Thánh Tông tuy không xảy ra một vụ Nghi Dân khác. Không có chuyện lịch sử lặp lại nhưng vẫn có diễn biến có khi dẫn đến những tình thế thú vị hơn nhiều. Sử quan Vũ Quỳnh, người chứng đương thời, nói rõ: "Trường Lạc Hoàng hậu bị giam ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, bèn giấu thuốc độc trong tay mà sờ đến chỗ
lở, bệnh vua do vậy mới càng thêm nặng." Nhà nho ít lời nhưng vẫn nhiều ý. Thánh Tông không chết vì vợ bởi vì nếu thật như vậy thì tuyệt dòng Nguyễn Đức Trung, có người cho là tổ ông Bảo Đại nhiều thăng trầm trong tình thế đầy xuôi ngược ngày nay. Nhưng cái ghen của bà hoàng thì đã thấy rõ. Ghen thấy qua sự kiện "bị giam ở cung khác", ghen thấy qua lời đoán mò của sử quan. Nhưng quan trọng đối với chúng ta hơn, là căn bệnh của nhà vua.
Vua bị thương không phải vì chinh chiến. Đánh Chiêm Thành khải hoàn, vua thấy có mẹ, con đón rước, "thay áo, lên thuyền rồi về hành điện," lành lặn. Mùa đông, tháng 11âl. (1496), "vua không khoẻ", còn gượng làm thơ khoe rằng "Dù Lý (Bạch), Đỗ (Phủ), Ấu (Dương Tu), Tô (Đông Pha) sống lại vị tất đã làm nổi, chỉ có Ta làm được". Thế mà chỉ hơn hai tháng sau, vua ốm nặng một ngày rồi băng, "gươm thần, ấn thần đều biến mất", chỉ còn lại bài thơ và mối hoài nghi người sau không dám nói. Thái tử lên ngôi, cho biết vua cha bị bệnh phong thũng. "Phong thũng" theo cách hiểu thông thường, và của cả y sinh ngày xưa, là chỉ hiện trạng bệnh lở lói, cùi hủi. Vua không bị chiến thương như đã nói, mà sử quan lại có lời mào đầu là vua mắc bệnh nặng "vì nhiều phi tần quá", vậy thì Thánh Tông đã mắc "bệnh xã hội". Vua bị lở lói ở chỗ đó, hay khắp mình mẩy vì giang mai ở thời kì cuối?
Cổ Ai Cập đã biết đến bệnh giang mai. Trung Quốc chậm hơn, mãi đến thế kỉ VII, VIII mới bắt đầu biết vài căn "bệnh xã hội" là do giao hợp mà ra. Đầu thế kỉ XVI, y học Minh nhận ra bệnh giang mai và cảnh giác dân chúng về việc giao hợp với gái làng chơi (Reay Tannahill, tr. 193). Y giới Tây phương trước khi biết đến loại kháng sinh, đã chữa bệnh giang mai bằng hợp chất arsenic, y giới Đông cũng chữa bằng thạch tín (arsenic). Thái Y viện đời Lê đã dùng vị mã tiền có thạch tín chữa cho Thánh Tông chăng? Vì thế mới có ghi nhận Trường Lạc Hoàng hậu bôi "thuốc độc" (thạch tín) cho vua?
Vấn đề đặt ra là Thánh Tông mắc bệnh (có thể là) giang mai từ đâu? Ông vua không cần đi ra ngoài dân gian tìm thú vui, mà bắt con gái vào cung cho mình hưởng. Mĩ nữ các quan chọn cho vua hẳn phải lành lặn, "tinh khiết". Có một nguồn cung cấp gái phức tạp hơn: các tù binh, và hẳn chắc chắn hiện diện nhiều, là tù binh Chàm. Thời Lê sơ thương nghiệp đã rộng như ta nói, nhưng không đến mức phát triển theo đà phồn tạp sôi nổi bên ngoài. Hình như sự co lại của nhà Minh cũng có ảnh hưởng đến cách ứng xử với người ngoại quốc của Lê. Các quan gồng gánh mua bán chỉ những lúc đi sứ Trung Quốc, và Lê bị sứ thần Thiên triều ép mua hàng cao giá, còn người hải đảo, người lục địa phía tây vẫn thường bị từ chối. Trong lúc đó thì sự giao tiếp với vùng hải đảo, với bên ngoài của Chiêm Thành có liên hệ từ rất xưa trong khối chung văn hoá Ần, rồi Hồi Giáo. Thuỷ thủ vẫn là tác nhân chuyển bệnh xã hội của mọi thời đại, nơi chốn. Tất nhiên nữ tù binh Chàm của Lê Thánh Tông cũng không phải là thứ đứng-đường, nhưng trong biến động nước mất nhà tan, sao khỏi có người sa sẩy trong buông thả? - và vẫn còn sắc đẹp cho ông vua chú ý tới. Người đẹp lại là tác nhân thu hút bệnh nhiều hơn người xấu. Lớp tù binh Chàm 1471 hai năm sau khi Thánh Tông mất (1497) còn được thấy "thân vương" Lê ưa chuộng thì trong thời gian còn sống, sao không có người lọt vào mắt xanh ông vua? Thời gian từ sau 1471 đến khi ông mất là đủ dài cho sự ủ bệnh và phát triển đến độ "lở lói" cuối cùng, đưa ông vua sáng giá nhất Đại Việt về nơi yên nghỉ.
Căn bệnh của ông vua thời thịnh trị có tác động gì đến sự tàn tạ sau đó? Tất nhiên không có cách nào tìm chứng cớ ở sử quan. Chúng ta chỉ biết rằng ông sống khá lâu nên con ông (Hiến Tông) lên ngôi khá muộn, và sau đời ông này thì có dấu hiệu lệch lạc tính dục trong dòng họ. Chúng ta không bàn nhiều đến các ông Vua Quỷ (Uy Mục Đế), Vua Lợn (Tương Dực Đế), bởi vì các danh hiệu kia mang dấu hiệu phe phía rõ rệt khi ta đối chiếu với lời xưng tụng của các sử thần dưới đời những ông vua "bất xứng" này. Đã nói, hình như nguyên nhân chết cấp thời của Hiến Tông là vì truy hoan. Người con trưởng tên Tuân, theo xác nhận chính thức (Sắc chỉ 1499) thì "thích mặc áo đàn bà, bỏ thuốc độc cả mẹ", nói theo ngôn ngữ thông thường ngày nay, là "lại cái". Có lẽ chi tiết "bỏ thuốc độc cả mẹ" mới là nguyên nhân chính của quyết định Hiến Tông không chịu phong Thái tử cho ông. Bởi vì sự bất thường về giới tính ở phương Đông chỉ gây sự tò mò, ngạc nhiên, cùng lắm là chê trách chứ không bị coi là tội lỗi như dưới ảnh hưởng Thiên Chúa Giáo của Ấu Tây. Từ khi phát triển bớt ảnh hưởng thần quyền của Lý rồi, thì Trần cũng chú ý đến các hiện tượng lạ của con người, như khi sử quan ghi chép (1300) việc người lộ
Hồng sinh con trai hai đầu (frères siamois), việc con gái Nghệ An biến thành con trai (1351). Khó có thể suy đoán thêm chi tiết về trường hợp thứ hai này nhưng khi khai triển luật pháp phổ biến hơn thì hẳn quan chức nhà Lê cũng gặp các trường hợp kì lạ về giới tính, ví dụ như chuyện người phụ nữ đã sử dụng cái clitoris quá-khổ của mình để làm tình với bạn gái!
Người chú bản dịch Toàn thư dẫn Lê Quý Đôn cho biết thêm chi tiết về An Vương Tuân. Ông là người thông minh học rộng, sức lực hơn người, nhưng tính ngang bướng, thích mặc áo phụ nữ, hồi nhỏ vì không được như ý, đem thuốc đầu độc mẹ. Chuyên viên về sexologie hẳn có suy đoán hơn chúng ta với những chi tiết này. Người thường chỉ cho rằng tính chất về sức lực, trí thông minh cũng là những yếu tố cá tính mạnh, đối kháng với tính nữ tiềm tàng trong người ông. Kết quả đưa đến việc bỏ thuốc độc mẹ là sự chống đối với những uốn nắn người con theo trí tưởng bình thường của người mẹ, trong đó hẳn không thiếu những lời chế riễu, răn đe. Nhưng đó là cá tính thiên bẩm, hay nói với sự thông cảm như của ngày nay, đó là do sự tạo giống bất toàn mà trong một chừng mực có thể sửa chữa được thì ảnh hưởng khuôn khổ xã hội sẽ mang lại kết quả đổi thay. Sống trong khuôn khổ của một quan niệm nam nữ rành rẽ thì về lâu về dài, khi lớn lên, qua thấm nhuần của kinh sách học được, An Vương Tuân trở lại như mọi con người khác. Cá tính nữ đã biến mất, hay bị nhận chìm trong sâu kín mà người đương thời không thấy, hay không quan tâm tới nữa. Lời Lê Quý Đôn làm nổi sự hả hê của một người thấy có kẻ trở về với Chính giáo "sửa bỏ nết cũ, thờ mẹ rất hiếu". Nhưng khi sử gia vô tình dùng ngôn từ kinh sách "giữ mình kín đáo" để chứng tỏ thêm sự đắc thắng của đạo Lý, thì đồng thời cũng cho chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm của một con người lạc loài với giới tính xác định vốn có từ trong căn bản mà phải bị đàn áp, nén sâu.
Bệnh về tình dục như của Tự Đức được người sau biết rõ vì ông phải nuôi đến 3 người để kế nghiệp (mà ai cũng đều chết thảm theo với rối loạn ngoại xâm). Bầy tôi thì dễ nói hơn, tuy cũng không nhiều lời. Đó là Tống Phúc Đạm (+1799), người xung đột với Bá Đa Lộc, ông tướng "sợ súng... từng có tật ngầm (?), không gần đàn bà nên không có con."(Đại Nam liệt truyện, tập 2, tr. 160-161). Ông bị liệt dương hay như Lê Văn Duyệt?
Gà mái gáy trong triều đình, trên sân nhà: vinh
quang và khổ nhục của giới tính nữ Việt
Chúng ta đã thấy cung đình triều Lý còn vướng vất tính chất quyền uy truyền thống của phụ nữ trên đất Việt. Khi ông vua yếu thế thì điều ấy hiện ra tuy vẫn bị khuất lấp dưới ngòi bút của sử thần nho sĩ. Sử quan cho rằng Thái hậu Ỷ Lan, mẹ đẻ của Nhân Tông, "dèm" chết bà chính cung cũ. Nhưng sử thần cũng thấy khi Nhân Tông lên ngôi thì bà Dương Thái Hậu "buông rèm cùng nghe chính sự", có phe phái đàng hoàng là Thái sư Lý Đạo Thành. Nguyên tắc trưởng thứ có dáng Nho Giáo ấy nếu đủ sức mạnh thuyết phục thì làm sao bà mẹ ruột Ỷ Lan với cậu bé vua 6 tuổi, đủ vây cánh để làm cuộc đảo chính cung đình với gần cả trăm người bị giết, dù sử quan chỉ kể ra những người phụ nữ? Đời Anh Tông có ông cậu Đỗ Anh Vũ tung hoành, người bị sử quan Toàn thư dài dòng kể lể tội lỗi trong lúc kẻ viết văn bia lại không đủ lời tán tụng. (K. W. Taylor, "Voices Within and Without: Tales from Stone and Paper about Đỗ Anh Vũ (1114-1159)", Essays into Vietnamese Past, Cornell 1995, pp. 59-80). Đời Cao Tông tiếp theo cũng có ông Đỗ An Di/Thuận có vẻ như bị ông Tô Hiến Thành chia quyền, nhưng ông Taylor lại thấy rằng viên thái uý cương trực của sử quan này cũng là người dính Lýu đến phe họ mẹ! Nói tóm lại, qua tấm rào che chắn chữ nghĩa của sử quan, ta vẫn thấy quyền uy của các ông cậu vua trên triều đình, dấu hiệu của truyền thống ưu thế thuộc về dòng mẹ.
Lê có đổi khác theo tình hình Lý thuyết trị nước áp dụng phổ biến, sâu xa hơn, nhưng với thực tế vướng víu tình cảm và một sự trùng hợp tình cờ của Lý thuyết Nho mà phe ngoại vẫn còn chen được vào quyền bính trị nước. Với Nho Giáo ngự trị, ngày nay người ta vẫn còn vẽ ra những thảm cảnh có thật của người phụ nữ ở Á Đông. Hãy đọc một phần nhỏ lời khinh miệt của phe cầm quyền khi xét đời vua trước: "Nhân Tông mới lên hai tuổi đã sớm nối ngôi vua, Thái hậu Nguyễn thị là gà mái gáy sớm...
Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham, khoác lác hoành hành khắp cõi... như Văn Lão, Xương Lê lòng như quỷ quái..." (Trung hưng kí, đời Quang Thuận; chúng tôi nhấn mạnh). Người ta tưởng phe ngoại không thể có mặt dưới triều ông vua này, nhưng ông sử quan Vũ Quỳnh sau khi không tiếc lời ca tụng Thánh Tông, lại thấy là có dịp để khen tiếp sự việc "(vua) dùng họ mẹ làm việc duyệt xét (để chỉ) rũ áo khoanh tay mà trong nước được yên ổn". Mâu thuẫn không phải chỉ do sự nịnh nọt của sử thần mà là do Lý thuyết đem ứng dụng vào thực tế làm nảy sinh phức tạp.
Lý thuyết Nho vẫn dành một địa vị trang trọng cho người phụ nữ, tất nhiên trước hết là trong gia đình, nhưng không khỏi lan ra ngoài xã hội, điều nhà nho thường cố sức ngăn chặn bằng những lời cảnh cáo mà vẫn không hiệu quả. Lễ kí tuy dành phần ưu thế cho phía đàn ông nhưng vì mối liên hệ tương quan nam nữ rất cần thiết cho sự vững bền của thể chế nên không thể bỏ qua sự trọng đãi người phụ nữ khi đã ràng buộc họ vào bổn phận. Qua các phần nghi thức của hôn nhân, ta thấy rõ điều đó: "Hôn lễ hoàn tất... cô dâu bái kiến các bậc tôn trưởng... Cô dâu được ban rượu ngọt... xuống làm cơm để rõ đạo phụ nữ thuận tòng... Sáng sớm hôm sau cha mẹ làm cơm đãi con dâu... Cha mẹ ăn xong đi xuống bậc phía tây trước, cô dâu xuống bậc phía đông sau, có ý là từ nay cô dâu là người thay mặt mẹ chồng lo việc nhà... Nghi lễ chấp nhận con dâu đã xong... có ý nghĩa là con dâu đã có tư cách thay thế mẹ chồng... Phụ nữ có thuận tòng thì trong nhà mới hoà hợp, nhà có hoà hợp thì sau mới lâu dài. Cho nên bậc thánh vương coi trọng điều ấy lắm vậy." (Bản dịch đã dẫn, tr. 364. Chúng tôi nhấn mạnh).
Địa vị "con gà mái gáy" của phụ nữ trong gia đình Nho Giáo là do ở lời Thánh dạy "có tư cách thay thế mẹ chồng" đó. Ý nghĩa tăng thêm, là "chủ gia đình". Gia đình của vua cũng là gia đình. Cho nên vua còn trẻ thì bà thái hậu "buông rèm phụ chính", thật ra có thể ngồi ngay giữa triều đường để bàn việc nước. Lý thuyết mới đem vào Đại Việt đã gặp được sự đồng điệu với truyền thống cũ. Bà thái hậu mạnh mẽ ý chí thì có thể thành Lữ Hậu của Hán, Từ Hi của Thanh, mạnh hơn nữa thì xưng Đế, đổi quốc hiệu là Chu, ngang nhiên tuyển lựa hai chàng trai họ Trương vào hầu hạ, trả thù cho phần nửa nhân loại bị áp bức, như Võ Tắc Thiên của Đường. Ở Việt Nam chưa có ai xưng Đế nhưng bà "Nguyễn thị gà mái gáy sớm (vua lên hai, nghĩa là bà thái hậu chưa quá tuổi teen!)" kia đã chém một loạt quan, trong đó có công thần của ông nội chồng! Bà Từ Dũ thì theo một nguồn tin, đã bảo được ông con hoàng đế chọn Dục Đức lên nối ngôi tuy Tự Đức không bằng lòng ông con nuôi "vô hạnh". (Nguyễn Đắc Xuân giới thiệu, "Khúc tiêu đồng - Hồi kí Hà Ngại", Nghiên cứu Huế, tập 2, 2001, tr. 182.) Sự kiện mất nước nửa sau thế kỉ XIX không phải bắt đầu từ đây nhưng cũng là dịp cho biến chuyển thêm phần rối rắm hơn.
Sự cô đơn trong cung cấm đã khiến xảy ra vụ án Mĩ Đường (+1849) thông dâm với mẹ mà sự trừng phạt vốn là theo luật pháp Nho Giáo nhưng cũng không tránh khỏi tiếng xấu cho Minh Mạng, trong đó lời đồn về con cháu Hoàng tử Cảnh thoát thân trốn sang Cao Miên, ít nhiều gì cũng gây nên sự đề phòng về phía Nam Kì có ông Tổng trấn không mấy thuận thảo với nhà vua. Vợ Hoàng tử Cảnh cũng mang họ Tống, một họ quý hiển, có khi được ban cho một bà hoàng khác họ (trường hợp Hồ thị +1716, vợ Nguyễn Phúc Chú), có nhiều người lấy vua chúa, như một người đàn bà khác đã gây nên sự rối loạn anh em, chú cháu tranh giành gái, lúc Nguyễn còn là chúa.
Trong triều đình, bà thái hậu còn phải chịu nhiều áp lực phe phái chứ ngoài dân gian, gia đình dù sao cũng là một đơn vị có phần riêng biệt, nên người phụ nữ qua giai đoạn làm dâu khổ nhục, một khi trở thành mẹ chồng thì đã là chúa tể với đám người dưới quyền. Tuy bề ngoài không lấn chồng, nhưng với tình trạng các bà kinh doanh nuôi chồng, ông chồng làm quan với số lương còm cõi, chỉ có danh vị, thì quyền đó trở thành thế lực cụ thể với sự làm ngơ vì bất lực của đấng nam nhi. Trong cái harem nhỏ vừa tầm với đại gia đình Việt, bà vợ già là người ban phát ân huệ tình dục cho các bà vợ lẽ của quan. Cũng ông cử nhân Hà Ngại (bđd, tr. 187) kể chuyện bà nội ông Phan Khôi làm chính thất cho ông Án sát có đến ba bà vợ lẽ, bà nào đi ngang trước mặt Bà cũng vòng tay cúi đầu lễ phép. "Ba bà ấy có nhà riêng gần đó, làm ăn khá, con đều phát (đỗ) đạt...Mỗi ngày bà Án chia phiên cho các bà kia vào hầu... Các bà
ấy đều trên dưới 50 tuổi, mà bà Án (gần 70) vẫn bảo: ?Đêm nay con Ba vô hầu ông lớn... đêm mai con Bốn...?" Cho nên, không lấy làm lạ với chứng nhân Miền Bắc ngày nay kể chuyện bà vợ cả ông Lê Duẩn đích thân lựa chọn người hầu đêm ông Tổng bí thư! Hồi kí kia không cho biết bà Cả nhà họ Phan lúc trẻ có ghen tuông đến mức hành hạ các bà vợ nhỏ như đã từng xảy ra mà nhờ biến chuyển 1945, các con bà bé dựa vào ý thức giai cấp của thời mới đã tìm cách bộc lộ, hay không.
Tất nhiên là với đám dân chúng cày cuốc bình thường thì tình trạng một vợ một chồng là căn bản, bởi vì lẽ giản dị là họ không đủ sức nuôi thêm một gia đình thứ hai. Nhưng điều đó cũng không chứng tỏ được sự "chính chuyên" của phụ nữ hay sự "trung thành" của phía nam. Sự phân công trong việc đồng áng đã khiến cho người phụ nữ có một chừng mực ngang hàng với nam giới - chưa kể trường hợp người vợ chạy chợ buôn bán xuôi ngược, nắm quyền kinh tế trong gia đình như đã nói. Xóm làng còn nhiều bờ cỏ, đống rơm. Vì thế người phụ nữ đủ khả năng thách đố: "Ông ăn chả thì bà ăn nem." Chúng ta cũng không nhắc lại các lễ tiết phồn thực đã kể. Chỉ biết rằng sinh hoạt thường trực của xã hội ở tầng lớp đông không thiếu chỗ cho sự phóng túng của người có vợ, có chồng hay không. Và điều đó thì không có ông thánh cũ hay mới nào ngăn chặn được.
Tuy nhiên lại cũng không có nghĩa là sự kì thị giới tính không còn nữa. Nó lại tăng thêm vì có sự phối hợp của thành kiến trong quá khứ ăn sâu vào tâm tính nhân loại, cộng thêm với lễ giáo mới. Hiện tượng kinh nguyệt là điều ghê sợ, gây cấm kị khắp nơi (Reay Tannahill, tr. 43, 66), cũng có ở Việt Nam: "Đồ đội quần đàn bà!" "Đồ ăn máu què, ăn quần (có máu) què!" Ngô Sĩ Liên chê: "Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó mà phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả nhà bị diệt. không đề phòng mà được ư?" cùng với các truyện, tuồng tích đem lại hình ảnh về con Đắc Kỉ Hồ li tinh, con Võ Hậu lăng loàn... trong đầu óc dân chúng bình thường về sự khinh miệt "đàn bà đái không khỏi ngọn cỏ". Sự phán xét thiên lệch này thấy tăng thêm trong tương quan sex đối với các tập họp thiểu số.
Thật ra thì sự phân biệt đa số, thiểu số không phải chỉ bởi nguồn gốc chủng tộc mà còn vì trình độ phát triển của tập họp, uy thế chính trị của người cầm đầu phe nhóm nữa. Đinh làm việc "đại nhất thống" xong, khi mất ngôi thì tập đoàn của họ trở thành "man lão" để người cầm quyền mới xẻ thịt phơi khô, bắt làm nô lệ xây thành. Lê, nếu đánh Minh bại thì cũng chỉ là một thứ Phan Liêu lêu bêu, cuối cùng bị Lê giết trong sự tranh giành quyền lực, và để sử gia ngày nay ồn ào mắng chửi. Lê thắng nên từ tù trưởng nơi núi rừng trở về nghênh ngang trên đất Thăng Long của họ Trần quý hiển. Nguyễn đường bệ ở Phú Xuân / Huế, bỏ lại người cùng xứ với ông tổ Nguyễn Kim còn là "mường" đến ngày nay. Tất cả, rốt lại, chỉ còn là một tập họp "người nói tiếng Việt" (chữ của ông K.W. Taylor) có trình độ phát triển cao hơn vì có sự tiếp xúc rộng lớn hơn những tập họp trong bìa rừng hóc núi mà họ không tránh khỏi giết chóc, lấn chiếm, giao tiếp, có khi tận trên giường ngủ.
Lê Quý Đôn nhắc đến việc buôn nô lệ "man" trên đất Gia Định, không biết gì thêm về sinh hoạt "trong nhà" của các điền chủ kia, nhưng hiển nhiên là làm sao tránh khỏi có những dòng giống lưu lại mà vì chẳng có điều kiện lưu giữ chứng tích nên ta không có các hậu duệ kiểu của ông Tổng thống Jefferson, trên đất Việt? Chủ thể Việt ở Gia Định cũng khiến cho một bộ phận lai khác trở thành Việt: lớp người Trung Hoa Miên bị gọi một cách khinh miệt "đầu gà đít vịt" lại có thế lực kinh tế, và chủ yếu ở vấn đề ta đang bàn là, mang dáng vẻ sex thu hút. Trong tình hình giao tiếp chung đụng thì tầng lớp dưới của xã hội vì nhu cầu sinh Lý có thể vượt qua được sự khác biệt chủng tộc. Có lấy làm lạ chăng, nếu ta thấy con cháu người tù dân Hưng Nguyên thế kỉ XVII sống ở đất Kontum ngày nay, có người "tóc quăn" như Nguyễn Huệ? Trong cuộc chiến vừa qua, dân "Việt" tiếp xúc với người Thượng ngày nay thường xuyên, sát sao hơn. Đám Lýnh tráng thô lỗ của các thành thị Miền Nam được dịp biết gái Thượng để chê về động tác làm tình của họ. Các cán bộ ba cùng cà răng căng tai, nghiến răng ngồi giữa nắng để cho ruồi trâu cắn làm một thứ initiation hội nhập, và học ngôn ngữ địa phương đến làu thông đủ qua mặt chiến dịch Phượng Hoàng, ngày nay tuy vẫn không lên tiếng, nhưng chắc vẫn còn giữ những kỉ niệm trong bìa rừng, trên nhà gác. Bởi vì, lại vẫn phải nhắc, điều đó không tránh khỏi, tuy là nói ra thì
sợ mất tính chất thần thánh của "cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc". Những người dân di dời sau 1975 (dân Tày, Nùng đến Bù Đăng, Thái Bình vào Bình Dương, Sông Bé, Hà Nam Ninh vào Bảo Lộc, Thuận Hải, người trên vùng Gia Lai, Kontum...) chắc tràn ngập vì số đông Việt, hẳn không có cơ hội giao tiếp thân mật với người bản thổ. Xa về phía bắc, lại là chuyện của các ông quan tây ta lên vùng người Thái được chủ nhân đem vợ con "chiêu đãi". (Chứng nhân riêng biệt của kẻ này là một nhân vật trong đại gia đình, tuy ông lão lại dại gì nói với thằng bé là mình từng được thụ hưởng cái phúc ấy!) Người Lính Tây tiến thực thà tội nghiệp bị "nhân dân" mắng: "Mày không có... hay sao?" nhưng các cán bộ thì "biết hết". Tuy nhiên với tầng lớp trên, và công khai, thì sự kỳ thị giới tính trong tương quan đa số thiểu số vẫn không tránh khỏi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ vì "Các chú ở Bộ Chính trị nói Bác không lấy vợ có lợi hơn", nên không đáp ứng được yêu cầu của cô cán bộ đất ngàn năm văn vật bị tướng Nguyễn Sơn chê "lép kẹp!" Thế là người ta phải đi tìm một cô Thổ cho Bác, dẫn đến việc giết người công khai giữa Thủ đô, và khiến ông Bộ trưởng Công an phải cho người lên tận rừng núi Cao Bằng đuổi tận giết tuyệt cho phi tang. Đâu phải đợi đến tận đời Lê sơ mới có chuyện oan khuất!
Nhà nho lại cái
Nho sĩ Việt từ lúc muốn là, và trở thành tầng lớp trí thức truyền thống, đã phải chịu hai áp lực chính: áp lực từ tính chất tầng lớp xuất thân của mình và áp lực từ kiến thức ngoại lai thu nhận. Hai điều ấy khiến tạo nên tính chất các sản phẩm được cho ra đời, cùng lúc với những cung cách ứng xử trong tình thế có áp lực nặng nề từ bên trên và sự trống rỗng quần chúng đồng điệu Lý thuyết ở phía dưới.
Nhắc lại, dưới hệ thống cai trị bằng tông tộc của Lý, Trần, nho sĩ?chỉ là "gia thần", cái tên được xác nhận bởi ông chủ Trần. Vì kiêu ngạo với kinh sách học được, loại kinh sách từ Nước lớn đưa tới vốn có bản chất độc tôn từ căn bản, nhưng lại được ứng dụng qua những thân xác mang địa vị thấp kém ở địa phương, nên các sử quan tha hồ mắng chửi người vắng mặt mà né tránh người đương thời, nên Chu An làm Thất trảm sớ mà khi được trao quyền lại giật mình, làm cao né tránh. Không điều gì chứng tỏ rõ hơn khi thấy người có quyền - và ở vào cái thế ứng dụng học và hành như Hồ Quý Li, chê một nho sĩ: "Biết mấy chữ mà (dám) nói chuyện Hán, Đường!" Với Hậu Lê, khi kinh sách phổ biến rộng rãi hơn với tính chất tuyển lựa qua thi cử đều đặn hơn, có hệ thống hơn thì nho sĩ tuy phồn tạp hơn nhưng vẫn không thấy địa vị mình đổi khác để có thể tự đổi thay. Lê Thánh Tông vẫn đái vào mũ quan - như Hán Cao Tổ xưa, vẫn mắng sàn sạt nho thần, sai giết người - rồi phản tỉnh, tự phê.
Nhưng nho sĩ lại xuất thân từ đám dân chúng không những đã mờ mịt với lời Thánh dạy mà lại còn có lối sống thường trực không còn gì xa hơn: sự biểu lộ dục tính là thường trực, bình thường, những điều mà nho sĩ lại không được nói, không có chữ để diễn tả. Hãy đọc lại những bài thơ văn chữ Hán bị ràng buộc từ trong lúc luyện tập thi cử mà họ chưa thoát nổi dù để đem ra thù tạc, ngâm vịnh riêng tư. Vòng kềm toả của chữ Hán với nội dung được học tập khiến họ chỉ có thể trôi nổi trong các sáo ngữ không dính Lýu gì tới cuộc sống thực của họ, cuộc sống gắn liền với những suy nghĩ bằng ngôn từ bản xứ, thế mà lại chưa có hình thức biểu hiện: chữ viết. Cố gắng tìm ra một dạng chữ thì quốc ngữ ấy cũng còn bị ràng buộc bằng chữ Hán vay mượn. Tuy nhiên, có còn hơn không, và thứ văn tự Nôm đó cũng phải trải qua một thời gian dài để thành hình. Ta có thể bắt đầu với bài thơ của chàng điếm Ô Lôi ở Lĩnh Nam chích quái và thơ quốc ngữ của Nguyển Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy chặng đường hình thành gập ghềnh như thế nào. Hai chữ "song viết" làm khổ người nghiên cứu ngày nay chắc cũng phải làm cực nhọc người xưa không ít. Chỉ đến khi loạn lạc tiếp theo làm giảm bớt áp lực kinh sách, đồng thời với đường tiến thân bằng khoa cử tuy vẫn còn đều đặn theo lối nhân tuần nhưng không còn là lối duy nhất dẫn đến quyền tước, sang giàu, chữ quốc ngữ nôm mới phát triển theo với đà tiến lên đông đúc của đám người ít học (nho). Loạn lạc, võ tướng cũng làm quan được; Trịnh cần tay chân nhiều nên hoạn quan cũng chẳng cần học lắm. Giao thương mở rộng, thương nhân tuy không được sử quan hé mở cho một lời mà vẫn hiện diện trên bia đá lưu truyền hậu thế, kể chuyện làm chùa, xây đình, mở chợ... cả khi đem tiền giúp cho làng xã thanh toán việc quan. Cho nên thế kỉ XVIII, nhất là nửa sau, đã thấy sự phồn tạp của sách vở chữ nôm khiến cho chúa Trịnh đại diện chính giáo thấy địa vị chữ thánh hiền lung lay,
phải lên tiếng ngăn cấm. Đàng Trong đặc biệt hơn vì ít nhiều thoát ra ngoài áp lực của kinh sách nên từ thế kỉ XVII đã có những truyện thơ nôm có tên tác giả, trước cả miền Bắc với Trinh thử, Trê cóc với văn từ khúc khuỷu, không thấy ai nhận là chủ nhân.
Thế là các nho sĩ có phương tiện tỏ bày tâm tình của mình dàn trải hơn, thành thực hơn. Tất nhiên lúc này không thể có một thứ văn chương cá nhân chủ nghĩa xuất hiện ở Đại Việt, nơi một thể chế chính trị còn kềm hãm con người theo với một cơ sở đạo Lý đem từ phương Bắc càng lúc càng khắc nghiệt. Người ta phải lén lút náu hình, "núp bóng đàn bà": Tần cung nữ oán Bái Công văn, Cung oán ngâm khúc. Nhà nho khi mượn lời nữ đã trở thành lại cái. Sự biến hình, dù trong tâm tưởng, và vô ý thức, cũng đã có nguyên nhân từ sự đè nén của quyền lực chính trị, của đạo Lý gay gắt bóp mềm con người. (Dân cải tạo từng ngạc nhiên khi thấy các anh bộ đội ngoe nguẩy tay chân.) Dạng hình mượn (làm người nữ) phối hợp với sự mềm yếu tâm tính, đủ cho sự giả trang của nho thần che mắt được quyền lực bên trên. Và thế là Đại Việt có một thành phần văn chương lại cái.
Lúc sơ khởi, và cũng có thể vì khả năng tác giả, sự giả trang còn lộ nét vụng về. Người cung nữ của Ôn Như Hầu lộ rõ chân tướng võ biền:
Giang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
và kể chuyện đêm tân hôn say sưa, táo bạo như niềm hoan lạc của chàng trai Nguyễn Gia Thiều nghỉ đêm ở nhà hát cô đầu. Nhưng có lẽ không ai giả gái trong văn thơ thành công hơn Phan Huy Ích.
Thế kỉ XVIII, XIX, theo với đà chung, cũng là lúc xuất hiện các nữ sĩ dài hơi trên thi văn đàn Việt. Người ta nói đến Đoàn Thị Điểm với bản dịch Chinh phụ ngâm, Công chúa Ngọc Hân với Ai tư vãn, và Hồ Xuân Hương với những bài thơ đầy dục tính táo bạo... Và tất cả đều như những huyền thoại phát sinh từ thành kiến đơn giản hoá giới tính.
Với nàng công chúa không bị lạc loài như người xưa (Một đi từ biệt cung vua, Có về đâu nữa đất Hồ ngàn năm) nhờ có ông Quang Trung uy vũ trùm trời, nên Lê Ngọc Hân cũng dễ được thông cảm là đã làm bài vãn dài khóc ông chồng anh hùng. Không có gì sai hơn. Cũng giống như bảo Lộ bố văn là của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ là của Trần Quốc Tuấn (tuy chắc ông cũng có liếc qua), hay với chuyện đương đại, bảo Toàn tập Đỗ Mười in để lấy tác quyền với lượng ấn phẩm lớn theo tiêu chuẩn sổ Tông Đản, là của ông cựu Tổng bí thư, cựu Cố vấn vậy. Không có bằng chứng theo kiểu "all rights reserved" thì ta hãy theo sự nghi ngờ hữu Lý của ông Hoàng Xuân Hãn mà cho rằng Ai tư vãn là của danh sĩ Phan Huy Ích làm ra. Bởi vì nó giống (cái này là của tui!) với trường hợp bản dịch Chinh phụ ngâm khúc thường cho là của Đoàn Thị Điểm.
Bằng lòng hay không bằng lòng thì chúng ta là người của thời đại ngày nay, trước khi có bằng chứng khác đánh đổ, chúng ta phải theo xác định của ông Hoàng Xuân Hãn và Nguyễn Văn Xuân. Thật ra thì ngoài bằng cớ rành rành kiểu hàng chữ "Tác giả giữ bản quyền" không tìm đâu ra, những người bênh vực nữ quyền cũng có bằng cớ. Thông thường, khó có thể tin ai không phải là đàn bà mà viết được những câu:
Nghe trước có đấng vương Thang, Võ. Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao, Mà nay áo vải cờ đào.
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
(Chắc có thể tìm ra những câu mềm hơn, nhưng người viết không có bản văn trong tay, đành lấy lại trong quyển sách cũ vậy.)
Hay:
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu Dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
D...ấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Tuy nhiên loại chứng cớ trên lại là dựa trên thành kiến về sự phân biệt rạch ròi giới tính, rạch ròi về phương diện sinh Lý và quan điểm đạo Lý Nho với sự phân biệt rõ ràng về bổn phận, tâm cảm. Chúng ta cũng muốn bà Đoàn Thị Điểm là tác giả bản dịch thường dùng kia nhưng không thể, hay chưa thể, cãi lại chứng cớ của ông Hoàng Xuân Hãn. Dòng Lý luận có thể đúng suốt một tiến trình bắt đầu bằng cái sai nhưng không thể cải đổi được chứng cớ căn bản. Vấn đề là trở lại với cái đúng ban đầu và tìm cách giải thích sao lại có sự (ta tưởng là) ngược ngạo kia. Bản văn đã có tác giả thì chỉ tìm nguyên nhân ở chính tự thân tác giả. Lời ngâm khúc đã nhuần nhuyễn giọng đàn bà thì phải hiểu là, ít ra lúc viết nên câu thơ, tâm tình Phan Huy Ích đã chuyển hoá thành đàn bà. Đó là tài riêng của Phan Huy Ích, nhưng cũng là kết quả của giáo dục Nho dồn ép con người ông, phát lộ trong thời kì uy thế thánh giáo sa sút, có một anh dòng dõi thương nhân (Nguyễn Hữu Chỉnh) chê "nhà nho nói khoác", cùng lúc với sự dọn sẵn nhuần nhuyễn cho cách phát biểu tâm tình bằng ngôn từ bản xứ.
Phan Huy Ích chỉ núp bóng một nhân vật tưởng tượng, và còn giữ lại lời của tầng lớp sang cả của ông, nhưng những người sau ông lại núp bóng một nhân vật có thật: Hồ Xuân Hương, để thoả mãn một ẩn ức có thật, lâu dài, phổ biến trong dân chúng. Và điều này thì lại phải đợi đến khi Nho Giáo tàn tạ, khoa cử bãi bỏ để cái giống bị đè nén lâu ngày, nổi lên. (Xem Đào Thái Tôn, Hồ Xuân Hương - Tiểu sử Văn bản - Tiến trình huyền thoại hoá, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội 1999. Chú ý các năm xuất hiện loại thơ này.)
Nhà nho chỉ đổi giống tâm tình, khác với một loại đồng liêu khác, thay đổi thể xác mà có khi tâm tình, thể chất còn nguyên là đàn ông: các hoạn quan.
Xem Phần II
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét