Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2011

"Những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ dần dần tan biến’ – Tướng Douglas MacArthur

Các Diễn Văn Làm Thay Đổi Thế Giới – ‘những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ dần dần tan biến’ – Tướng Douglas MacArthur

Chiến tranh thế giới 2 kết thúc, khối phát xít bị tiêu diệt. 2 khối còn lại Đồng Minh Tư Bản và Đồng Minh Xã Hội Chủ Nghĩa vừa kình địch, vừa hoà hoãn nhau phân chia lại thế giới.

Ở một số quốc gia, 2 khối không thể thống nhất với nhau toàn bộ lãnh thổ sẽ thuộc về phe Tư Bản hay Xã Hội Chủ Nghĩa. Nên cả 2 thống nhất sẽ chia đôi đất nước để giải giáp quân Nhật, sau đó rút đi để quốc gia đó tự do tuyển cử theo chế độ nhân dân nước đó muốn (ví dụ điển hình là Hàn Quốc, Việt Nam).

Tuy nhiên, trong thời gian chiếm đóng các quốc gia này, các phe cố gắng nhanh chóng xây dựng/ủng hộ lực lượng chính trị địa phương thân với phe của mình, với hy vọng lực lượng chính trị đó sẽ thắng trong cuộc tổng tuyển cử.

Vì vậy, khi các cường quốc “rút đi”, sẽ để lại 2 lực lượng chính trị địa phương thù địch nhau quá gay gắt, nên tổng tuyển cử chỉ diễn ra 1 cách hình thức và nội chiến nổ ra. Đó là trường hợp của Hàn Quốc (và cả Việt Nam).

1950, một cuộc chiến khốc liệt diễn ra giữa Nam Bắc Hàn với sự hậu thuẫn ngầm và công khai của 2 khối làm thiệt hại 2.5 triệu dân và khoảng 1 triệu binh sĩ (Wikipedia – con số này có thể thay đổi tuỳ theo nguồn). Thủ đô Seoul thành 1 đống gạch vụn với 4 lần đổi chủ chỉ trong 1 năm.

Tháng 3 năm 1951, chiến sự 1 lần nữa xoay chuyển theo chiều hướng có lợi cho khối Tư Bản (do quân Trung Quốc bắt đầu hụt hơi do khó khăn trong tiếp vận), tổng thống Truman báo cho tư lệnh MacArthur, đang phụ trách khu vực này, về việc đề xướng các cuộc hội thảo ngưng bắn, vì lo ngại chiến tranh leo thang sẽ dẫn Liên Xô công khai tham chiến và mở rộng quy mô chiến tranh.

Tướng MacArthur không đồng ý, tự mình ra tối hậu thư cho quân Trung Quốc, yêu cầu được quyền quyết định chuyện ném bom nguyên tử (quyền này đang trong tay tổng thống), kêu gọi sự ủng hộ chiến tranh trên các phương tiện truyền thông và trước quốc hội.
Tháng 4 năm 1951, MacArthur bị giải chức chủ yếu với lý do quân sự (trước đó vào tháng 11 quân Đồng Minh đã thiệt hại rất nặng do Trung Quốc tấn công bất ngờ), nhưng nhiều người tin rằng là do ông chống lại đường lối của tổng thống.

Đây là bài diễn văn chia tay của MacArthur, bài văn này thể hiện sự cố gắng cuối cùng của ông trong việc thuyết phục quốc hội Mỹ tiến hành chiến tranh đến cùng (chứ không chỉ tái chiếm lại biên giới Nam Hàn và đàm phán), nó thể hiện ý chí quyết chiến đến cùng của ông.

Trong bài này đưa ra rất nhiều giả định và lý luận (chủ yếu là về tư tưởng bành trướng lãnh thổ của phe XHCN), mà ngày nay chúng ta cũng không biết là đúng hay sai (vì tình hình kinh tế nhiều thay đổi, làm ảnh hưởng đến chính trị và quân sự). Nhưng vào thời điểm đó, có rất nhiều người Mỹ tin vào các lý luận này, và quyết định giải chức tướng Arthur vấp phải làn sóng phản đối mạnh mẽ tại Hoa Kỳ

Về tướng MarArthur (Wikipedia)

Thống tướng Douglas MacArthur (26 tháng 1 năm 1880 – 5 tháng 4 năm 1964) là một vị tướng của Hoa Kỳ và là Thống tướng Quân đội Philippines (Field Marshal of the Philippines Army). Ông là Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ trong suốt thập niên 1930 và sau đó đã đóng một vai trò quan trọng trên mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. MacArthur đã nhận được Huân chương Danh dự. Ông được bổ nhiệm chỉ huy cuộc xâm chiếm Nhật Bản mà đã được hoạch định tiến hành vào tháng 11 năm 1945. Nhưng khi thấy không còn cần thiết nữa, MacArthur chính thức chấp nhận sự đầu hàng của Nhật ngày 2 tháng 9 năm 1945.

MacArthur giám sát cuộc chiếm đóng Nhật Bản từ 1945 đến 1951 và được công nhận vì những đóng góp cho những thay đổi dân chủ sâu rộng của đất nước này. Ông chỉ huy Tổng lực lượng quân sự do Liên hiệp quốc lãnh đạo để bảo vệ Nam Triều Tiên trước sự tấn công của Bắc Triều Tiên từ 1950–1951. MacArthur bị Tổng thống Harry Truman cắt chức tư lệnh tháng 4 năm 1951 vì không nghe lời thượng cấp liên quan đến việc ông không tuân theo các chỉ thị của tổng thống.

Ông được biết đến với câu nói quân sự nổi tiếng: “In war, there is no substitute for victory” (Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng). MacArthur đã chiến đấu trong 3 cuộc chiến lớn (Đệ nhất Thế chiến, Đệ nhị Thế chiến và Chiến tranh Triều Tiên) và là một trong 5 người được phong quân hàm Thống tướng (General of the Army).

(Nguyễn Mai Anh Kiệt giới thiệu và bình)

Tướng Douglas MacArthur biện hộ
Cách lãnh đạo chiến tranh của ông trong cuộc chiến Triều Tiên
19 tháng 4, 1951

Thưa Tổng thống, Chủ tịch Hạ viện và các Nghị Sĩ đại diện trong Quốc hội:

Tôi đứng trên bục đài này với một cảm giác vô cùng khiêm nhường và với niềm tự hào to lớn – khiêm nhường dưới bóng những kiến trúc sư vĩ đại trong lịch sử của chúng ta đã đứng đây trước tôi, tự hào trong suy niệm rằng đây là tòa nhà thảo luận lập pháp đại diện cho quyền tự do của loài người trong hình thức tinh khiết nhất đã từng được sáng tạo.

Đây là nơi hy vọng và ước vọng và đức tin của toàn bộ loài người quy tụ.

Tôi không đứng đây như là người biện hộ cho mục đích đảng phái nào, bởi vì các vấn đề [của chúng ta] rất cơ bản và hoàn toàn vượt ra ngoài lĩnh vực cân nhắc đảng phái. Chúng phải được giải quyết với mức độ tối cao của lợi ích quốc gia nếu ta muốn chứng minh rằng chúng ta đang đi đúng hướng, đồng thời bảo vệ tương lai của chúng ta.

Do đó, tôi tin tưởng, rằng các bạn sẽ công bình chấp nhận lời tôi nói là chỉ thể hiện quan điểm của một đồng bào Mỹ.

Tôi nói với các bạn, không hận thù cũng như không cay đắng vào lúc hoàng hôn xế bóng của cuộc đời, với một mục đích trong tâm: để phục vụ đất nước tôi.

Các vấn đề [của chúng ta] là toàn cầu, và liên kết rất chặt chẽ với nhau, nên quan tâm đến vấn đề của một lãnh vực mà không hề biết đến vấn đề của các lãnh vực khác là mời mọc thảm họa cho toàn bộ. Trong khi châu Á thường được cho là cửa ngõ vào châu Âu, sự thật không kém thật một chút nào là châu Âu cũng là cửa ngõ đến châu Á, và ảnh hưởng rộng lớn của nơi này không thể không có tác động đến nơi kia.

Có những người cho rằng chúng ta không có đủ sức mạnh để bảo vệ cả hai mặt trận, rằng chúng ta không thể phân chia nỗ lực của chúng ta. Tôi không thể nghĩ có biểu hiện nào của bại chiến luận to tát hơn thế.

Nếu một kẻ thù nào đó có thể phân chia sức mạnh của hắn trên hai mặt trận, chúng ta phải chống lại những nỗ lực. Mối đe dọa Cộng sản là mối đe dọa toàn cầu. Sự bành trướng thành công của Cộng sản trong một lĩnh vực đe dọa sự hủy hoại của tất cả các lĩnh vực khác. Bạn không thể nhân nhượng hay nói cách khác là đầu hàng Cộng sản ở châu Á mà không đồng thời làm suy yếu những nỗ lực của chúng ta để ngăn chặn sự bành trướng của Cộng sản ở châu Âu.

Ngoài việc chỉ ra những lẽ thật phổ thông này tôi sẽ giới hạn thảo luận của tôi đến các khu vực chung của châu Á …

Trong khi tôi không được tham khảo ý kiến trước về quyết định của Tổng thống can thiệp để ủng hộ Cộng hòa Hàn quốc, quyết định đó, từ quan điểm quân sự, được chứng minh là đúng đắn. Như tôi nói, quyết định đó đã được chứng minh là đúng đắn, khi chúng ta đẩy lui kẻ xâm lược và làm tiêu hao quân đội của hắn. Chiến thắng của chúng ta đã hoàn tất, và mục tiêu của chúng ta nằm trong tầm tay, khi Trung Quốc Đỏ can thiệp với lực lượng bộ binh hùng hậu đông đảo hơn chúng ta.

Điều này tạo ra một cuộc chiến mới và một tình hình hoàn toàn mới, một tình huống chúng ta không dự tính khi các lực lượng của chúng ta được đưa vào chống lại quân xâm lược Bắc Triều Tiên; tình hình kêu gọi các quyết định mới trong lĩnh vực ngoại giao để cho phép các điều chỉnh thực tế về chiến lược quân sự. Những quyết định như vậy vẫn chưa có.

Trong khi không có ai tỉnh táo lại ủng hộ việc gửi các lực lượng bộ binh của chúng ta vào lục địa Trung Quốc, và không ai từng nghĩ đến việc đưa quân như vậy, tình hình mới đã cấp bách đòi hỏi một sửa đổi lớn trong kế hoạch chiến lược nếu mục đích chính trị của chúng ta là để đánh bại kẻ thù mới này như chúng ta đã đánh bại kẻ thù cũ.

Ngoài các nhu cầu quân sự, như tôi đã nhìn thấy, để vô hiệu hóa vùng bảo dưỡng của kẻ thù ở phía bắc sông Áp Lục, tôi thấy rằng nhu cầu quân sự trong cuộc chiến đòi hỏi –

(1) Tăng cường phong tỏa kinh tế Trung Quốc.

(2) Áp dụng phong tỏa hải quân tại bờ biển Trung Quốc.

(3) Loại bỏ các hạn chế về máy bay trinh sát vùng duyên hải Trung quốc và Mãn Châu.

(4) Loại bỏ các hạn chế đối với các lực lượng của nước Cộng Hòa Trung Hoa ở Đài Loan, với hỗ trợ hậu cần để đóng góp vào những hoạt động hiệu quả chống lại Trung Quốc đại lục.

Vì có những quan điểm, những quan điểm đã được hoạch định chuyên nghiệp để hỗ trợ các lực lượng mà chúng ta đã đưa vào Hàn Quốc và chấm dứt chiến tranh với ít trì hoãn nhất và bảo vệ vô số mạng sống của Mỹ và đồng minh, tôi đã bị chỉ trích kịch liệt bởi các nhóm dân sự, chủ yếu là ở nước ngoài, bất kể sự hiểu biết của tôi là, theo quan điểm quân sự, những quan điểm trên [của tôi] đã được hoàn toàn chia sẻ trong quá khứ bởi hầu hết tất cả các nhà lãnh đạo quân sự quan tâm tới chiến trường Hàn Quốc, bao gồm ngay cả Bộ trưởng Tham mưu của chúng ta.

Tôi đã kêu gọi quân tiếp viện, nhưng được thông báo rằng không có quân tiếp viện không. Tôi đã nói rõ là nếu không được phép để tiêu diệt các căn cứ dồn quân của kẻ thù ở phía bắc của sông Áp Lục, nếu không được phép sử dụng các lực lượng Trung Quốc thân thiện gồm khoảng 600.000 người trên đảo Đài Loan, nếu không được phép phong tỏa bờ biển Trung Quốc để ngăn chặn Trung Quốc Đỏ nhận viện trợ bên ngoài, và nếu không có hy vọng có nhiều quân tiếp viện, trên quan điểm quân sự, vị trí lãnh đạo như vậy ngăn cấm sự chiến thắng.

Chúng ta có thể cầm quân ở Hàn Quốc bằng cách vận hành liên tục và ở tại khu vực mà lợi thế tiếp liệu của ta thì bằng bất lợi thế tiếp liệu của kẻ thù, nhưng cùng lắm là chúng ta chỉ có thể hy vọng cho một chiến dịch thiếu quyết đoán với sự hao mòn khủng khiếp và thường trực áp đặt lên lực lượng của chúng ta nếu kẻ thù sử dụng tất cả khả năng quân sự của hắn.

Tôi đã liên tục kêu gọi cho các quyết định chính trị mới cần thiết cho một giải pháp.

Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để làm bóp méo quan điểm của tôi. Đến mức có người đã nói tôi là một kẻ mê chiến tranh. Không gì có thể khác xa sự thật hơn vậy.

Tôi biết chiến tranh như chỉ môt ít người hiện còn sống biết chiến tranh, và đối với tôi không có gì đáng ghê tởm hơn chiến tranh. Từ lâu tôi đã hoàn toàn ủng hộ việc bãi bỏ chiến tranh, vì chiến tranh hủy diệt cả hai, bạn và thù, khiến chiến tranh trở thành vô dụng như một phương tiện để dàn xếp những tranh chấp quốc tế.

Thật vậy, vào ngày 2 tháng Chín, năm 1945, ngay sau khi quốc gia Nhật Bản đầu hàng ở trên chiến hạm Missouri, tôi đã chính thức cảnh báo như sau:

“Loài người kể từ thời khởi thủy đã tìm kiếm hòa bình. Nhiều phương pháp khác nhau qua nhiều thời đại đã được thử để đưa ra một quá trình quốc tế để ngăn chặn hoặc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Ngay từ khi bắt đầu cho đến nay, những phương pháp khả thi đã được tìm thấy là dành cho cá nhân các công dân, nhưng cơ chế của một công cụ hữu hiệu lớn hơn trên phạm vi quốc tế chưa bao giờ thành công.”

“Liên minh quân sự, cân bằng quyền lực, các liên đoàn quốc gia, tất cả đều lần lượt thất bại, để lại con đường duy nhất là con đường thử thách của chiến tranh. Giờ đây, sự hủy diệt hoàn toàn của chiến tranh ngăn chặn sự lựa chọn này. Chúng ta đã có cơ hội cuối cùng. Nếu chúng ta không lập ra một hệ thống lớn hơn và công bằng hơn, Trận Chiến Hủy Diệt Cuối Cùng sẽ có mặt ngay ngưỡng cửa của chúng ta. Vấn đề cơ bản là thần học và liên quan đến sự hoạt động tâm linh, một sự cải tiến nhân tính đi đồng bộ với sự tiến bộ gần như không thể bì kịp trong khoa học, nghệ thuật, văn học, và tất cả các phát triển vật chất và văn hóa của 2000 năm qua. Phải là phần hồn, nếu chúng ta muốn cứu rỗi phần xác.”

Nhưng một khi chiến tranh đã bị áp đặt lên chúng ta, không có sự chọn lựa nào hơn là áp dụng mọi phương tiện sẵn có để chấm dứt chiến tranh nhanh chóng. Đối tượng chính của chiến tranh là chiến thắng, không phải là sự kéo dài do dự.

Trong chiến tranh không có gì để thay thế chiến thắng.

Có một số người vì những lý do khác nhau sẽ làm hài lòng Trung Quốc Đỏ. Họ mù lòa trong bài học rõ ràng của lịch sử, lịch sử dạy với sự nhấn mạnh không thể nhầm lẫn rằng nhượng bộ chỉ lại sinh ra chiến tranh mới và đổ máu nhiều hơn. Không có trường hợp nào trong lịch sử mà mục đích này biện minh cho phương tiện đó, mà nhượng bộ đã dẫn đến cái gì hơn là một hòa bình giả tạo.

Giống như tống tiền, nó đặt cơ sở cho đòi hỏi mới và liên tục gia tăng cho đến khi, như trong tống tiền, bạo lực trở thành một lựa chọn duy nhất. Tại sao, những người lính của tôi đã hỏi, hiến dâng những lợi thế quân sự cho kẻ thù trên chiến trường? Tôi không thể trả lời.

Vài người có thể nói để tránh sự lây lan xung đột vào một cuộc chiến toàn diện với Trung Quốc. Những người khác, để tránh sự can thiệp của Liên Xô. Cả hai giải thích đều dường như không hợp lý, vì Trung Quốc đã ứng chiến vào với lực lượng tối đa nhất mà Trung Quốc có thể sử dụng, và Liên Xô sẽ không nhất thiết phải xía vào đường đi của chúng ta. Giống như rắn hổ mang, một kẻ thù mới nào cũng thích tấn công nơi nào nó có thuận lợi hơn về quân sự hay về tiềm lực nào đó trên bình diện quốc tế.

Thảm kịch của Hàn Quốc tiếp tục gia tăng bởi thực tế rằng hoạt động quân sự của Hàn Quốc bị giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Hàn Quốc. Điều đó đã kết án Hàn quốc, mà chúng ta muốn cứu, kết án Hàn quốc phải chịu đựng toàn bộ những tác động tàn phá của bom đạn của hải quân và không quân, trong khi các khu vùng bão dưỡng của đối phương hoàn toàn được bảo vệ để khỏi bị tấn công và tàn phá như vậy.

Trong số các quốc gia trên thế giới cho đến nay, chỉ Hàn Quốc là nước duy nhất liều lĩnh tất cả để chống lại chủ nghĩa cộng sản. Sự vĩ đại của lòng can đảm và ý chí dũng cảm của người dân Hàn Quốc thật là không thể diễn tả được. Họ đã chọn liều mạng sống chứ không chọn chế độ nô lệ. Lời cuối cùng của họ với tôi: “Xin đừng vội vã rời bỏ Thái Bình Dương.”

Tôi mới rời những người con chiến đấu của các bạn tại Hàn Quốc. Họ đã vượt qua tất cả những thử thách, và tôi có thể báo cho bạn biết mà không cần do dự rằng họ rất tuyệt vời trên mọi phương diện.

Đây là nỗ lực liên tục của tôi để bảo vệ những người lính này và kết thúc cuộc xung đột dã man này một cách vinh dự trong thời gian ngắn nhất và với sự hy sinh mạng sống ít nhất. Sự đổ máu càng ngày càng gia tăng làm cho tôi vô cùng đau khổ và lo lắng. Những người hào hiệp này sẽ vẫn thường ở trong ý nghĩ của tôi và luôn luôn trong lời cầu nguyện của tôi.

Tôi đang khép lại 52 năm nghĩa vụ quân sự. Khi tôi gia nhập quân đội, ngay cả trước khi bước sang thế kỷ này, là để thực hiện tất cả những hy vọng và ước mơ nam nhi của tôi.

Thế giới đã biến chuyển nhiều lần từ khi tôi tuyên thệ nhậm chức trên đồng bằng West Point, và những hy vọng và ước mơ từ lâu đã biến mất, nhưng tôi vẫn nhớ điệp khúc của một trong những bản ballad trong trại binh phổ biến nhất của ngày đó với lời tuyên bố rất hào hùng rằng những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ dần dần tan biến.

Và cũng giống như người lính già của bản ballad đó, giờ đây tôi khép lại cuộc đời binh nghiệp của tôi và chỉ dần dần tan biến. Một người lính già đã cố gắng làm nhiệm vụ của mình như Chúa đã ban cho người ấy ánh sáng để thấy nhiệm vụ đó. Xin tạm biệt.

(Diệu Sương dịch)

General Douglas MacArthur Defends
His Conduct of the War in Korea
April 19, 1951

“Old soldiers never die; they just fade away.”

General Douglas MacArthur’s speech before the joint session of Congress on April 19, 1951, after his abrupt dismissal as Commander in Chief of the United Nations forces in Korea, provoked a nation-wide controversy that recalled the fury over the Kansas-Nebraska Act of 1854.

The son of the distinguished army officer Arthur MacArthur, Douglas MacArthur (1880-1964) was born in Little Rock, Arkansas, was brought up in various army posts, and was graduated from West Point at the head of his class in 1903. He served in the Philippines and Japan, and in the first World War achieved a notable record as Chief of Staff of the famous Rainbow Division and later as Commander of the 84th Infantry Brigade. After the war he was Superintendent of West Point (1919-22), Commander in the Philippines (1922-25), and Chief of Staff (1930-35), during which time he had the unpleasant task of directing troops against the depression “bonus army” that marched against Washington. He went again to the Philippines in 1935 to organize the islands against possible Japanese aggression. He retired from the army in 1939, but returned to duty in July, 1941, barely in time to head the defense of the Philippines after the attack on Pearl Harbor. On order from President Roosevelt, General MacArthur escaped to Australia, there to take command of the Allied forces in the South Pacific and to begin the long road back to Manila – and to Tokyo. At the time of the Japanese surrender on the U.S.S. Missouri General MacArthur broadcast to the world a plea for peace in a high, sonorous vein.

After the Japanese surrender he became Supreme Commander of the Allied forces in Japan and, on South Korea’s being invaded, Commander of the United Nations forces there. He was relieved of both commands on April 11, 1951, when it was feared his strategy would lead to general war with China and the Soviet Union. He immediately flew back to the United States, made a triumphant trip across the country, reminiscent of the triumph of a returning Roman general, and accepted the invitation to speak before both Houses of Congress – an unheard-of procedure in American history.

April 19, 1951

Mr. President, Mr. Speaker and distinguished members of the Congress:

I stand on this rostrum with a sense of deep humility and great pride – humility in the wake of those great architects of our history who have stood here before me, pride in the reflection that this home of legislative debate represents human liberty in the purest form yet devised.

Here are centered the hopes and aspirations and faith of the entire human race.

I do not stand here as advocate for any partisan cause, for the issues are fundamental and reach quite beyond the realm of partisan considerations. They must be resolved on the highest plane of national interest if our course is to prove sound and our future protected.

I trust, therefore, that you will do me the justice of receiving that which I have to say as solely expressing the considered viewpoint of a fellow American.

I address you with neither rancor nor bitterness in the fading twilight of life, with but one purpose in mind: to serve my country.

The issues are global, and so interlocked that to consider the problems of one sector oblivious to those of another is to court disaster for the whole. While Asia is commonly referred to as the gateway to Europe, it is no less true that Europe is the gateway to Asia, and the broad influence of the one cannot fail to have its impact upon the other.

There are those who claim our strength is inadequate to protect on both fronts, that we cannot divide our effort. I can think of no greater expression of defeatism.

If a potential enemy can divide his strength on two fronts, it is for us to counter his efforts. The Communist threat is a global one. Its successful advance in one sector threatens the destruction of every other sector. You cannot appease or otherwise surrender to communism in Asia without simultaneously undermining our efforts to halt its advance in Europe.

Beyond pointing out these general truisms, I shall confine my discussion to the general areas of Asia…

While I was not consulted prior to the President’s decision to intervene in support of the Republic of Korea, that decision, from a military standpoint, proved a sound one. As I say, it proved a sound one, as we hurled back the invader and decimated his forces. Our victory was complete, and our objectives within reach, when Red China intervened with numerically superior ground forces.

This created a new war and an entirely new situation, a situation not contemplated when our forces were committed against the North Korean invaders; a situation which called for new decisions in the diplomatic sphere to permit the realistic adjustment of military strategy. Such decisions have not been forthcoming.

While no man in his right mind would advocate sending our ground forces into continental China, and such was never given a thought, the new situation did urgently demand a drastic revision of strategic planning if our political aim was to defeat this new enemy as we had defeated the old.

Apart from the military need, as I saw it, to neutralize the sanctuary protection given the enemy north of the Yalu, I felt that military necessity in the conduct of the war made necessary –

(1) The intensification of our economic blockade against China.

(2) The imposition of a naval blockade against the China coast.

(3) Removal of restrictions on air reconnaissance of China’s coastal area and of Manchuria.

(4) Removal of restrictions on the forces of the republic of China on Formosa, with logistical support to contribute to their effective operations against the Chinese mainland.

For entertaining these views, all professionally designed to support our forces committed to Korea and to bring hostilities to an end with the least possible delay and at a saving of countless American and Allied lives, I have been severely criticized in lay circles, principally abroad, despite my understanding that from a military standpoint the above views have been fully shared in the past by practically every military leader concerned with the Korean campaign, including our own Joint Chiefs of Staff.

I called for reinforcements, but was informed that reinforcements were not available. I made clear that if not permitted to destroy the enemy built-up bases north of the Yalu, if not permitted to utilize the friendly Chinese force of some six hundred thousand men on Formosa, if not permitted to blockade the China coast to prevent the Chinese Reds from getting succor from without, and if there were to be no hope of major reinforcements, the position of the command from the military standpoint forbade victory.

We could hold in Korea by constant maneuver and at an approximate area where our supply-line advantages were in balance with the supply-line disadvantages of the enemy, but we could hope at best for only an indecisive campaign with its terrible and constant attrition upon our forces if the enemy utilized his full military potential.

I have constantly called for the new political decisions essential to a solution.

Efforts have been made to distort my position. It has been said in effect that I was a warmonger. Nothing could be further from the truth.

I know war as few other men now living know it, and nothing to me is more revolting. I have long advocated its complete abolition, as its very destructiveness on both friend and foe has rendered it useless as a means of settling international disputes.
Indeed, on the second day of September, 1945, just following the surrender of the Japanese nation on the battleship Missouri, I formally cautioned as follows:

“Men since the beginning of time have sought peace. Various methods through the ages have been attempted to devise an international process to prevent or settle disputes between nations. From the very start workable methods were found in so far as individual citizens were concerned, but the mechanics of an instrumentality of larger international scope have never been successful.

“Military alliances, balances of power, leagues of nations, all in turn failed, leaving the only path to be by way of the crucible of war. The utter destructiveness of war now blocks out this alternative. We have had our last chance. If we will not devise some greater and more equitable system, our Armageddon will be at our door.
The problem basically is theological and involves a spiritual recrudescence, an improvement of human character that will synchronize with our almost matchless advances in science, art, literature, and all material and cultural developments of the past two thousand years. It must be of the spirit if we are to save the flesh.”

But once war is forced upon us, there is no other alternative than to apply every available means to bring it to a swift end. War’s very object is victory, not prolonged indecision.

In war there is no substitute for victory.

There are some who for varying reasons would appease Red China. They are blind to history’s clear lesson, for history teaches with unmistakable emphasis that appeasement but begets new and bloodier war. It points to no single instance where this end has justified that means, where appeasement had led to more than a sham peace.

Like blackmail, it lays the basis for new and successively greater demands until, as in blackmail, violence becomes the only alternative. Why, my soldiers asked of me, surrender military advantages to an enemy in the field? I could not answer.

Some may say to avoid spread of the conflict into an all-out war with China. Others, to avoid Soviet intervention. Neither explanation seems valid, for China is already engaging with the maximum power it can commit, and the Soviet will not necessarily mesh its actions with our moves. Like a cobra, any new enemy will more likely strike whenever it feels that the relativity in military or other potential is in its favor on a worldwide basis.

The tragedy of Korea is further heightened by the fact that its military action is confined to its territorial limits. It condemns that nation, which it is our purpose to save, to suffer the devastating impact of full naval and air bombardment while the enemýs sanctuaries are fully protected from such attack and devastation.

Of the nations of the world, Korea alone, up to now, is the sole one which has risked its all against communism. The magnificence of the courage and fortitude of the Korean people defies description. They have chosen to risk death rather than slavery. Their last words to me were: “Don’t scuttle the Pacific.”

I have just left your fighting sons in Korea. They have met all tests there, and I can report to you without reservation that they are splendid in every way.

It was my constant effort to preserve them and end this savage conflict honorably and with the least loss of time and a minimum sacrifice of life. Its growing bloodshed has caused me the deepest anguish and anxiety. Those gallant men will remain often in my thoughts and in my prayers always.

I am closing my fifty-two years of military service. When I joined the army, even before the turn of the century, it was the fulfillment of all my boyish hopes and dreams.

The world has turned over many times since I took the oath on the plain at West Point, and the hopes and dreams have long since vanished, but I still remember the refrain of one of the most popular barracks ballads of that day which proclaimed most proudly that old soldiers never die; they just fade away.

And like the old soldier of that ballad, I now close my military career and just fade away, an old soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty. Good-bye.

http://www.rjgeib.com/thoughts/war/douglas-macarthur-farewell.html

Nguồn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét