LỜI THƯA: |
Trần Thị Huyền Trang Giữa lòng Việt Nam có một vùng đất mang tên Bình Định. Từ trong thế núi hình sông, dường như trời đất hữu tình muốn dành cho Bình Định một dấu ấn riêng, nên sắp bày thiên nhiên vô cùng ngoạn mục: Từ đỉnh đèo An Khê nhìn xuống, núi tiếp núi trong một trận đồ hùng vĩ, dòng sông Kôn dựng bao ghềnh thác thượng nguồn, bồi đắp vỗ về bao làng mạc trước khi hòa vào biển cả. Sông và núi vững bền mang trong nó bao trầm tích lịch sử và văn hóa: Bình Định đất thơ, đất tuồng, đất võ. Không thể nói rõ rằng màu áo đỏ Tây Sơn hay gương mặt cô gái Bình Định bí ẩn chập chờn sau đường roi xé gió đã trở thành lời mời gọi lạ lùng, quấn quýt bao trái tim người. Về với những làng xóm hiền hòa để đọc lại trong từng vầng trán, từng ánh mắt, từng dáng đi của người Bình Định chất võ lắng sâu, chúng tôi may mắn tiếp nhận sự truyền thuật của các võ sư tiền bối mà tên tuổi được giới võ học đương thời nhắc đến với niềm ngưỡng vọng như Lê Thành Phiên, Hà Trọng Sơn, Lâm Ngọc Phú, Phan Thọ, Hồ Sừng, Hàm Hữu Nghĩa, Phi Long Vịnh, Lý Xuân Hỷ, Trần Dần... cùng sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình của các võ sư Hồ Cương, Phan Sơn, Phan Đức, Huỳnh Ngọc Sương và các thế hệ võ sinh đã và đang được đào tạo từ hai dòng võ Thuận Truyền, An Vinh huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định. Cuối năm 2005, lão võ sư Lê Thành Phiên từ giã cõi đời ở tuổi 89 và đầu năm 2006, võ sư Hồ Cương cũng qua đời vì trọng bệnh. Sự ra đi của họ dù là quy luật tự nhiên, vẫn khiến chúng tôi ý thức rõ thêm về sự “chạy đua” với thời gian để lưu giữ những giá trị một đi không trở lại. Còn rất nhiều làng võ và chân dung võ sư Bình Định ẩn sau tre trúc. Những người hữu tâm với võ Bình Định hẳn đều cảm nhận lời giục giã âm thầm và khẩn thiết ấy. May mà đã kịp ghi lại chút gì về họ, trong không gian của các làng võ, những gương mặt, những giọng kể, những đường quyền... Đối với tôi, các cuộc gặp gỡ, giao lưu này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với thành công của đề tài mà còn mang ý nghĩa tri âm hạnh ngộ. Bước đầu tìm hiểu về võ cổ truyền, mà trọng tâm là các làng võ nổi tiếng ở Tây Sơn, một vùng đất được coi là tiêu điểm của đất võ Bình Định, tôi xin đặc biệt bày tỏ lời tri ân đến Ông NGUYỄN AN PHA - Phó Chủ tịch Liên đoàn Võ Bình Định, Cố võ sư LÊ THÀNH PHIÊN, võ sư PHAN THỌ, võ sư HỒ SỪNG - những người đã dành nhiều tâm huyết hướng dẫn và thẩm định chuyên môn cho loạt bài viết này. Hy vọng đây là bậc thềm đầu tiên để tiếp cận với kho tàng võ lâm Bình Định thấm đẫm chất bi hùng và lấp lánh màu huyền thoại. Tác giả |
Bài1: |
Hành trình nguồn cội |
1- Đôi nét về nguồn gốc của võ Bình Định Bình Định xưa thuộc đất Việt Thường Thị, sau đổi ra tên đất Lâm Ấp. Thời Chiêm Thành đây là châu Thi-bị. Học giả G.Maspéro cho rằng địa danh Thi-bị được dịch tắt chữ Cri –Vi(Jaya). Châu Vijaya có thành Đồ Bàn là kinh đô Chiêm Thành từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV. Năm 1470, vua Chiêm Trà Toàn đem quân đánh lấn vùng biên thuỳ phía Như vậy, Bình Định từng kinh qua vai trò của kinh đô của vương quốc Chiêm rồi mới trở thành vùng biên viễn Đại Việt. Sau khi người Chiêm dời vào Với đặc điểm lịch sử, địa lý và dân cư như vậy, đời sống của người Bình Định xưa đã diễn ra trong sự nâng đỡ đầy hào phóng và cả sự thử thách lớn lao của Đất Mới. Suốt một thời kỳ dài trong lịch sử, Bình Định là đất phên giậu, là chốn biên thùy phía Nam của Tổ quốc, một miền đất đầu sóng ngọn gió với vô vàn thử thách, hoang vu và bất trắc. Hiện thực ấy buộc những lớp cư dân Việt đầu tiên của Bình Định phải căng mình ra để tồn tại, hơn thế nữa, để xác lập tư thế chủ nhân, không chỉ là người chủ của số phận mình, mà còn là người chủ đất nước. Trong công cuộc khẩn hoang đối mặt với thiên nhiên và dã thú hay trong những cuộc chạm trán giữa các lực lượng đối kháng, giữa người lương thiện và kẻ cướp, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, võ đã hình thành. Tích hợp từ nhiều nguồn, võ Bình Định đã xác lập qua hàng trăm năm chọn lọc, lưu truyền, chảy trong dòng chảy của lịch sử và trở thành một trong những hệ giá trị đặc trưng cho vùng đất. 2- Một số võ nhân nổi tiếng vinh danh võ cổ truyền Bình Định qua các thời kỳ: Một nền võ học được xác lập không chỉ bằng hệ thống lý thuyết và các bộ môn, các chiêu thức thực hành, mà phải nói đến các võ nhân mà tên tuổi đã vượt khỏi đường viền của một tiểu vùng văn hoá, được giới võ học trong nước biết đến như những đại diện của võ cổ truyền Bình Định. Tương ứng với các thời kỳ lịch sử là các giai đoạn phát triển của võ Bình Định. Chúng tôi tạm chia: Thời kỳ trước Tây Sơn, thời kỳ Tây Sơn, thời kỳ nhà Nguyễn, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thời kỳ sau 1975 đến nay. 2.1- Thời kỳ trước Tây Sơn: Giai đoạn từ 1471 đến 1558 (thế kỷ XV-XVI): nơi đây có nhiều võ tướng được triều đình cử đến trấn nhậm, nhưng không thấy sử sách lưu danh. Năm 1558, Nguyễn Hoàng theo lời sấm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng Trình vào Nam, bắt đầu thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Các chúa Nguyễn rất chăm lo chính sự, thu phục nhân tâm, củng cố binh lực tạo thế đối đầu với chúa Trịnh nên nhiều nhân tài văn võ có cơ hội cống hiến. Đất Việt mở rộng dần về phương Sang thế kỷ XVII, sự phân hoá mạnh mẽ trong xã hội phong kiến phân quyền cùng với chiến tranh liên miên đã dẫn đến tình trạng ngân khố suy cạn, sản xuất đình đốn. Một số quan trên vơ vét bóc lột, nhân dân đói rách lầm than. Giặc giã, trộm cướp nổi lên khắp nơi. Cuộc khởi nghĩa nông dân do Chàng Lía lãnh đạo là một trong các cuộc nổi dậy sớm nhất của nhân dân chống áp bức bóc lột trong lịch sử nước ta. Chàng Lía tên thật là Võ Văn Doan, quê ở huyện Phù Ly: “ Có người ở phủ Quy Nhơn, ở Phù Ly huyện gần miền Bích Khê” (Vè Chàng Lía). Cha mất sớm, mẹ đưa Lía về quê ngoại ở làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn- tức thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn bây giờ. Dưới con mắt của triều đình phong kiến, cuộc nổi dậy này bị coi là “giặc”, và nghĩa quân bị coi là một đám cướp. Nhưng trong thực tế, Lía và những người cộng sự của ông đã hoạt động với tinh thần hiệp sĩ: chỉ tấn công và trừng trị những quan tham và nhà giàu độc ác sách nhiễu dân chúng, thực hiện phương châm “Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Vì vậy, dân nghèo, đặc biệt là nông dân, theo Lía rất đông. Bằng võ công thượng thặng, Lía đã thu phục được đảng trưởng đảng cướp Truông Mây là Cha Hồ, Chú Nhẫn. Nghĩa quân của Lía ngoài căn cứ ở Bá Bích (Tây Sơn), có thêm căn cứ Truông Mây (Hoài Ân), mở mang thanh thế, làm chủ một vùng rừng núi liên mảng phía tây phủ Quy Nhơn, khiến cho bọn tham ô lại phấp phỏng, quân triều đình ăn không ngon ngủ không yên. - Giai đoạn chuẩn bị cho phong trào Tây Sơn (Đầu thế kỷ XVIII): Chính quyền phong kiến càng lúc càng bộc lộ sự thối nát. Ở Đàng Ngoài chúa Trịnh lấn hiếp vua Lê, ăn chơi xa xỉ. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng, chính sự tan nát. Trung thần bị bức hại, liên lụy người thân. Dân tình khổ sở, lòng người ly tán. Một vài người mẫn cảm với thời cuộc đã tiên đoán và kỳ vọng về một cuộc thay đổi long trời lở đất. Họ không quay lưng che mặt mà tích cực nhập thế, đem hết tâm huyết đào tạo nhân tài cho vận hội mới, được người đời xưng tụng là Tây Sơn tứ danh sư: Đinh Văn Nhưng, Diệp Đình Tòng, Trương Văn Hiến, Trần Kim Hùng. Tổ tiên Đinh Văn Nhưng người miền ngoài, từng theo vua Lê cầm quân trấn giữ phương Nam, khi cáo lão bèn đưa gia quyến vào đây khai khẩn đất hoang, ruộng đất của cải nhiều vô kể, nhưng không rõ uẩn khúc gì, lập lời nguyền không cho con cháu bước chân vào chốn quan trường. Buổi đầu Hồ Phi Tiễn- nội tổ của Tây Sơn tam kiệt- từ Nghệ An vào Quy Nhơn lập nghiệp, đã nhận được sự giúp đỡ của họ Đinh. Đinh Văn Nhưng là thầy dạy võ đầu tiên của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tây Sơn tam kiệt dựng cờ khởi nghĩa, ông đem rất nhiều thóc lúa, tiền bạc và cả trường ngựa Bằng Châu hiến tặng. Diệp Đình Tòng nguyên là một võ quan triều Lê, chán cảnh chúa Trịnh lấn bức vua Lê, giũ áo từ quan, vân du qua nhiều ngọn núi. Về già ông trú ngụ vùng núi thượng nguồn sông Kim Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, thu nhận Trần Quang Diệu làm đồ đệ, truyền dạy võ nghệ, sở trường môn đại đao. Trương Văn Hiến, quê ở Hoan châu (Nghệ An), là em họ quan đại thần Trương Văn Hạnh- một trung thần chống đối Trương Phúc Loan, bị tên này bắt giết cả nhà. Trương Văn Hiến phải cải trang đi trốn. Trên đường lưu lạc, ông đã chọn đất An Thái làm nơi dừng chân và mở trường đào tạo cả văn lẫn võ. Học trò ông là những người xuất chúng, hoặc trở thành lãnh tụ hoặc trở thành danh tướng, danh sĩ Tây Sơn: Tây Sơn tam kiệt Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ, Đại tư đồ Võ Văn Dũng, Đại đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Phan Văn Lân, Phò mã Trương Văn Đa, anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh quê Quảng Ngãi (tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký) , Huỳnh Văn Thuận quê Mộ Đức (tác giả bộ Binh pháp Tây Sơn) … Võ sư Trần Kim Hùng, võ nghệ tuyệt luân, về già lập gánh mãi võ để tìm hiền đồ. Trước khi gặp ông, Nguyễn Văn Tuyết là một tay anh chị hoạt động ở chợ Gò Chàm. Ông đã cứu vớt Nguyễn Văn Tuyết khỏi cuộc sống bụi lầm vô lại, đào tạo Nguyễn thành một trang võ hiệp. Nguyễn Văn Tuyết sau theo giúp Nguyễn Huệ, thành đại đô đốc Tây Sơn, có công đại phá quân Thanh. Ngoài ra còn có thể kể hai thầy học của nữ tướng Bùi Thị Xuân: Một là Ngô Mãnh người Thanh Hoá, nguyên Đô thống triều Lê, biết chúa Trịnh ghét và có ý muốn trừ mình, bèn mang theo cháu trai là Ngô Văn Sở vượt biển vào Nam. Trong những ngày du thực lang thang hai ông cháu được Bùi Công (cha Bùi Thị Xuân) ở Tây Sơn cho tá túc. Cảm ơn tri ngộ, Ngô Mãnh đem hết sở học truyền dạy cho Bùi Thị Xuân. Hai là một bà lão họ Nguyễn ở An Vinh, đêm đêm đến dạy nữ tướng Bùi Thị Xuân luyện kiếm. 2.2- Thời kỳ Tây Sơn: Dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Tây Sơn tam kiệt - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, là sự quần tụ của những anh tài võ học gánh vác sứ mệnh cứu nước, được người đời tôn vinh bằng các danh xưng: Tây Sơn thất hổ tướng, Tây Sơn lương tướng, Tây Sơn ngũ phụng thư. - Tây Sơn thất hổ tướng: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc. - Tây Sơn lương tướng: Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở, Nguyễn Quang Thuỳ, Trương Văn Đa, Phan Văn Lân, tù trưởng Bok Kiơm, Cô Hầu (vợ Nguyễn Nhạc), Nguyễn Bảo, Lê Trung, Nhưng Huy, Tư Linh, Phạm Cần Chính… - Tây Sơn ngũ phụng thư: Bùi Thị Xuân, Huỳnh Thị Cúc, Trần Thị Lan, Bùi Thị Nhạn, Nguyễn Thị Dung. Thiết tưởng cũng cần nói thêm rằng thời bấy giờ, Nguyễn Ánh trong thế đối kháng với Nhà Tây Sơn, cũng đã chiêu tập một số anh tài trong làng võ Bình Định như Châu Văn Tiếp, Phạm Văn Sĩ, Lê Chất... Và họ cũng trở thành các tướng lĩnh rường cột của Nhà Nguyễn. Thời kỳ Tây Sơn võ thuật đạt đến cao trào trong ý nghĩa quật cường và chính khí của một phong trào lịch sử bão táp, thực hiện sứ mệnh cứu dân cứu nước. Sự xuất hiện của hàng loạt võ nhân xuất sắc ở cương vị tướng lĩnh lãnh đạo nghĩa quân Tây Sơn lập nên những chiến công vang dội, lật đổ các tập đoàn phong kiến thối nát Trịnh - Nguyễn, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, 29 vạn quân Thanh. Tên tuổi các võ nhân anh hùng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn mà tiêu biểu là vị anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ đã đi vào lịch sử. Nội hàm mấy chữ võ Tây Sơn không khép kín như một địa danh cụ thể mà được hiểu là võ thuật của một vùng đất, một phong trào vĩ đại, một triều đại huy hoàng trong lịch sử Việt 2.3- Thời kỳ nhà Nguyễn: Giai đoạn đầu, các đời vua Gia Long, Minh Mạng chủ trương tận diệt Nhà Tây Sơn và trấn áp các phong trào yêu nước liên quan đến Tây Sơn, do đó võ thuật ở Bình Định nói chung và ở đất Tây Sơn nói riêng bị bóp nghẹt. Những người liên quan đến vua tôi, tướng lĩnh, nghĩa quân Tây Sơn đều bị bắt giết theo nghĩa “làm cỏ”. Sử sách Tây Sơn, trong đó bao gồm nhiều pho võ kinh, võ lý bị đốt sạch. Ngục văn tự đè nặng hàng mấy chục năm ròng. Nhưng trong lòng người Bình Định nói chung, người Tây Sơn nói riêng, ánh hào quang rực rỡ của một triều đại anh hùng vẫn không tắt. Đại tư đồ Võ Văn Dũng sau khi vượt ngục đã tìm hai con trai nhỏ của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Đẩu, đưa lên Tây Sơn thượng sống trong các buôn làng của đồng bào dân tộc, tập hợp lực lượng, truyền dạy võ nghệ với hy vọng khôi phục Nhà Tây Sơn. Quan quân triều Nguyễn dò biết nhưng lần nào đem quân truy bắt cũng đều bị thất bại. Chúng bèn dùng kế ly gián, cho bọn gian trà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân, tìm chỗ hở gây sự hiểu lầm sâu sắc giữa đồng bào với nghĩa quân. Một hôm Võ Văn Dũng có việc đi vắng, bọn gian thừa cơ bắt trói hai con trai Nguyễn Nhạc nộp cho quân Nguyễn. Nghĩa quân phần sợ Võ Văn Dũng về hỏi tội, phần lo quân Nguyễn tấn công, tự rã ngũ. Buồn vì mưu sự không thành, Võ Văn Dũng bỏ lên Núi Xanh biệt tích. Sự đỗ vỡ đau đớn này được người đời sau gói ghém trong mấy vần ca dao cổ: Củ lang Đồng Phó, Đỗ phộng Hà Nhung, Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi Chẳng qua duyên nợ sụt sùi Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi Chim kêu dưới suối Từ Bi Nghĩa nhân còn bỏ, tiếc chi cái gùi Không riêng gì Võ Văn Dũng, nhiều tướng sĩ Tây Sơn vẫn ôm lòng nhớ thời oanh liệt cũ, nhưng tự lượng không đủ sức để xoay chuyển thời cuộc, nên họ đành mai danh ẩn tích. Đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc tâm niệm đi theo cờ nghĩa Tây Sơn chính là để thực hiện sứ mệnh cứu nước, chứ không phải phục vụ mưu đồ thâu tóm thiên hạ cho một dòng họ, nay thời vận Nhà Tây Sơn đã hết, mọi cố gắng làm cho dài cơn binh lửa chỉ khiến nhân dân thêm khổ. Vì vậy hai ông đã từ chối lời mời hợp tác của Võ Văn Dũng. Có điều, làm thân hạc nội mây ngàn, nhưng khí tiết con nhà võ không hề mất. Và những thế võ huyền diệu mang linh khí Tây Sơn vẫn chập chờn trong trăng trong gió, trên đồi cuối vực. Những cuộc hạnh ngộ sư đệ và lưu truyền tâm pháp, võ thuật vẫn diễn ra khi thì bên khe núi vắng, khi thì dưới một mái hiên chiều hay một vườn chùa u tịch. Ở Bình Định trong những năm dài nặng nề u uẩn ấy, việc dạy võ và truyền khẩu quyết trong buồng kín là chuyện có thật. Võ Bình Định được lưu giữ bằng tim óc, bằng hồn vía, là ngọn lửa ngầm âm ỉ trong dân gian. Nhờ vậy mà đến giai đoạn sau, Bình Định vẫn có người thi đỗ tạo sĩ võ (tương đương tiến sĩ bên văn). Thời Cần Vương, có người mặc áo quan văn nhưng khi cần, thoắt một cái đã cầm lấy cung kiếm đao thương, giơ roi giục ngựa cứu nước hộ dân. Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Lê Thượng Nghĩa, Đặng Đề, Nguyễn Trọng Trì... là những trường hợp như vậy. Riêng Lê Thượng Nghĩa đã dẫn hàng trăm môn đồ của mình đầu quân dưới cờ Mai Xuân Thưởng. Hiện tượng một lò võ trở thành lực lượng nòng cốt của một phong trào như vậy không phải là hiếm ở Bình Định. Lãnh tụ của các phong trào yêu nước chống Pháp tại Bình Định, Phú Yên và một số tỉnh Nam Bộ cũng là các võ nhân quê Bình Định: Võ Trứ , Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương... Cuối thời Nguyễn, các võ nhân Bình Định xuất sắc còn lưu danh tiếng có thể kể: Phạm Văn Lý, Võ Văn Trừ, Lê Đình Lý, Trần Trực, Trần Tân, Trần Diệu ... Mỗi người, dù mặc áo vải hay áo giáp, đi giày cỏ hay giày da, đều thực hiện cái lý cao nhất của võ đạo là đánh giặc cứu nước cứu dân. 2.4- Thời kỳ cận – hiện đại: Đây là thời kỳ hưng thịnh trở lại của võ Bình Định, hình thành các dòng võ lớn nổi tiếng về đặc trưng chuyên môn riêng. Tiền đề của các dòng võ, phải kể đến các danh sư như Bầu Đê ở Tuy Phước chuyên đánh trường tiên (roi dài), Đội Sẻ ở An Thái nổi danh về quyền cước, Lê Thị Huỳnh Hà ở Tây Sơn sở trường roi Kinh. Cũng cần nói thêm rằng đây là thời kỳ gia tài võ thuật Bình Định không ngừng được bổ sung bởi các một số nhân vật từ phương xa vì một lý do nào đó đã chọn Bình Định làm chốn nương thân dưới lốt thương nhân, thầy đồ. Đó là trường hợp Khách Bút ở Kiểng Hàng - một người lầm lũi hiền lành nhưng đã từng khua đòn gánh, ném mâm đồng vượt vòng vây hàng trăm võ sĩ một cách ngoạn mục. Đó là Hồ Khiêm với đường roi Lạc côn danh bất hư truyền. Đó là trường hợp một người bạn của Hồ Đức Phổ vốn là tạo sĩ võ, tham gia phong trào Cần Vương, bị triều đình truy nã, đã tìm tới Thuận Truyền ẩn náu như môn khách của Hồ gia. Lịch sử với những khúc quanh bất ngờ và những cuộc hội ngộ kỳ lạ đã ban cho Bình Định những bậc chân tài võ học. Họ đã đem hết tâm huyết truyền nghề và đào tạo nên một lớp võ nhân xuất sắc: Lê Công Trì (tức Hương lễ Nghè), Ba Đề, Năm Nghĩa, Lâm Đình Thọ (tức Hương kiểm Lài), Đoàn Phong, Mười Kinh,Nguyễn Ngạc (tức Hương mục Ngạc) và Hồ Nhu (tức Chín Ngạnh). Trong thế hệ thứ hai này không thể không kể tới một võ nhân kiệt xuất nữa là Diệp Trường Phát (Tàu Sáu), người Việt gốc Hoa, được cha mẹ gửi về Trung Quốc học võ rồi mới về lại An Thái. Thế hệ thứ ba của thời kỳ này là những đại danh như Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác (tức Hương kiểm Cáo), Hương kiểm Mỹ, Hai Tửu, Mười Đậu, Bầu Năm, hương kiểm Cương, Xã Nung, Lê Bá Cừu, Lê Thành Phiên, Tạ Thức, Dư Trốn, Hồ Tiền,... Truyền thống võ học Bình Định tiếp tục được duy trì bởi các võ sư Phan Thọ, Văn Xuân Ngọc, Trần Dần của An Vinh; Sáu Được, Dương Công Đạo, Hồ Sừng, Phan Canh, Bộ Trọng, Mai Xuân Thiện của Thuận Truyền; Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh, Hàm Hữu Nghĩa của Tuy Phước; Lâm Đình Phú của An Thái, Lý Thành Nhân của Phương Danh (An Nhơn). Tiếp theo đó là Lý Xuân Hỷ, Đinh Văn Tuấn, Hồ Sơn Kỳ, Kim Dũng, Phan Sơn, Hồ Cương, Kim Thanh, Phan Trường Hận,... và miền đất võ vẫn còn là bệ phóng của muôn vàn người lớp sau. Tính từ 1471 đến nay, hơn năm thế kỷ trôi qua, giới võ học Bình Định đã lần lượt xuất hiện hàng vạn người làm vinh danh các làng võ cội nguồn bằng tấm lòng son sắt và chân tài thực học. Họ đi qua thế gian này, kẻ thoáng chốc, người lâu dài nhưng tiếng thơm còn lan truyền mãi. Cũng có thể hình dung nền võ học Bình Định là một cánh rừng nhiều thế hệ, mà võ nhân đông đúc tựa những lứa cây bám rễ vượt lên và toả bóng trên mặt đất. Cánh rừng – võ lâm Bình Định tàng ẩn trong nó trùng trùng huyền thoại. |
Bài 2: |
Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ góc độ văn hóa |
1- Võ cổ truyền là một loại hình văn hóa phi vật thể Bình Định là một vùng đất võ, đó là điều đã được thừa nhận rộng rãi. Nhưng võ là một cái gì đó vô hình. Thấy roi, xích, cung, tên, gươm, đao, giáo, mác, bảo đấy là võ ư? Không phải, đấy chỉ là binh khí, vũ khí, tức là khí cụ của võ. Nó là một số tín hiệu, phương tiện của nghề võ dưới dạng vật thể. Võ tồn tại trong những con người bằng xương bằng thịt. Vô thể biến thành hữu thể, khi con người vào cuộc, lâm thế, phải đối đầu, phải xuất chiêu, phải đánh trả hoặc tập luyện, truyền dạy. Vậy khi con người không diễn võ thì võ mất ư? Không phải, võ vẫn tồn tại trong tâm trí, nội lực của họ, có điều kiện là bộc lộ. Nói võ là văn hóa phi vật thể, chính là do tính chất tiềm ẩn, vô hình, biến ảo này vậy. Võ Bình Định khởi đầu là những phản xạ phòng thân, được chọn lọc, đúc kết thành đường nét, phép tắc, bài bản, trở thành một hệ thống giá trị được áp dụng, học tập, nghiên cứu. Trong hành trang văn hóa dân gian Bình Định, dấu ấn "miền đất võ" được thể hiện khá đậm nét, từ văn học đến hội lễ, từ âm nhạc đến vũ đạo, được vận dụng khá nhuần nhuyễn cho một loại hình nghệ thuật đặc sắc của Bình Định là hát bội. 2- Võ cổ truyền trong sự giao thoa với các loại hình văn hóa khác 2.1- Võ cổ truyền Bình Định với văn học dân gian Dưới thời phong kiến, quan niệm trọng nam khinh nữ ăn sâu vào nếp nghĩ, vậy mà con gái Bình Định cũng được học võ, luyện võ: Ai về Bình Định mà coi Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền. Không chỉ học cho biết, mà còn giỏi võ, có tiếng tăm: Trai An Thái, gái An Vinh Người Bình Định xưa ít nói đến trăng khi thề thốt, ít nói đến hoa khi hò hẹn yêu đương. Cái mà người Bình Định xưa thường vận đến như một vật chứng thiêng liêng là lưỡi gươm vàng. Hãy nghe một người nói với một người: Em thương anh trầu hết lá lươn Cau hết nửa vườn cha mẹ nào hay Dầu mà cha mẹ có hay Nhứt đánh nhì đày hai lẽ mà thôi. Gươm vàng để đó anh ơi Chết thì chịu chết lìa đôi không lìa. Hãy nghe một người vợ nói với chồng: Chàng ơi đưa gói thiếp mang Đưa gươm thiếp vác cho chàng đi không. Lại nghe một người dặn dò một người: Anh ơi giữ dạ cho bền Mai sau sắt vụn rèn nên gươm vàng. Hình ảnh lưỡi gươm vàng vừa khẳng định một tư thế tồn tại quyết liệt vừa giàu chất xả thân. Ở những nơi quá phẳng lặng, chưa từng đối mặt với gian nguy tột bậc, chưa gặp tình huống phải lấy mạng sống để đảm bảo, thì người ta không nhắc tới gươm giáo một cách đau đáu, tin cậy, đầy sự tín chấp như vậy. Điều ấy không thể giải thích đơn thuần vì lý do thẩm mỹ, mà phải đi từ đặc điểm hoàn cảnh, đặc điểm lịch sử. Trong đó, con người phải trả lời các thử thách quyết liệt bằng nhân cách, bằng sinh mệnh. Trong quá trình xác lập tư thế lịch sử, khí phách và tài năng tuyệt vời của các võ nhân Bình Định đã thổi vào văn học dân gian một luồng gió bất tận của huyền thoại. Hãy còn đó những truyền thuyết đẹp như ngọc: chuyện Nguyễn Nhạc được sơn thần ban ấn kiếm, chuyện Nguyễn Huệ bắt đàn ngựa trời để thu phục lòng tin của đồng bào Sêđăng, chuyện Võ Văn Dũng chém sư hổ mang, chuyện Bùi Thị Xuân đả hổ, chuyện Nguyễn Văn Tuyết trộm ngựa chúa Nguyễn tại dinh Tuần phủ… Những câu chuyện dân gian ấy là sự bảo tồn đầy trân trọng của nhân dân đối với những anh hùng đích thực mà họ tôn thờ. Trừ những kẻ bị Lía trừng trị, còn tuyệt đại đa số nhân dân trìu mến gọi Lía là Chàng Lía, Chú Lía. Khi Lía sa cơ, phải trốn trong rừng thẳm, được một lão tiều phu nhường cho nắm cơm. Ăn xong, Lía dặn ông lão mang đầu mình nộp quan lĩnh thưởng rồi tự chặt đầu đền ơn. Hành động của Lía quá nhanh, lão tiều không kịp cản. Lão tiều vừa khóc vừa ráp đầu Lía vào thân, chôn dưới một gốc cây. Nước mắt của ông lão phải chăng là nước mắt của dân Bình Định dành cho Lía? – bởi bất kỳ một người dân Bình Định nào cũng sẽ làm như ông lão – thà sống nghèo khổ chứ không làm việc bất nghĩa. Cuộc đời Lía được kể lại trong Vè chàng Lía, như một bản anh hùng ca dân dã, đó là tình yêu của Bình Định dành cho một người con ruột thịt của mình. Không phải ngẫu nhiên mà người Bình Định dành cho những võ nhân như chàng Lía, như Mai Xuân Thưởng những lời vọng tưởng đầy yêu quý. Về Chàng Lía: Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương Chú Lía bị vây trong thành Về Mai Xuân Thưởng: Ngó vô Linh Đổng mây mờ Nhớ Mai nguyên soái dựng cờ đánh Tây Hầm Hô cữ nước còn đầy Còn gương phấn dũng còn ngày vinh quang. Bằng lối đi riêng của mình, văn học dân gian đã dẫn dắt lịch sử trở về, bất chấp sự bôi xóa, đốt phá của các thế lực đen tối nhằm trả thù, hay sự rơi rụng vô tình trong quá trình sàng lọc của thời gian. Không gian lịch sử mà văn học dân gian tái hiện là cả một bầu trời rộng rãi, khoáng đạt, ở đó, nổi bật chân dung các võ nhân Bình Định anh hùng, mà nhân cách và hành trạng thấm đẫm lòng yêu nước của họ chính là sự đảm bảo cho giá trị của võ Bình Định trở thành thiêng liêng. 2.2 - Võ thuật và hát bội Bình Định: Với những cơ duyên lịch sử và địa lý, tỉnh Bình Định từ xưa đến nay có quyền tự hào chính đáng là mảnh đất của anh hùng và nghệ sĩ. Ở đây, bao thế hệ kiên cường giữ đất và giữ trong tim mình ngọn lửa nồng nàn tình yêu nghệ thuật. Trên nền tảng của văn hóa dân gian - võ nghệ - thi ca, hát bội đã ra đời và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Bình Định. Không phải ngẫu nhiên mà những tích tuồng hát bội như Sơn hậu, Hộ sanh đàn, Tam hạ Nam Đường, Cổ thành hội… diễn lại hàng trăm lần vẫn làm say lòng khán giả. Đó là những tích tuồng ngợi ca trung hiếu, thủy chung, tiết nghĩa. Mới hay người xưa không chỉ đến với hát bội như đến với những loại hình nghệ thuật mang tính giải trí đơn thuần, mà thực chất đó là hành trình tìm về những giá trị vĩnh hằng của đạo lý dân tộc. Và người nghệ sĩ trên lĩnh vực sân khấu truyền thống mang sứ mệnh thiêng liêng là thể hiện khát vọng mãnh liệt của quần chúng nhân dân, đồng thời truyền đạt những bài học triết lý nhân sinh sâu sắc của ông cha cho lớp lớp con cháu hậu sinh. Có thể nói đây là nơi hội tụ và chia sẻ giữa nghìn xưa với nghìn sau, giữa cá nhân nghệ sĩ với cộng đồng xã hội, vượt qua mọi cách bức về thời gian, không gian. Và bằng con đường ấy, dù đi qua bao thăng trầm của lịch sử, truyền thống văn hóa của dân tộc vẫn được bảo tồn, vun đắp. Nói hát bội là loại hình kịch hát thì chưa đủ, mà phải nói đó là kịch hát - múa. Múa trong hát bội mô phỏng động tác của người và động vật trong đời sống thực. Các động tác này quan hệ mật thiết với làn điệu và văn học tuồng hát, nên nó phải được tiết tấu hoá, khoa trương, cách điệu. Múa trong hát bội Bình Định có quan hệ mật thiết với võ cổ truyền Bình Định. Các động tác múa không có đạo cụ trong hát bội như khai, khán, chỉ, khoát, giằng cương ngựa, lên ngựa, phi ngựa, lăn, ngã, đá, xóc, nhảy thành… được chắc lọc từ các tư thế, động tác võ thuật, từ các bài quyền. Múa có đạo cụ như cung, kiếm, thương, siêu, đao, khiên, búa, chùy… nhất thiết phải học qua các bài võ có binh khí thì mới có nền tảng để cách điệu, trau chuốt các động tác cho phù hợp, đảm bảo vừa đúng vừa đẹp, vừa khoa học vừa thẩm mỹ. Người sắm vai Ông Đỏ (Quan Công) phải biết đánh đại đao mới có thể múa Thanh Long đao sao cho hùng, uy nhất quán. Người sắm vai Tiết Cương chuyên đánh độc phủ (búa đơn), mà thế chống búa trong bài độc phủ thì phải đứng một chân, còn chân kia co lại đưa lên cao, lòng bàn chân ngửa. Thế đứng này đẹp nhưng khó, nếu diễn viên không hiểu biết võ thuật thì không thể lập bộ vững vàng, huống chi trong khi đứng, còn phải diễn và hát. Kép sắm vai Triệu Khánh Sanh, Cao Quân Bảo đòi hỏi nhuần nhuyễn cách khai thương, khán thương, khoát thương, chỉ thương, khấu thương; trong khai thương lại phải biết khai vớt, khai chao, khai loan; hay như khi nhân vật chỉ cầm thương chứ không giao tranh cũng phải biết cách cầm thương dắt ngựa, gò ngựa; cầm thương lên ngựa sao cho chặt chẽ, không bị rối mới tạo dáng đẹp, cầm không nên hồn thì thương đi đường thương, ngựa đi đường ngựa, hỏng cả tầm vóc nhân vật lẫn vở diễn. Các vai đào chiến như Đào Tam Xuân, Lưu Kim Đính, Kỷ Lan Anh múa song kiếm phải thành thạo từ cách khai kiếm, chuốt kiếm, dựng kiếm, bồng kiếm, khấu kiếm- động tác múa phải tròn, kín, nếu là song kiếm thì phải biết lúc nào nên tách, lúc nào nên nhập. Chính vì mối quan hệ giữa võ và múa mật thiết như vậy nên Hậu tổ Hát bội Việt Những nguyên tắc mà vũ điệu hát bội phải tuân thủ như cân đối, âm dương, gốc ngọn, mực thước, nhịp nhàng, thật ra rất gần với các thảo võ cơ bản của võ cổ truyền Bình Định, bắt đầu từ bài dễ như quyền Ngũ hành, roi Thất bộ đến những bài tiêu biểu như quyền Ngọc Trản và roi Thái Sơn. Diễn viên hát bội học múa đều được dạy hai thảo võ cơ bản này. Các nhân vật được thể hiện trên sân khấu hát bội như Quan Công, Trương Phi, Hoàng Phi Hổ, Triệu Khánh Sanh, Tiết Cương v.v… tuy “bước ra” từ các tích tuồng lịch sử Trung Quốc, nhưng các tác gia hát bội Việt Nam đã phổ vào đó hồn vía Việt. Qua sự nhập vai của các diễn viên tài danh trên sân khấu hát bội Bình Định, cốt cách, tinh thần và võ thuật Bình Định đã hòa quyện và làm nên sức sống lâu bền của vai diễn, lớp diễn, vở diễn. Tiết Cương chống búa, Diễn võ đình, Lão Tạ lăn lửa, Đào Tam Xuân loạn trào … là những lớp diễn tuyệt vời, trong đó võ thuật Bình Định đã nhập vào vũ điệu hát bội để thăng hoa và trở thành bất diệt. 2.3 - Võ cổ truyền với lễ hội Nếu nhìn từ góc độ văn hóa, thì võ thuật Bình Định là một dạng thức văn hóa đặc biệt có sự tương tác mạnh mẽ với các dạng thức văn hóa khác. Trong sinh hoạt hội hè đình đám của người Bình Định xưa, các cuộc mang tính cộng đồng rộng lớn thường không thể thiếu hai món hát xướng và võ thuật. Nói đến những lễ hội tràn đầy tinh thần thượng võ trên đất Bình Định, người ta nghĩ ngay đến lễ hội Tây Sơn. Lễ hội được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 5 tháng giêng âm lịch. Thực ra, phần lễ với các nghi thức dâng hương, tưởng niệm được bắt đầu tổ chức từ ngày mồng 4 tại Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt để tưởng nhớ các thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn, đặc biệt là ba anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ. Sang ngày mồng 5, phần chính hội bắt đầu với nghi thức kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi Đống Đa (năm 1789), tái hiện trận Đống Đa oanh liệt của nghĩa quân Tây Sơn áo đỏ dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Quang Trung đánh thắng 29 vạn quân Thanh xâm lược. Ngày xưa, hội đánh trận giả được tiến hành vào lúc mờ sáng. Tiếng trống trận, tiếng ngựa hí quân reo huyên náo, bóng cờ bay phần phật lúc mờ lúc tỏ, hoàng đế Quang Trung (do một người đóng vai) lẫm liệt đưa kiếm lệnh cất lời hiệu triệu vang rền. Cả một dòng lịch sử cuồn cuộn trở về: Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh Chiến tượng hai trăm tinh tường trận mạc. Lòng một quyết ra tay hùng hổ, hẹn nước non ca khúc hải hoàn sau Chỉ mười ngày dẹp giống sài lang, cùng tướng sĩ chung vui Nguyên đán trước. Cạn lời ủy lạo, trống giục cờ giong; Dốc dạ truy tùy, non bằng biển vượt. Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thủy dồn binh; Đêm mồng ba tháng giêng, đồn Hà Hồi hãm giặc. Đánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng: Xong đồn nọ tới đồn kia, khói tan đá nát. Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt lương rừng lửa đỏ, khiến ba quân liều chết chớ lui; Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng, quấn cổ thước khăn vàng, quyết một trận chẳng hơn thì thác. Thế giặc dẫn binh đông tướng dữ, thuốc súng chôn quanh thành, chông sắt cắm khắp lũy, thêm bốn bề đạn rạc rào mưa; Quân ta nhờ trí sáng gan bền, ván dày cột thành cốt, Rơm ướt phủ làm bì, hò một rập sức cuồn cuộn thác, Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kíp hạ, sông máu láng lai; Thúc chân voi, Khương Thượng liều thân, núi thây chồng chất. Nghi Đống liệu khôn bề sống sót, vội vàng treo cổ Đống Đa! Sĩ Nghị may tìm được lối ra, hớt hải thoát thân mạn Bắc. Ngoài ải sói gió tan mùi sát khí, niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên; Vào thành Long cờ rợp bóng vinh quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược. Mười ngày hẹn trước, trời đất chứng lời vàng; Hai bận vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc ngọc. (Văn tế Đống Đa của nhân dân Bình Khê) Khí thế rầm rập, làm dậy lên niềm tự hào thiêng liêng. Người xem hội đổ về từ chiều hôm trước. Già trẻ trai gái chen nhau qua cầu, nhiều người bị lấn rớt xuống sông, bị lấm ướt sây sát mà vẫn hăng hái vui say. Sau phần đánh trận giả, lễ hội còn có nhiều hoạt động văn hóa dân gian thấm đẫm tinh thần thượng võ: hội thề kết nghĩa Kinh Thượng, hội cồng chiêng, các chương trình biểu diễn võ nhạc và võ thuật: trống trận Tây Sơn, đánh côn, đi quyền, đấu võ... Những năm gần đây, lễ hội Tây Sơn được tổ chức quy mô, hoành tráng, trang trọng tại Bảo tàng Quang Trung và sân vận động huyện Tây Sơn. Cầu mới đã xây, người đi hội đông gấp bội nhưng cảnh chen nhau rớt xuống sông không còn nữa. Phần Hội cũng không còn cảnh đánh trận lúc mờ sáng, mà được tổ chức dưới hình thức sân khấu hóa rực rỡ với sự tham gia của hàng trăm thanh niên, học sinh, diễn viên, võ sĩ. Chương trình hội phong phú hơn xưa: về hội thi có thi Trạng Nguyên, cờ tướng, cờ người, đua thuyền; về văn nghệ có hát bội, hát hò đối đáp, thả đèn hoa đăng trên sông v.v. Đặc biệt, trống trận Tây Sơn 12 chiếc và các tiết mục biểu diễn võ thuật đã trở thành hồn vía lễ hội: đánh côn, đi quyền, biểu diễn các môn binh khí cổ truyền, đấu võ đài… vẫn là những hình thức văn hóa có sức thu hút và lôi cuốn cao nhất, tạo nên sự cộng hưởng mãnh liệt trong lòng người dự hội. Bình Định còn có một lễ hội đặc sắc tràn đầy tinh thần thượng võ ở An Thái là lễ hội đổ giàn. Nhà thơ Chế Lan Viên, thời niên thiếu sống ở thành Bình Định, trong những dòng hồi niệm về con đường đến với văn chương, đã tâm sự: “Chả lẽ lại nói là những kiểu kiến trúc đặc biệt nhà lá mái cửa bàn khoa Bình Định hay cái vòng quay kiên trì triền miên của các xe nước ngoài Quảng Ngãi đã cho tôi sự chịu khó trong thơ? Nhưng quả là những đêm hát bội ở An Vinh, các cuộc đổ giàn ở An Thái làm cho tôi yêu chất hùng tráng - sau này ta gọi là sử thi hay là gì nhỉ? Rồi đây các bạn cũng nên tổ chức lại trò đổ giàn, đó chả là Olympic của ta đấy sao? Một cái giàn cao hàng chục mét, có con heo quay trên ấy và dưới đất là hàng chục võ sĩ từ Quy Nhơn, Đập Đá lên, Bình Khê xuống, Hoài Ân Hoài Nhơn vào, cùng với các võ sĩ An Thái, An Vinh tại chỗ đang chờ đợi. Khi con heo ném xuống là một cuộc “tỉ thí lôi đài” dữ dội để giành cho được con heo kia, dấu hiệu đoàn nào sẽ là vô địch năm này. Chất hùng ca trong thơ làm sao không dính líu, cái dây hồng trong thơ làm sao không dính líu với các cuộc đổ giàn thượng võ này? Blake đã nói khá đúng: “Văn hoá đi bằng lối thẳng, còn nghệ thuật thì đi các lối ngoằn ngoèo”. (Chế Lan Viên- Thơ văn chọn lọc, Sở VHTT Nghĩa Bình 1988). Lễ đổ giàn với những nghi thức dân gian sinh động như rước nước, tắm tượng, đập động trừ yêu, phóng sinh, chẩn bần, xô cỗ đổ giàn, cướp heo quay, hát án... quả thật là sự hội tụ tưng bừng của nhiều màu sắc, nhiều vẻ đẹp văn hoá hữu thể và vô thể, nhưng sức cuốn hút chính của nó là ở sự tỷ thí võ nghệ một cách sôi động, hết mình. Không chỉ riêng Chế Lan Viên. Những người từng chứng kiến lễ hội đổ giàn đầu thế kỷ XX đều kể lại với niềm phấn khích xen lẫn tự hào vô bờ bến. Ông Hồ Diêu, gọi hương mục Ngạc bằng ông, hiện còn sống ở An Vinh, thuật những điều mắt thấy tai nghe : “Võ sĩ của các võ đường đổ về An Thái quan sát địa hình suốt mấy ngày trời, rồi ém quân mai phục từ đêm hôm trước. Một số trà trộn trong đám đông đứng xem hội, chờ lễ tế vừa xong, đã thoăn thoắt lên giàn, các võ sĩ canh giàn cản không nổi. Con heo quay trên cỗ xô xuống còn lơ lửng trong không trung đã có người phi thân lên chụp rồi vác chạy. Chụp được đã khó, vác được heo ra khỏi vòng vây còn khó hơn. Vì con heo quay là chiến lợi phẩm danh dự nên các phái võ ra sức tranh giành. Có người giành thì có người cướp. Có người cướp thì phải có người chận cướp mở đường cho phe mình chạy. Đánh dữ lắm!” Những ngón đòn tuyệt kỹ được tung ra. Nào côn nào quyền. Võ tàu võ ta. Gió cuộn cát bay, tiếng hò reo huyên náo cả một vùng. Võ sĩ vác heo thoát được hay không ngoài chuyện được đồng bọn hỗ trợ, cái chính là tuỳ thuộc vào tài nghệ của mình. Nếu kém tài thì bị kẻ giỏi hơn cướp tay trên. Môn phái nào đem được con heo quay về tổ đình là một vinh dự to lớn, năm đó được tiếng vô địch, học trò xin theo học rất đông. Lễ hội đổ giàn An Thái là một lễ hội mà võ thuật bộc lộ đến đỉnh cao các phẩm chất dũng mãnh, cao thượng và nồng nhiệt. Tất nhiên, không loại trừ những yếu tố hệ quả và mặt trái như sự quyết liệt ăn thua có thể dẫn tới sát thương, hoặc mặc cảm thua cuộc nặng nề có thể chuyển thành lòng thù hận, ra sức rèn tập đợi đến kỳ hội sau rửa nhục. Nhưng vượt lên trên tất cả những vụn vặt đời thường, vẫn là hào khí thượng võ rót tràn cuộc sống sự hồi hộp và niềm vui ngây ngất. * Ở các lễ hội dân gian hay lễ hội lịch sử - văn hóa khác của Bình Định như lễ hội đâm trâu của đồng bào Ba-nar, lễ hội văn hóa thể thao miền núi, lễ hội văn hóa thể thao miền biển v.v., võ cổ truyền tuy không chiếm vị trí chủ đạo như trong lễ hội Tây Sơn và lễ đổ giàn An Thái, song vẫn là một nội dung không thể thiếu dưới các hình thức biểu diễn, trò chơi dân gian hay thi đấu. Biểu diễn thì có diễn võ, nhạc võ. Thi đấu thì có các hình thức đấu võ đài, phóng lao, bắn cung, đô vật. Trò chơi thì có kéo co, đua thuyền, lắc thúng, nhảy bao bố, chặt gạch, đập ấm. Đó là những hoạt động phong phú, lành mạnh, phản ánh sinh động truyền thống thượng võ của người Bình Định. |
Bài 3: |
Những đặc trưng của võ cổ truyền |
1- Tính thượng võ: là tinh thần võ hiệp cao thượng được chắt lọc và phát triển thành nguyên lý ứng xử của giới võ học, dần dần trở thành nguyên lý ứng xử bao trùm của người Bình Định. Tinh thần thượng võ gắn liền với lòng yêu chuộng nhân đạo, tôn thờ đại nghĩa, không câu chấp tiểu tiết. Có thể đọc thấy điều đó qua nghĩa cử của Lía, một chàng trai nghèo đứng lên từ bùn đen của thân phận, buộc phải kiếm sống bằng nghề đạo chích. Nhưng không như kẻ cướp tầm thường, Lía trượng nghĩa ngay cả trong một hành vi mà xã hội vốn khinh rẻ: chỉ cướp những nhà giàu gian ác, của lấy được mang chia đều cho nhà nghèo khó, không yêu cầu đánh đổi một điều gì. Việc làm của Lía đã khiến xã hội phải nghĩ lại. Sau khởi nghĩa của Lía gần trăm năm là khởi nghĩa Tây Sơn, lại xuất hiện những “toán cướp” theo cách gọi của chính quyền phong kiến. Các giáo sĩ phương Tây đã ghi lại với sự ngạc nhiên không giấu diếm về bọn cướp lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo. Hiện tượng này không chỉ riêng Bình Định mới có, nhưng xét về thời điểm lịch sử, bối cảnh lịch sử và ảnh hưởng xã hội thì đây quả là cái có sớm, cái riêng, cái độc đáo của Bình Định. Tính thượng võ của người Bình Định biểu hiện rất đa dạng. Có khi trong cùng một thời, cùng một hoàn cảnh, nhưng quan niệm mỗi người một khác nhau, dẫn đến hành xử khác nhau. Cùng là bề tôi triều Tây Sơn, nhưng cách trả lời câu hỏi cuộc đời của mỗi người một khác. Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân , Nguyễn Quang Thuỳ và một số tướng sĩ khác bị giặc bắt, đã chọn cái chết hiên ngang giữa pháp trường chứ không đầu hàng Nguyễn Ánh. Nguyễn Văn Tuyết và vợ là Trần Thị Lan (cháu gái võ sư Trần Kim Hùng) phò vua Cảnh Thịnh chạy loạn, chiến đấu đến hơi thở cuối và hy sinh anh dũng trong vòng vây giặc. Võ Văn Dũng vượt ngục ôm ấp mưu đồ khôi phục triều Tây Sơn. Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc kẻ dong ngựa ẩn thân chốn sơn khê, người lui về cầm cày nơi thảo dã. Một số võ tướng xuống tóc tu hành. Mỗi người một cách, song bất cứ sự lựa chọn nào cũng đều toát lên lòng ưu dân ái quốc, dũng khí sẵn sàng xả thân cho đại nghĩa, sự trung thành với lý tưởng, thuỷ chung với anh em bè bạn. Ở họ tuyệt đối không có tư tưởng tham sống sợ chết, hám lợi cầu vinh. Sau thời Tây Sơn, lãnh tụ Cần Vương Mai Xuân Thưởng ra pháp trường còn xé vạt áo, cắn ngón tay lấy máu chép bài thơ tuyệt mệnh: Chết nào có sợ chết như chơi/ Chết bởi vì dân, chết bởi đời/ Chết hiếu chi nài xương thịt nát/ Chết trung đâu kể cổ đầu rơi... Hương mục Ngạc mặc áo vải, ăn rau vườn bên dải sông Kôn, một bữa kia đọc thư của bạn là tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo, cảm khái chuyện sinh dân đại nạn liền vụt dậy gọi trai tráng đôi bờ kẻ thước người côn tham gia phong trào chống thuế để bảo vệ nhân dân bị đàn áp. Phan Thọ, Đỗ Hượt thượng đài đánh thắng võ sĩ Nam Hàn; chúng cho xe đưa quà cáp tới nhà dỗ dành thế nào cũng từ chối hợp tác, cương quyết không truyền bí quyết võ thuật của tổ tiên, dân tộc cho giặc. Võ nhân Bình Định, võ nhân Tây Sơn là vậy. Hành trạng có khác nhau, kết cục có khác nhau, nhưng trước câu hỏi lớn của lịch sử, tất cả có chung một câu trả lời: thực hiện đạo lý làm Người. 2- Tính dân gian: Thiên nhiên hàm chứa trong nó cả sự thách thức to lớn lẫn những bài học vô tận để con người quan sát, học hỏi và đúc kết thành kinh nghiệm thích nghi và tồn tại. Nguồn gốc dân gian còn in dấu trong võ cụ như cung tên, chỉa ba, bồ cào, côn (gậy), búa rìu... cho phép ta hình dung võ đã ra đời từ con đường chinh phục thiên nhiên và lao động để sinh tồn. Các thế võ dựa vào thao tác lao động: leo trèo, săn bắt hoặc mô phỏng động tác các loài động vật: bài Hùng kê quyền của Nguyễn Lữ mô phỏng từ đòn gà chọi, bài Song phượng kiếm của nữ tướng Bùi Thị Xuân mô phỏng điệu múa chim phượng; bài roi Thái Sơn bắt chước tư thế, động tác của tám con vật là rắn, lân, tê giác, thỏ, mèo, trâu, gà, hổ. Một số bài quyền khác cũng xuất phát từ các thế giao tranh của các con vật và dùng tên của chúng đặt luôn cho bài võ như Xà quyền (võ rắn), Hầu quyền (võ khỉ), Hùng kê quyền (võ gà chọi)... 3 - Tính bác học: Võ Bình Định nói chung và võ Tây Sơn nói riêng được xây dựng trên nền tảng học thuyết âm dương. Các môn quyền thuật cấu tạo bằng cương quyền và nhu quyền. Các môn binh khí được đúc kết và nâng cao trên cơ sở các động tác sử dụng các công cụ lao động sản xuất, là kết quả của một quá trình sàng lọc, lựa chọn rất công phu. Hai cuốn Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ (thời kỳ trước Tây Sơn) và Tây Sơn binh pháp của Huỳnh Văn Thuận (thời kỳ Tây Sơn) được xem là võ kinh của Bình Định. Các tác giả của hai cuốn võ kinh này khi biên soạn có tham khảo và kế thừa Tôn Ngô binh pháp của Tôn Tử và Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo, nhưng cốt yếu là đúc kết các nguyên lý và phép tắc của võ học Bình Định thời họ sống. Ngoài hai bộ sách chỉ còn thấy nhắc trong các thư tịch này, tại các làng võ và các gia đình võ thuật ở Bình Định, Tây Sơn còn lưu giữ khá nhiều tư liệu về võ kinh, võ lý, võ đạo, võ thuật, võ y và võ nhạc. Trong nhiều tài liệu chép tay còn có cả hình vẽ đặc tả tư thế của võ nhân kèm theo lời thiệu. Mỗi bài thiệu là một thảo võ hoàn chỉnh gồm nhiều thế liên hoàn được ghi lại dưới dạng thơ ngắn, dễ nhớ, dễ thuộc. Và riêng các bài thiệu đã là một phần di sản vô giá của võ cổ truyền Bình Định. 4 - Tính nghệ thuật: Nói đến võ thuật, là nói đến sự tổng hòa giữa sức mạnh và vẻ đẹp cơ thể, giữa trí lực và thần sắc, kết quả của sự lựa chọn, sàng lọc để duy trì tinh hoa nghề võ. Một đặc điểm của võ Bình Định - Tây Sơn cổ truyền là khi đánh, giữ cho chân không rời khỏi mặt đất - “túc bất ly địa”. Đây cũng có thể coi là một trong những điểm làm nên cái riêng, tiêu chí phân biệt võ Bình Định – Tây Sơn với các dòng võ khác. Võ Bình Định, Tây Sơn gắn liền với các bài thiệu và nhạc võ. Những bài thiệu võ không đơn giản chỉ dùng để thuyết minh cho từng phân thế võ trong bài thảo, mà ẩn trong đó là những hàm ý sâu xa của các bậc tiền nhân để lại cho đời sau, không phải ai cũng nhận ra và hiểu được. Nếu lời thiệu giúp võ sinh đánh không lạc chiêu thức, thì nhạc võ trong luyện tập điều hoà tiết tấu của chiêu thức. Trong trận mạc, nhạc võ là tiếng núi sông kêu gọi ba quân tiến bước, là hiệu lệnh thúc giục tướng sĩ xung phong phá luỹ công thành, là khúc hoan ca mừng chiến thắng. Tất cả cung bậc bi tráng - hào hùng, khoan thai - bão táp truyền thẳng vào trái tim khối óc người nghe. Đặc biệt môn kỳ võ (múa cờ) ngoài tác dụng điều khiển trận đánh theo hiệu lệnh của người chỉ huy, còn có hiệu quả thẩm mỹ rất lớn. Lá cờ phấp phới trước hàng quân như niềm kiêu hãnh thiêng liêng, thổi bùng ngọn lửa tình yêu quê hương đất nước trong mỗi người. Ngày nay, nhạc võ và kỳ võ đã trở thành những tiết mục trình diễn mang tính nghệ thuật cao, được xếp vào danh mục “đặc sản văn hoá” của Đất Võ, lôi cuốn và làm rung động biết bao thế hệ. |
Bài 4: |
Các bộ môn võ cổ truyền |
1- Võ có vũ khí Gồm 18 môn tương ứng với 18 món binh khí: côn, kiếm, đao, thương, giáo, kích, xà mâu, đinh ba, bồ cào, thiết bản, song tô, song xỉ, song câu, bút, phủ (búa), chuỳ, cung tên, lăn khiên. 1- Côn (roi): làm bằng gỗ, tre, mây, cũng có khi làm bằng kim loại, chia làm trường côn và đoản côn. Trường côn là roi dài gồm hai thứ là roi đấu (trường tiên) dài khoảng 3m và roi chiến (trung bình tiên) dài khoảng 1,5m. Roi đấu dùng để đánh trên ngựa. Roi chiến dùng để đánh dưới đất. Đoản côn là roi ngắn. Còn có một loại côn nữa là côn nhị khúc, làm bằng hai thanh gỗ cứng hoặc kim loại dài bằng nhau, nối với nhau bởi một sợi dây dài tết bằng tóc người hoặc bằng lông đuôi ngựa. Loại côn này gọn, mạnh, thích hợp cho lối đánh gần, có thể đổi tay phải tay trái tùy ý. Khi đánh dùng một thanh làm trụ, đánh bằng thanh kia, phóng ra thu về, biến hoá linh hoạt. 2- Kiếm: gồm chuôi kiếm, lưỡi kiếm và bao kiếm. Phần lưỡi dài, phiến dẹt, bề rộng chừng 3 - 4cm, cạnh mảnh và cực bén, rèn bằng kim loại tốt như sắt, thép, hợp kim. Phần cán (chuôi) bằng gỗ, có khi cán cũng được đúc bằng kim loại hoặc mạ vàng, chạm trỗ rất đẹp. Vỏ kiếm được chế tạo cũng bằng kim loại mỏng và cứng, dùng để bao ngoài lưỡi kiếm, một đầu kín một đầu hở khi gài vào ăn khớp với cổ chuôi kiếm. Kiếm thuộc hàng vũ khí thanh nhã, sang trọng, được rèn theo yêu cầu của người sử dụng. Thường phải đảm bảo ba yếu tố: sắc bén, đẹp, có độ nặng, độ dài phù hợp với sức vóc người cầm. Kiếm lệnh là kiếm chỉ huy, lược trận, phân biệt với kiếm trận ở chỗ kiếm lệnh lưỡi cong, còn kiếm trận lưỡi thẳng. Lại tùy theo độ dài ngắn mà phân thành trường kiếm và đoản kiếm. Trường kiếm độ dài xê dịch trong khoảng 1,2m đến 1,5m, có thể giao tranh trên mặt đất hoặc trên ngựa đều tiện lợi. Đoản kiếm là kiếm ngắn, từ chuôi đến ngọn dài chừng năm, bảy tấc, thích hợp với lối đánh cận chiến, giáp chiến. Thường con nhà võ chỉ tuốt kiếm khỏi bao khi giao đấu. Trong giao đấu, vỏ kiếm cũng là một vũ khí để đánh, đỡ, gạt, hất rất lợi hại. Tuy vậy, cũng có không ít những thanh kiếm để trần. Thời chống Pháp trở về trước, kiếm là môn binh khí rất phổ biến trong võ thuật Bình Định. Nữ tướng Bùi Thị Xuân chuyên đánh song kiếm. Ở Bảo tàng Quang Trung hiện còn lưu bức tranh Bà cưỡi voi trận, tay cầm song kiếm, uy phong lẫm liệt. 3- Đao: có cán bằng gỗ cứng, lưỡi đao càng về phía trước càng to bản, được vát hơi cong dần về phía mũi. Về chủng loại có đơn đao, song đao, đại đao, phác đao. Đại đao là vũ khí nặng, cán dài. Người sử dụng đại đao phải có sức vóc hơn người. Triều Tây Sơn có bốn người nổi tiếng về đại đao là Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu và Đặng Văn Long. Đặc biệt là Võ Văn Dũng, tài sử đao của ông được Nguyễn Nhạc khen ngợi: “Phá sơn trung tặc dị, thắng Văn Dũng đao nan” nghĩa là Phá giặc trong núi dễ, thắng ngọn đao Văn Dũng mới khó. 4- Thương: là vũ khí dài, cán làm bằng gỗ cứng, ở đầu có mũi hình thoi nhọn ở đầu đúc bằng sắt. Cách dùng côn và thương về căn bản giống nhau, nhưng côn thiên về đả, tức đánh xuống, còn thương thiên về đâm. 5- Giáo: là loại vũ khí dài khoảng 2 - 2,5m bằng một loại tre đực đặc ruột có đầu vót nhọn bịt kim loại, dùng trong trận mạc. Cách đánh như côn, nhưng lợi thế hơn ở chỗ có mũi nhọn để đâm. Tương truyền đây là vũ khí đắc dụng của nghĩa binh Mai Xuân Thưởng, vì vùng nông thôn Bình Định rất sẵn tre. 6- Kích: là vũ khí dài, cán bằng gỗ cứng hoặc đúc bằng kim loại nặng. Phương thiên hoạ kích có một mũi nhọn ở giữa giống ngọn giáo, hai bên là hai vành đao lưỡi liềm day lưng vào nhau. Bán thiên kích thì chỉ có mũi nhọn với một vành đao lưỡi liềm. Kích nặng ở đầu nên sử dụng không được linh động như thương. 7- Xà mâu: là loại vũ khí dài, nhọn, phần trên cùng đúc kim loại uốn khúc như hình rắn. 8- Đinh ba: Là loại vũ khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt có ba răng nhọn xỉa thẳng về trước. Đinh ba vận dụng các chiêu thức của côn, thiên về phóng, đâm, xóc. 9- Bồ cào: Cũng là vũ khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt hình răng lược, giống như cái cào cỏ ở nông thôn Bình Định. Bồ cào cũng vận dụng chiêu thức của côn nhưng lại thiên về đập, giật. 10- Thiết bản: là một thanh kim loại vuông cạnh, dài chừng 1m, tiện dụng ở chỗ gọn gàng, con nhà võ có thể giắt bên hông hoặc sau lưng khi di chuyển. 11- Song tô: là hai lưỡi dao thép to bản, ở cán cầm có phần bảo vệ tay. Thích hợp đánh cận chiến. 12- Song xỉ: Song xỉ là vũ khí dùng cho hai tay, gồm hai thanh sắt dài, hai đầu nhọn như lưỡi dao găm, phần thân bo theo cánh tay từ chỏ ra bàn tay, phía chỏ có dây da quấn vào bắp tay, phía trước có đai sắt để luồn bàn tay vào cầm cho chắc. Đặc điểm riêng của song xỉ là gọn, sắc, mạnh, thích hợp lối đánh gần, đòi hỏi người sử dụng phải tinh mắt, giỏi quyền cước, di chuyển mau lẹ. 13- Song câu: là vũ khí đôi gồm các phần câu, phần hộ thủ, phần lưỡi được đúc liền nhau. Phần câu cong như rựa quéo, để móc, hãm vũ khí hoặc một số vùng trên cơ thể địch thủ như cổ, vai, cổ tay, cổ chân, bắp đùi, hông... Phần thân giống như lưỡi kiếm. Chuôi cầm được bọc vải, da hoặc gỗ, có một lưỡi liềm để bảo vệ tay, gọi là phần hộ thủ. Song câu được sử dụng biến ảo linh hoạt, thích hợp lối đánh vừa công vừa thủ. 14- Bút: Đúc bằng kim loại nặng, dài khoảng 5-7 tấc, phần cán tròn, đặc ruột, phần ngọn hình búp sen, cuối cán có sợi dây để buộc vào cổ tay người sử dụng, sau khi phóng ra có thể thu về. Dùng đôi gọi là song bút, dùng đơn gọi là độc bút. 15- Búa (phủ): Búa là loại vũ khí gần giống với rìu chặt cây của tiều phu. Cán búa làm bằng gỗ cứng dài chừng một cánh tay. Lưỡi búa đúc hoặc rèn bằng sắt, thép tốt, rất nặng. Búa đơn gọi là độc phủ, búa đôi gọi là song phủ. Những chiếc búa đặc biệt trên sống còn được chạm đầu hổ hay đầu rồng rất tinh vi, gọi là hổ đầu phủ hoặc long đầu phủ. Chiêu thức của búa gồm các đòn ngắn, mạnh, trực diện, khả năng sát thương kẻ địch rất lớn, thích hợp với lối đánh thấp, cận chiến, trên bộ. Người sử dụng búa phải có sức lực hơn người, thân pháp cực kỳ mau lẹ. 16- Chuỳ: là loại vũ khí có tay cầm ở giữa là một thanh gỗ cứng hoặc kim loại, hai đầu là hai khối kim loại (sắt, thép, đồng) đặc ruột hình thuẫn hoặc hình tròn, ngoài mặt đúc nổi gai lục giác hoặc xẻ cạnh khế. Bề ngang có đường kính chừng 10 – 15cm. Chuỳ cũng có chùy đơn và chuỳ đôi. 17- Cung tên: Cung đầu tiên là công cụ săn bắn, sau mới thành vũ khí chiến đấu. Thân cung và hai cánh cung làm bằng gỗ cứng, có khi là gốc tre lâu năm. Giữa thân cung có rãnh lắp tên. Đầu hai cánh cung được khoét lỗ tròn hoặc đính khuy sắt để căng dây cung. Dây cung thường làm bằng gân trâu hoặc một loại sợi đặc biệt dẻo và cứng, có tính đàn hồi cao, khi kéo mạnh sẽ làm cánh cung cong lại, tạo sức bật đẩy mũi tên bay xa. Tên làm bằng gỗ cứng hoặc tre già, mũi vót nhọn. Về sau, người ta bịt kim loại ở đầu mũi tên hoặc đúc tên sắt, tên đồng để tăng hiệu lực, xuyên thủng được vật cứng. Môn bắn cung phải qua nhiều giai đoạn tập luyện: giương cung, nhắm đích, quỳ bắn, đứng bắn, dưới đất, trên ngựa. Mục tiêu bắn cũng đa dạng: từ gần tới xa, từ diện đến điểm, từ cố định đến di động. Lại được dạy các mánh khóe đánh lừa kẻ địch như giương đông kích tây, giương nam kích bắc v.v. Người bắn cung giỏi có thể bắn chim đang bay, hoặc còn nói trước được mình sẽ bắn rơi con thứ mấy trong đàn. Nổi danh về bắn cung ở Tây Sơn xưa từng có La Xuân Kiều, Đặng Xuân Phong, Lý Văn Bưu. 18- Lăn khiên: Khiên là một tấm chắn bằng gỗ hoặc đan bằng cật tre, mây, dùng để đỡ gạt trong khi giao chiến, nhất là trong đánh trận, công thành. Nghĩa quân Tây Sơn rất thành thạo môn lăn khiên - một tay cầm khiên để hứng tên bắn từ xa hoặc đỡ gươm giáo khi đánh xáp lá cà, trong khi tay kia sử dụng một vũ khí khác để tấn công kẻ địch. Ngoài ra ở vùng Bình Định còn thông dụng các loại vũ khí như rựa quéo, lao, đòn xóc, nạng, ná, khăn xéo, dù. Rựa quéo giống như cái rựa thường, sống rựa dày, lưỡi dài và to bản có mấu quéo lại ở đầu để giật, kéo. Chỉ khác rựa thường ở chỗ cán rất dài, vừa là công cụ lao động, vừa là một đoản côn khi cần. Lao cấu tạo như giáo nhưng ngắn hơn, thân lao dài chừng 1,2 - 1,5 m, dùng để phóng tầm xa, phổ biến trong săn bắn của đồng bào các dân tộc thiểu số. Khăn xéo là vật tùy thân của người Bình Định xưa, làm bằng vải ta, thường vắt trên vai, dùng để chặm mồ hôi, lau mặt, che nắng; trong tay con nhà võ, nó trở thành một ngọn “nhuyễn tiên” lợi hại. Dù (hay ô) là vật dụng che nắng mưa khi đi đường, gặp khi bất trắc nó trở thành vũ khí lợi hại, có thể đâm kẻ địch bằng mũi như một ngọn giáo ngắn; có thể quật, đập, đả như côn; lại có thể móc cổ giật cho kẻ địch té nhào. 2- Võ tay không (quyền thuật) Bao gồm tất cả các môn võ không trang bị vũ khí, chỉ dùng tay chân, chia làm cương quyền và nhu quyền, với kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp, bao gồm đòn công và đòn thủ. Những bài cương quyền dùng sức mạnh với mục đích tấn công áp đảo, đè bẹp đối phương nhanh. Nhu quyền hay miên quyền thể hiện những động tác thoạt nhìn mềm mại, bay bướm nhưng khi phát kình thì uy lực rất lớn. Nguyễn Lữ tự biết thể chất mình yếu ớt nên đã chọn miên quyền để luyện công, như ông từng viết trong lời thiệu bài Hùng kê quyền: “Nhu cương cường nhược tận kỳ trung”, nghĩa là mềm, cứng, mạnh, yếu đều đưa hết ra dùng. Quyền lợi hại ở chỗ có thể không để dấu tích bên ngoài nhưng lại gây chấn thương mạnh bên trong, nếu đánh vào các yếu huyệt có thể làm đối phương chết ngay hoặc mang trọng bệnh mà không tìm ra người biết cách giải huyệt thì không cứu chữa được. Những thế quyền tinh hoa của Bình Định, Tây Sơn được đúc kết thành các bài thảo bộ nhằm giúp người tập luyện nhuần nhuyễn và hoàn chỉnh từng chiêu thức. Đất Bình Định có các bài quyền nổi tiếng như Thần Đồng, Ngọc Trản, Lão Mai, Lão Hổ... Ngoài ra, các võ sư tiền nhân còn nghiên cứu từ các loài vật trong tự nhiên, sáng tạo thành những bài hình tượng quyền như Ngũ cầm quyền (long, hổ, báo, xà, hạc), Linh miêu hý thử, Kim xà xuất động, Kim báo quyền, Mãnh hổ xuất sơn... Trong diễn võ, so tài, các tay quyền thường thi triển các chiêu thức vừa đầy uy lực vừa đẹp mắt, tuân theo các bài bản mẫu mực cốt để phô trương tuyệt học, công phu vi diệu. Trong chiến đấu chuyện bài bản không còn là quan trọng, mà mục đích chính là áp đảo, thậm chí sát thương đối thủ để giành phần thắng nhanh nhất. 3- Nhạc võ Tây Sơn Tương truyền Tây Sơn tam kiệt đặt ra nhạc võ để luyện quân và khiển trận. Trong luyện tập, tiếng trống sẽ giúp người đánh võ không bị lạc chiêu thức. Trong giáp chiến, tiếng trống không chỉ là hiệu lệnh giục giã ba quân mà còn là chiến thuật tâm công đánh vào tâm lý của quân thù, góp phần làm nên thắng lợi. Dàn nhạc võ Tây Sơn xưa gồm mười sáu trống chiến, ngoài ra còn có tù và, kèn, chiêng, phèng la… là những nhạc cụ hỗ trợ. Trống chiến là linh hồn của nhạc võ. Khi đánh trống, hai bàn tay cầm dùi trống của nghệ nhân phụ trách mười hai chiếc, bốn chiếc còn lại đánh bằng hai gót chân và hai khuỷu tay. Dàn nhạc võ Tây Sơn ngày nay vẫn gồm đủ trống chiến, kèn bóp (hay kèn xô-na), chiêng, phèng la, nhưng chỉ còn mười hai trống, tượng trưng cho thập nhị địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...), xếp thành ba bậc trên giá đỡ, ứng với triết lý tam tài (Thiên - Địa - Nhân). Nhạc võ Tây Sơn có hai phần: nhạc và võ. Phần nhạc được phối âm dựa trên tiết tấu chủ đạo của trống chiến trên nền âm cổ truyền, chia thành ba hồi: xuất quân, xung trận - công thành và ca khúc khải hoàn. Tiếng trống cất lên, hồn thiêng sông núi vọng về trong tiếng gió lướt, tiếng quân đi, tiếng vó ngựa thần tốc trên đường thiên lý. Khúc công thành dập dồn vang dội như nước vỡ bờ, vun vút tên bắn gươm khua, hừng hực voi gầm ngựa hí. Từ cao điểm, chợt điệu nhạc trầm xuống như lời tưởng niệm vong hồn tử sĩ rồi chuyển sang khúc khải hoàn tươi vui rộn rã. Phần võ là thủ pháp đánh trống, thực chất gồm những thế võ liên hoàn. Người đánh trống ngày nay dẫu có nhập hồn vào nhạc võ thế nào, cũng chỉ là nghệ nhân biểu diễn một bộ môn nghệ thuật, nhưng ngày xưa người đánh trống trận phải là người vừa am hiểu võ thuật binh pháp, vừa nhạy bén nắm bắt ý đồ của người chỉ huy để truyền đạt chính xác mệnh lệnh qua điệu trống. Động tác đánh trống, bộ pháp di chuyển cũng là một nghệ thuật tự vệ và đôi dùi trống là vũ khí, vì người đánh trống trận ngày xưa phải vừa bảo vệ mình vừa bảo vệ tiếng trống, để nhạc võ điều binh khiển trận không bị ngắt quãng. Tuy nhiên, người lính đánh trống và dàn trống trận của anh ta thường được bố trí ở trung quân, luôn được bảo vệ và hỗ trợ bởi một toán quân thiện chiến, khả năng đơn thân chiến đấu rất ít khi xảy ra. Nhạc võ Tây Sơn bây giờ đã trở thành một di sản văn hoá độc đáo, một nghi thức truyền thống không thể thiếu trong các kỳ tế lễ ở Tây Sơn nói riêng và Bình Định nói chung, nhất là trong các dịp quan trọng như lễ hội kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, lễ kỵ Tây Sơn Tam kiệt, lễ kỷ niệm sinh nhật, lễ giỗ Quang Trung hoàng đế, lễ cúng từ đường Bùi Thị Xuân, lễ cúng từ đường Võ Văn Dũng, lễ giỗ tổ tại các làng võ. Tại Bảo tàng Quang Trung có một đội nhạc võ chuyên biểu diễn trống trận để phục vụ các lễ tiết và phục vụ du khách. 4- Kỳ võ: Kỳ võ là phép dùng cờ lệnh để điều khiển trận đánh theo hiệu lệnh của người chỉ huy. Cũng như người cử nhạc võ, người sử dụng kỳ võ phải giỏi võ thuật lẫn binh pháp. Múa cờ không đơn thuần là phất cờ, mà còn là một nghệ thuật đòi hỏi cả sức mạnh lẫn sự uyển chuyển trong thân pháp của người thực hiện. Trên chiến trường, nơi xảy ra cuộc chiến một mất một còn giữa hai bên với bao nhiêu giáo mác cung tên, người lính cầm cờ trong tay không tấc sắt. Thế nhưng người lính cầm cờ là mục tiêu dễ nhận thấy nhất và cũng là mục tiêu mà kẻ thù muốn triệt hạ nhanh để áp đảo tinh thần phe đối địch. Sự hiện diện của người cầm cờ có quan hệ mật thiết với cả cánh quân. Lá cờ phất phới tung bay trong gió tượng trưng cho Hồn nước. Trừ khi bị trúng tên đạn, còn nếu bị tấn công theo kiểu xáp chiến thì người cầm cờ có thể dùng cờ làm vũ khí- rút cán tre làm côn, còn lá cờ dệt bằng sợi bông vải hay sợi thao càn khi cần có thể nắm chéo vung ra giật về như một nhuyễn tiên. 5- Y thuật: Giới võ học nghiên cứu rất kỹ khoa học về thân thể con người, từ xương cốt, cơ bắp, lục phủ ngũ tạng, hệ thống các huyệt đạo. Chính vì vậy mà người nắm chắc võ lý, võ thuật thường hiểu kỹ về y thuật. Hầu hết các võ sư đều biết các bài thuốc chữa trật gân, sai khớp, gãy xương. Phổ biến là những võ sư biết thuốc để tự chữa cho mình, cho người nhà và học trò. Có những trường hợp các võ sư chuyên tâm nghiên cứu sâu về y thuật để hành nghề như Hương kiểm Mỹ, Bầu Năm, Trần Dần ở An Vinh. Hương kiểm Mỹ giỏi về thuật bó xương, nhiều ca gãy xương hiểm hóc tới đâu qua tay ông cũng khỏi. Ông Bầu Năm giỏi về mổ xẻ, đã vá môi cho Hương kiểm Cáo khi ông này đấu đài đánh đối phương sụt sườn mỡ, còn mình bị sứt môi. Hiện nay nổi tiếng về thuật bó xương ở Thuận Nhứt có ông Mai Súng. Nhiều bác sĩ ngoại khoa nghe đồn về ông đã tìm tới nơi để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Y thuật trong làng võ bị chi phối bởi các quy tắc và kinh nghiệm gia truyền, đại thể thì giống nhau nhưng trong nghe, khám, chẩn, bốc có sự khác nhau từ khả năng cảm ứng, điều trị đến gia giảm vị thuốc, lượng thuốc. Dược liệu cũng xoay vần thuốc nam, thuốc bắc, các bài thuốc địa phương kết hợp với việc ứng dụng các bài thuốc trong và ngoài nước và các phương thức day, nắn, bóp, bấm huyệt, châm cứu… Công phu nghiên cứu kiến thức võ thuật và y thuật, cũng như sự tinh tế và mẫn cảm của từng ông thầy võ đã quyết định thành công và danh tiếng của họ. |
Bài 5: |
Bối cảnh xác lập ưu thế các bộ môn côn, quyền ở Bình Định |
Trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, sự xâm lược của thực dân Pháp kéo theo sự xuất hiện của các loại vũ khí mới có sức công phá lớn như súng ống, đạn dược. Trong cuộc đấu tranh với quân xâm lược lấy danh nghĩa là Nhà nước bảo hộ, nhân dân ta ở vào thế bị áp bức, bị kiểm soát. Các loại vũ khí truyền thống như kiếm, cung, thương, đao dễ gây chú ý, người Việt phải tính đến phương án hoặc đủ sức thì mua súng ống đạn dược đối đầu với kẻ thù, hoặc nếu ngấm ngầm làm những cuộc nổi dậy thì phải nguỵ trang “qua mắt” giặc bằng nhiều cách, trong đó, việc chọn một vũ khí thích hợp đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đó là lý do vì sao thời chống Pháp là thời của gậy tầm vông ở Nam Bộ; bẫy đá, chông thò ở Tây Nguyên; rựa quéo, gậy (côn) và võ tay không (quyền) ở Trung Bộ, đặc biệt là ở Bình Định. Vào thời kỳ này, tuy vẫn tinh thông thập bát ban võ nghệ, nhưng trong điều kiện bị sự kiểm soát gắt gao của giặc Pháp và tay sai, những nhà yêu nước cũng nhận thấy rằng phải lựa chọn vũ khí thích hợp. Đó là lý do nghĩa quân Mai Xuân Thưởng được rèn luyện kỹ các môn cung, giáo, côn, quyền. Cung để bắn địch khi bị tấn công. Còn giáo sào và quyền thì tận dụng đánh địch mọi nơi mọi lúc. Giáo sào làm bằng tre, một đầu vót nhọn bịt sắt, thoạt trông như một cây gậy dài, không gây chú ý của địch. Khi đánh có thể kết hợp cả chiêu thức của trường côn và thương. Lúc bị mất vũ khí, nghĩa quân giở quyền cước vừa tránh đòn vừa đánh trả đối phương, có khi còn khống chế và cướp được vũ khí trong tay giặc. Sau khi cuộc khởi nghĩa Cần Vương của Mai Xuân Thưởng thất bại, một chiến sĩ của phong trào là Võ Trứ đã lánh vào Phú Yên, gọt tóc tu hành ở một ngôi chùa nhỏ, vừa thuyết pháp vừa bốc thuốc chữa bệnh, thu phục tín đồ, ngấm ngầm vận động lực lượng cứu quốc. Khi hay tin ở Bình Định bộc phát bệnh dịch lớn, người chết như rạ, ông liền về chùa Chánh Danh huyện Phù Cát chữa bệnh cho dân bằng y thuật dưới các hình thức pháp thuật. Hồi bấy giờ nhà yêu nước Trần Cao Vân dưới lốt thầy địa lý từ Quảng Phong trào yêu nước chống Pháp sôi sục ở Bình Định, Phú Yên tuy bị dìm vào biển máu, nhưng nó không làm nguội đi bầu nhiệt huyết của người Bình Định mà ngược lại còn thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc và ý chí phản kháng quật cường. Nhân dân Tây Sơn, những người sống trên mảnh đất phát tích của hai phong trào khởi nghĩa lớn, càng thấm thía nỗi đau mất mát, càng nung nóng hùng tâm tráng khí. Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết là bảo vệ gia đình nòi giống, chống lại sự đàn áp của giặc, kế tục xứng đáng truyền thống anh hùng của ông cha, phong trào học võ, dạy võ, luyện võ phát triển vô cùng mạnh mẽ. Do những đặc điểm của bối cảnh xã hội đương thời, hai bộ môn thời thượng được thế hệ này chuyên tâm trau dồi là côn và quyền. Để rồi sau đó, trong phong trào trai An Thái – An Vinh kháng thuế, võ Bình Định lại một lần lên ngôi từ những chiếc gậy tre mộc mạc và những đường quyền dũng mãnh. |
Bài 6: |
Làng võ và địa danh văn hóa |
Võ Bình Định hình thành theo đơn vị làng, cũng như sự hình thành làng nghề, làng ẩm thực, làng sản vật. Ví dụ địa danh Bàu Đá khiến người ta nghĩ đến rượu ngon, địa danh Chợ Huyện khiến người ta nhớ đến nem, địa danh An Thái người ta liên tưởng tới bún Song Thằng. Hoặc nhắc đến lụa thì có lụa Phú Phong, lụa đậu tư An Ngãi, nhắc đến ngựa thì có ngựa Bằng Châu, nhắc đến rìu rựa cuốc cày thì không đâu thịnh bằng làng rèn Phương Danh… Suy cho cùng đó là sự hình thành các địa danh văn hóa, bao hàm chức năng quảng bá, mách bảo, có thể hiểu nôm na như “thương hiệu” của thời hiện đại. Làng Võ – địa danh văn hóaỞ Bình Định có hàng chục làng võ nổi tiếng. Mỗi làng võ được nhắc tới luôn kèm với các địa danh thực đã tồn tại trong lịch sử làng xã Bình Định nhiều thế kỷ. Làng xưa nhất chừng 600 năm, làng sinh sau đẻ muộn cũng vài trăm năm tuổi. Huyện Tây Sơn có các làng Phú Lạc, Xuân Hòa, An Vinh, Thuận Truyền. Huyện An Nhơn có các làng An Thái, Thắng Công. Huyện Tuy Phước có các làng An Hòa, Kỳ Sơn. Huyện Phù Cát có làng Phú Nhân, Đại An, Hoà Hội. Huyện Phù Mỹ có làng Mỹ Hòa. Huyện Hoài Nhơn có làng Thanh Lương... Tuy nhiên, theo dòng thời gian, giữa địa danh văn hóa với địa danh hành chính không còn hoàn toàn trùng khớp nhau. Tùy thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế xã hội và dân cư, địa danh hành chính có thể bị thay đổi do quyết định của nhà cầm quyền nhằm tạo sự ổn định và phát triển. Trong khi đó địa danh văn hóa có sức sống lâu bền hơn địa danh hành chính, bởi nó đã ăn sâu vào tâm thức quần chúng từ đời này sang đời khác, mà các triều đại cũng không có nhu cầu áp đặt lên nó một sự đổi thay nào. Việc không hoàn toàn trùng khớp nhau giữa một số địa danh văn hóa với địa danh hành chính còn có một nguyên nhân sâu xa nữa. Địa danh hành chính luôn bám chặt vào một địa phận cụ thể. Trong khi đó với địa danh văn hóa, khía cạnh địa phận chỉ mang ý nghĩa xuất phát điểm. Làng võ Thuận Truyền tất nhiên phải hình thành trên đất Thuận Truyền. Song những môn sinh đến Thuận Truyền thụ giáo có thể là người thuộc làng khác, tổng khác, phủ khác, tỉnh khác. Bất kể anh là người ở xứ nào đến học, miễn đường roi anh đánh ra đúng là đường roi chân truyền của họ Hồ Thuận Truyền, thì về khía cạnh võ học, anh vẫn được nhận biết với tư cách tông đồ làng võ Thuận Truyền. Trường hợp khác, không ít truyền nhân của võ An Thái, võ An Vinh đi lập nghiệp đất khách quê người, đã mở võ đường để đào tạo môn sinh, duy trì tinh hoa võ học của tổ đường, của làng võ mà mình đã xuất thân. Lúc bấy giờ, các khái niệm làng võ An Thái, làng võ An Vinh đã thoát khỏi sự ràng buộc cụ thể về địa lý để vươn lên một tầng biểu đạt khác: một dòng võ, một môn phái. Đấy chính là sự mở rộng biên độ khái niệm về địa danh văn hóa. Từ không gian “rộng”: Võ Tây Sơn – Võ Bình Định?Như ta đã biết, Tây Sơn là một huyện của Bình Định. Đặc điểm địa lý của huyện Tây Sơn hàm chứa yếu tố đắc địa của một cái nôi võ thuật: Đồi núi phía tây là sự tiếp dẫn sơn mạch của Trường Sơn trập trùng tráng khí, với những ngọn núi thiêng đã đi vào các thư tịch cổ như ngọn Hánh Hót, ngọn Trưng Sơn (hòn Sung), ngọn Hoành Sơn (có núi Ấn và núi Kiếm), núi Ông Nhạc, núi Ông Bình, núi ông Dũng, hòn Lĩnh lương. Những truông, hang, gò nổng gắn liền với việc luyện quân: gò Tập binh, gò Cấm cố, bãi Tập voi, căn cứ Hầm Hô, mật khu Linh Đỗng… Dòng sông Kôn với những bến sông thịnh đạt về đường mua bán, đồng thời cũng là chốn gặp gỡ đi về của anh hùng hào kiệt: bến Trường Trầu, quán Chiêu Anh gắn liền với bước khởi nghiệp của Nguyễn Nhạc… Những làng xã âm vang như Kiên Mỹ, Phú Lạc, Xuân Hòa, An Vinh, Thuận Truyền, Thuận Nhứt,… Ấy là nơi cúi đầu nghe sông hát, ngẩng đầu nghe núi reo, nhắm mắt nghe roi quyền xé gió. Ấy là Tây Sơn, tiêu điểm của đất võ Bình Định. Huyện Tây Sơn là nơi phát tích của phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, một phong trào được ví là cơn bão táp lịch sử mà tinh hoa của võ thuật Bình Định được phát huy cao độ. Do ảnh hưởng rộng lớn của phong trào, thời kỳ Tây Sơn và hậu Tây Sơn, khái niệm võ Tây Sơn trùng khít với khái niệm võ Bình Định. Hai chữ Tây Sơn đã được sử dụng với hàm nghĩa “nhận diện” một vùng văn hóa rộng hơn rất nhiều so với nghĩa thực. Võ cổ truyền Bình Định bao gồm cả các dòng võ cổ truyền tại Tây Sơn và các dòng võ của các địa phương khác trên tỉnh Bình Định. Nói như thế không có nghĩa là các dòng võ này phát triển độc lập tuyệt đối với nhau. Các đặc điểm chung như có bài thiệu, nguyên tắc “túc bất ly địa” (chân không rời đất) v.v nói lên sự thống nhất tương đối của các dòng võ cổ truyền Bình Định ở những nội dung cơ bản. Ngoài ra, giữa các dòng võ ấy vẫn có nhiều điểm khác biệt. Quyền An Thái đường nét sắc sảo, bay bướm, tiến thoái linh hoạt trong khi quyền An Vinh nghiêng về đánh móc, ra đòn hiểm. Giữa côn pháp các dòng võ cũng có sự phân biệt, đặc biệt các phép roi rút, roi cộng lực, roi đổ thủy, roi nghịch là “đặc sản” riêng của roi Thuận Truyền do Đại võ sư Hồ Ngạnh sáng tạo. Suốt quá trình hình thành và phát triển trên cùng một không gian lịch sử - văn hóa, giữa các dòng võ, các làng võ luôn có sự giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Học hỏi không chỉ hàm nghĩa “xách bị đi nhặt” điều hay của người về bắt chước, mà còn là cách thức “ngảnh cổ mà trông” để rút ra cách khắc chế, để luyện những ngón hay hơn, giỏi hơn. Nhờ vậy, mà võ học Bình Định mới trở thành một di sản nhiều tầng lớp, phong phú và uyên diệu. ... đến không gian “hẹp”: An Vinh, Thuận Truyền, An Thái... An Vinh là tên gọi một làng quê thuộc xã Bình An, huyện Tây Sơn. Sau khi Bình An tách thành 3 xã mới, An Vinh thuộc về địa phận xã Tây Vinh. Đây là một làng quê nông nghiệp thuần tuý nằm ven bờ bắc sông Kôn. An Vinh xưa có cánh đồng Ma Ha (cánh đồng Chúa) rộng lớn phì nhiêu. Bãi sông Kôn rộng, vào mùa hè là nơi luyện võ lý tưởng của trai tráng trong làng. Hồi sinh thời, võ sư Đinh Hề (Hương kiểm Mỹ) vẫn thường ra nằm hàng giờ trên cát nóng để luyện công. An Vinh cách An Thái một con sông, người làng đôi bên vẫn thường qua lại giao lưu mua bán. Thuận Truyền thuộc xã Bình Thuận, một trong Tứ Thuận của Bình Khê (Thuận Truyền, Thuận Hạnh, Thuận Nhất, Thuận Ninh). Phía đông Thuận Truyền giáp núi Nảy (còn có tên là Trà Sơn) cao hơn trăm thước, phía sườn núi ngó thẳng vào làng có một dãy đá chớn chở như gươm. Làng có nhiều bàu. Bàu Suốt dưới chân núi Nảy rộng và sâu, quanh năm có nước. Bàu Năng gần đó, là ranh giới giữa Thuận Truyền với Thuận Hoà. Dân Thuận Truyền sống bằng nghề suốt cá, làm ruộng. Thuận Truyền xưa vừa là tên một thôn, vừa là tên một tổng. Gần đó có một con truông cát vừa rộng vừa dài và nhiều gò mối, trông qua giống như một thế trận tự nhiên. Xưa kia vùng này khá vắng vẻ, ít bị các nhà cầm quyền để mắt nên khách giang hồ thường qua lại, tụ tập. Đứng ở An Vinh nhìn sang bên kia sông là An Thái. Đây là một đô thị cổ phồn thịnh của Tuy Viễn xa xưa, nơi thầy giáo Trương Văn Hiến dừng chân mở trường dạy cả văn lẫn võ. Đức hạnh và chân tài vòi vọi của ông đã biến mái trường sườn tre vách đất mái tranh trở thành trung tâm đào tạo nhân tài của cả một vùng rộng lớn từ Bồng Sơn đến Tuy Viễn, rồi Phú Yên ra, rồi Quảng Ngãi vào. Học trò ông, trong đó có ba anh em nhà Tây Sơn, đều trở thành những văn sĩ võ nhân lừng lẫy không chỉ một đời, và danh tiếng của họ hiển nhiên đã góp phần làm rạng danh cho vùng đất võ An Thái – Thắng Công, nơi họ đã từng miệt mài học tập và tiếp thu những luồng gió thời cuộc qua các sinh hoạt vừa phong phú tưng bừng vừa nhạy cảm bi tráng ở một miền hợp lưu văn hóa. An Vinh và Thuận Truyền tuy không hình thành tầng lớp thương nhân, song xét về vị trí toạ lạc thì vẫn nằm trong ảnh hưởng chung của các tụ điểm đô thị cổ của huyện Tuy Viễn như Phú Phong, An Thái. Dân Thuận Truyền, An Vinh tham gia hầu hết các sinh hoạt hội hè đình đám diễn ra tại An Thái, Phú Phong như lễ hội, hát rạp, hát trường, nhất là các hoạt động võ thuật như thi đấu giữa các môn phái, giữa các làng tổng, đấu dưới đất, đấu trên đài. Như sự sắp bày hữu ý của địa lý và lịch sử, tại các làng này đã hình thành những dòng võ lớn. Ở An Vinh có họ Nguyễn, họ Trần, họ Đinh. Ở Thuận Truyền có họ Hồ, họ Lê. Ở An Thái có họ Trương, họ Lâm, họ Quách, họ Diệp. Võ sư khai môn dòng quyền An Vinh là Nguyễn Ngạc (tức Hương mục Ngạc). Võ sư khai môn dòng roi Thuận Truyền là Hồ Nhu (tức Hồ Ngạnh). Riêng An Thái, một rẻo đất nhỏ về diện tích nhưng lại đầy đặn cơ duyên hội ngộ, mặc nhiên trở thành nơi tồn tại và phát triển 2 dòng võ Việt và Tàu đặc sắc: dòng võ Việt của Lâm Hữu Phong - Lâm Đình Thọ (Hương Kiểm Lài) và dòng võ Tàu của Diệp Trường Phát (Tàu Sáu). Trong khoảng vài mươi năm, làng võ An Vinh do Nguyễn Ngạc vun trồng nở rộ các tài năng: Hương kiểm Mỹ, Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác (tức Hương kiểm Cáo), Hai Tửu, Mười Đậu, Bầu Năm,... Làng võ Thuận Truyền do Hồ Ngạnh khai môn cũng sản sinh những đại danh: Xã Nung, Lê Thành Phiên, Xã Trước, Cả Đang, Tạ Thức, Lê Bá Cừu, Đặng Vĩnh Nghê, Dư Trốn, Hồ Tiền,... Làng võ An Thái, Thắng Công với hai võ đường lớn của họ Lâm, họ Diệp cũng là nơi đào luyện anh tài: Lâm Ngọc Lài, Lâm Ngọc Phú, bà Sáu Sanh, Ba Phùng, Phó tuần Chuẩn, Chín Kỳ, Tám Lẻo, Diệp Bảo Sanh… làm nên diện mạo võ thuật một vùng đất, nối qua nhiều đời. Chính họ, trong đời sống đầy biến động đầu thế kỷ XX, bằng các cuộc thách đấu đã làm nên hào quang của ngọn roi đường quyền đất võ. Các cuộc tỷ thí dậy lên như sóng. Có cuộc các bậc chính nhân quân tử so tài như Tàu Sáu và Chín Ngạnh, Tàu Sáu với Mười Kinh. Có cuộc giăng bẫy bắt cướp như Cai Bảy (Bảy Lụt) phục bắt Dư Đành mà bị Dư Đành tương kế tựu kế đánh nhừ tử. Có cuộc “đến hẹn lại lên”, lâu thì bốn năm một lần như hội Đổ giàn, mau thì xuân thu thượng đài thi đấu giữa các địa phương. Sự tranh hùng tranh bá giữa các môn phái diễn ra thiên hình vạn trạng! Những câu tục ngữ “Trai An Thái, gái An Vinh”, “Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh” ra đời chính từ những “hò hẹn tương phùng” này và ngày càng có sức lan toả mạnh mẽ, sâu rộng... |
Bài 7: |
Quyền An Vinh |
1- Người sáng lập làng quyền An Vinh Người sáng lập làng võ An Vinh là Nguyễn Ngạc, tức Hương mục Ngạc. Ông giỏi cả văn lẫn võ, là bạn thân của tiến sĩ Hoà Cư Hồ Sĩ Tạo. Theo lời truyền trong dân gian và dòng họ, bà tổ cô của Nguyễn Ngạc là thầy dạy nữ tướng Bùi Thị Xuân. Điều này cho thấy Nguyễn Ngạc xuất thân trong một gia đình có truyền thống võ học lâu đời. Tiếp thu sở học của tổ phụ và nhiều võ sư tiền bối, ông đã chuyên tâm nghiên cứu về quyền, sáng tạo ra nhiều thế đánh ưu việt. Trong đó, phải kể đến ngón song xỉ cực kỳ lợi hại. Những bài tiêu biểu là Ngọc Trản, Thần đồng, Thiền sư, Tứ hải, Lão mai… Mỗi bài quyền An Vinh gồm lời thiệu và động tác. Các phách quyền cơ bản là Lưỡng diện, Tứ môn, Rút, Găm, Tự, Song cước, Định cước, Nghịch lân.Quyền An Vinh thiên về đánh hiểm, đánh móc. Đặc điểm của quyền An Vinh là đánh không hết tay, phản đòn nhanh, liên tục. “Roi tiên, quyền tiếp”, đi trước là chỗ mạnh của roi, liên tục là chỗ mạnh của quyền. Khi đánh, phải áp sát đối phương thì mới có lợi thế. Trong đời võ sư của Hương mục Ngạc, sự kiện đáng nhớ nhất là việc ông đứng ra hiệu triệu trai tráng An Vinh, An Thái làm lực lượng nòng cốt cho phong trào kháng thuế của đồng bào Bình Định năm 1908. Nguyên phong trào này dấy lên từ Quảng Có thể nói sự hỗ trợ của lực lượng võ sĩ địa phương dưới sự điều động của Hương mục Ngạc đã cùng với quần chúng kháng thuế hợp thành sức mạnh tổng hợp về nội lực lẫn tinh thần, dậy lên khí thế hào hùng rừng rực. 2- Một số nhân vật nổi danh của dòng quyền An Vinh: Hương mục Ngạc có rất nhiều học trò và những học trò do ông đào tạo đều trở thành những võ nhân ưu tú của một thời. Học trò chính là gia tài lớn nhất của ông và làng võ An Vinh. Trước hết phải kể các con ông như Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác; các học trò khác có Sáu Hà, Hương Kiểm Mỹ, Tám Tự, Hai Tửu... Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An, sáng dạ, hiếu học, sức khoẻ hơn người, được cha truyền dạy cho mọi bí quyết về quyền. Trong các cuộc thách đấu so tài, Bảy Lụt thường thủ thắng nhờ biết vận dụng chiêu cầm nã vào các thế vật. Hồi bấy giờ ở phủ Quy Nhơn có đảng cướp Dư Đành khét tiếng. Trong dân gian có Vè Dư Đành, miêu tả: Dư Ðành sức mạnh quá trâu Vùng lên đánh ngã cả xâu triều đình (Ca dao) Người ta ghê sợ Dư Đành không chỉ về thủ đoạn cướp của tàn độc mà còn ở sức mạnh vô địch. Nỗi ám ảnh về Dư Đành lớn đến nỗi người lớn đem hắn làm ông kẹ để doạ trẻ con. Đứa bé nào biếng ăn, không ngoan, người lớn đe: “Ăn đi, không thì ông Dư Đành bắt mất”, “Không được hư, Dư Đành kìa!”v.v Nhà cầm quyền treo giải thưởng cho ai bắt được Dư Đành. Bảy Lụt không ham tiền, nhưng nghe nói không ai dám đương đầu Dư Đành thì máu con nhà võ nổi lên. Bảy Lụt tuyên bố sẽ bắt Dư Đành. Nghe đồn Dư Đành thường tập trung của cải cướp được ở Thuận Ninh, nơi giáp giới Bình Khê và An Khê, Bảy Lụt rủ hai người bà con cũng là võ sĩ lên vùng này tìm kiếm. Nơi Bảy Lụt chạm trán Dư Đành gần Suối Bèo. Đồng bọn của Dư Đành đông quá, hai người cùng đi với Bảy Lụt bị chúng đánh phải bỏ chạy tháo thân. Bảy Lụt giở chiêu cầm nã vật ngửa được Dư Đành xuống đất, nhưng bị Dư Đành dùng thế khoá tay chân nên ngồi trên mình đối phương mà không sao đánh được. Đồng bọn Dư Đành xô tới dùng rựa quéo đánh vào đầu và lưng, Bảy Lụt bị ra máu nhiều, ngất đi. Khi Dư Đành hất xuống đất, Bảy Lụt hồi tỉnh nhưng kiệt sức nằm im. Bọn đàn em Dư Đành định giết Bảy Lụt nhưng Dư Đành không cho. Được hai người bạn của Bảy Lụt báo tin, người làng đốt đuốc chạy tới nơi thì bọn Dư Đành đã bỏ đi. Bảy Lụt được đưa về cứu chữa hơn ba tháng mới lành, người đầy sẹo. Tuy thất bại trong việc bắt Dư Đành, nhưng sự can đảm của Bảy Lụt truyền khắp trong phủ. Sau khi bình phục, Bảy Lụt ngày đêm miệt mài luyện tập và trở thành tay quyền xuất chúng. Năm 1935, Bảy Lụt cùng em là Chín Giác và bạn học là Đinh Hề (Hương Kiểm Mỹ) tham dự cuộc đấu võ đài toàn quốc tại Huế. Ông và đồng đội thắng lớn, giành Huy chương vàng cho đoàn Bình Định. Từ trận đấu đài này danh tiếng quyền An Vinh càng bay xa. Bảy Lụt có nhiều học trò. Trong số đó có võ sư Phan Thọ ở Bình Nghi, được giới võ thuật Bình Định ngày nay thừa nhận là người truyền thừa chính thức của môn phái quyền An Vinh, chúng tôi sẽ đề cập kỹ ở sau. Tám Cảng là con gái yêu của Hương mục Ngạc, em kề Bảy Lụt, được cha anh rèn cặp kỹ càng nên rất giỏi quyền thuật. Đã từng theo các anh em sang An Thái tham dự các trận cướp heo trong lễ đổ giàn. Tám Cảng xinh đẹp, nhưng võ quá giỏi nên tính khí bướng bỉnh. Hương mục Ngạc thông báo kén chồng cho con với lời thách: chàng trai nào đấu thắng Tám Cảng thì ông gả con. Vài chục chàng trai đến thử sức đều bị Tám Cảng đánh bại. Dư Hữu ở Tiên Thuận hay tin tìm tới. Đấu được vài chiêu Dư Hữu bị Tám Cảng đá văng xuống ao cá. Dư Hữu ra về tìm thầy học tiếp, năm sau lại sang. Qua mấy hiệp, Dư Hữu giả vờ sơ hở. Tám Cảng định giở thế đá cũ. Chỉ đợi có vậy, Dư Hữu lạng người nắm cổ chân quẳng Tám Cảng nằm dài trên bờ giậu. Hai người nên vợ nên chồng, nhưng tính khí xung khắc nên thường lời qua tiếng lại. Một lần cãi nhau, Dư Hữu không chịu nổi lia cái chén sành vào mặt vợ, Tám Cảng vừa đưa tay bắt, vừa nói mỉa. Dư Hữu cả giận sẵn cái dao chuốt mây trong tay phóng sang, Tám Cảng né người tránh được. Dư Hữu giật mình sực tỉnh, chạy một mạch đến quỳ trước ông Hương mục Ngạc chịu tội và xin dứt nghĩa vợ chồng với Tám Cảng, với lý do hai người không hợp nhau, e rằng sự nóng nảy của đôi bên sớm muộn sẽ dẫn tới cơ sự không hay. Hương mục Ngạc gọi con gái sang hỏi chuyện, cuối cùng đành chấp nhận cho họ bỏ nhau. Tám Cảng từ đó sống độc thân, sớm khuya hầu hạ cha già và giúp cha dạy võ. Dân An Vinh hãy còn truyền chuyện Tám Cảng bắt ngựa một phú hộ ở Mỹ Yên. Nhận lời thách đố, Tám Cảng lẻn vào chuồng ngựa. Mọi người rình xem thì thấy lúc mờ sáng, một bóng ngựa vọt khỏi chuồng chạy thẳng mà không có người cưỡi trên lưng. Đến điểm hẹn ở Thuận Ninh, Tám Cảng từ dưới bụng ngựa chuyền lên lưng ngồi lẫm liệt như một nữ tướng. Hoá ra cô Tám nằm đeo sát bụng ngựa, hai chân kẹp cổ ngựa và dùng tay nắm dái ngựa để điều khiển. Con ngựa này Tám Cảng cưỡi về trả cho chủ cũ. Biết con gái rượu của Hương mục Ngạc giở trò nghịch ngợm, ông phú hộ Mỹ Yên chỉ biết chắp tay vái dài. Hai Tửu là cháu gọi Hương mục Ngạc bằng cậu. Hương mục Ngạc xem tướng mạo Hai Tửu, không chịu nhận làm học trò, nhưng vẫn dạy cho một số bài quyền hộ thân. Hai Tửu học lóm rất nhanh, và trở thành một tay quyền nổi tiếng. Hai Tửu hay sang An Thái thách đấu và đấu thường thắng nên rất nghênh ngang. An Thái có Tàu Sáu nổi danh về võ, nhưng Hai Tửu có ý không phục. Nhân dịp nhà Tàu Sáu đám giỗ, ông tìm sang tận nơi thắp hương rồi đợi lúc ăn uống thù tạc xong xuôi, ngỏ lời xin giao đấu. Tàu Sáu vui vẻ nhận lời ra sân. Chỉ qua vài đường, Hai Tửu bị Tàu Sáu tung một cước ngã nhào. Cú đá không để thương tích, nhưng từ đó Hai Tửu thật sự kính phục Tàu Sáu. Thất bại là mẹ thành công, trận thua đau không làm Hai Tửu nhụt chí, mà còn đánh thức trong ông niềm khao khát vượt lên. Ông tìm những bậc cao nhân để học hỏi và chuyên tâm tập luyện, được giới võ học xếp vào chiếu những tay quyền danh tiếng của An Vinh. Hai Tửu có một học trò xuất sắc là Mười Đậu, sức lực ngang ngửa với Bảy Lụt. Mười Đậu mê hát bội, thường nhận gánh đồ thuê cho các gánh hát, thực ra là thủ vai bảo vệ. Trong đời sống rày đây mai đó, đụng chạm thử thách nhiều, nhưng nhờ võ nghệ cao cường mà Mười Đậu nhiều phen thoát hiểm. Ông cũng là một tay quyền nổi danh đương thời. Tám Tự là học trò Hương mục Ngạc. Học trò Tám Tự là Nguyễn Thái Bảng, một con sư tử trên các sàn đấu võ. Hương kiểm Mỹ tên thật là Đinh Hề, học trò của Hương mục Ngạc, được thầy thương như con đẻ, đem hết sở học truyền dạy. Trong số các học trò giỏi của Hương mục Ngạc, chỉ có Hương kiểm Mỹ nối được chí thầy. Ông không những lập được nhiều thành tích võ học vẻ vang trên các võ đài quốc gia, làm rạng rỡ sư môn và danh hiệu quyền An Vinh, mà còn thông hiểu võ kinh, sâu sát thực tế, chuyên tâm nghiên cứu và sáng tạo nhiều chiêu thức uyên diệu, trở thành một danh sư về quyền thuật. Tương truyền, ông có một thế móc mắt rất hiểm, và trong đời chỉ áp dụng một lần. Thế võ này ông tuyệt đối không truyền cho bất cứ một đệ tử nào. Hương kiểm Mỹ còn là một danh y lẫy lừng về thuật bó xương. Các học trò xuất sắc của Hương kiểm Mỹ có thể kể Văn Xuân Ngọc, Trần Dần, Đinh Văn Tuấn… đều là những võ sư nổi tiếng ở Bình Định. Võ sư Trần Dần nổi danh với trận đánh hạ võ sư Nam Hàn. Vào năm 1969, Liên đoàn 6 ngụy quân đóng tại khu 6 Quy Nhơn mời một võ sư đệ ngũ đẳng huyền đai Nam Hàn dạy võ cho lính ngụy. Tên này hay ra ngoài, tỏ thái độ tự cao tự đại, ngông nghênh hống hách, mọi người rất bất bình. Một bữa hắn ra mặt thị uy với nhóm thanh niên mới bị bắt quân dịch. Người bạn của Trần Dần tên là Sủng nói nhỏ: “Cho nó một bài học.” Trần Dần vừa nheo mắt ngó tên huấn luyện viên khuỳnh khuỳnh đi qua đi lại, vừa cười cười hỏi bạn: “Đánh hé?”. Người bạn gật đầu. Trần Dần bước ra trước mặt tên kia, ra hiệu thách đấu. Hắn trừng mắt nhìn ông từ đầu tới chân rồi tung cước vô mặt. Ông bỏ ngựa hụp nhẹ xuống tránh đòn rồi xoay người giở trảo đánh móc lên. Tên huấn luyện viên trúng đòn ngã cái uỵch. Mọi người vỗ tay rầm rầm. Trần Dần ngơ ngác: “Uở? Ngã rồi na?”. Tên huấn luyện viên lồm cồm bò dậy, mặt tím tái vì giận dữ. Võ sư Đinh Văn Tuấn là một trong những nhân vật đi nhiều, học rộng. Ông học nhiều thầy, nhưng chủ yếu là Hương kiểm Mỹ. Ông thạo cả quyền lẫn roi, sử dụng tốt các môn binh khí, lại là một tay đánh trống trận tài hoa từng làm xôn xao dư luận quốc tế. Ông có công giữ gìn và truyền bá tinh hoa võ cổ truyền Bình Định trên cả hai phương diện lý luận và thực hành. 3- Lò võ Phan Thọ, nơi giữ lửa của dòng quyền An Vinh Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, quê ở xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn. Bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi và học ròng rã 18 năm, lòng say mê võ thuật đưa bước chân ông lặn lội khắp các nẻo đường tầm sư học đạo, mê đến mức nhiều phen “xin” vợ bán ruộng bán bò để học. Ông thọ giáo rất nhiều thầy. Các môn quyền, roi, kiếm, đao, thương ông học thầy Nguyễn An (Bảy Lụt) và Diệp Trường Phát (Tàu Sáu). Các môn kích, giản, phủ, chùy, bồ cào, lăn khiên, ông học thầy Lê Hải (Sáu Hà) và Đinh Hề (Hương Kiểm Mỹ). Các môn côn, thước, dây xích, xà mâu, chấn thiên cung, độc bút, chỉa ba, ông học thầy Hồ Nhu (Hồ Ngạnh). Vốn liếng võ thuật của ông là sự kết hợp của nhiều môn phái thuộc ba làng võ nổi tiếng An Thái, An Vinh, Thuận Truyền xưa. Sở trường của ông là quyền, nhưng ông sử dụng nhuần nhuyễn 18 binh khí và giỏi cả những món võ vườn, như rựa quéo, đòn xóc. Dù đã hơn 40 năm, chuyện Phan Thọ dùng chỉa ba đánh chết heo rừng để bảo vệ đồng bào gặt lúa vẫn còn râm ran trong dân gian vùng Tây Sơn. Vào giữa thế kỷ XX ở miền Các thế hệ học trò của võ sư Phan Thọ có đủ các thành phần Bắc, Trung, Nam như : Đỗ Hượt, Phan Thanh Sơn, Phan Đức, Lê Công Hoàng, Lê Văn Nhì, Nguyễn Thi, Nguyễn Nà, Phan Văn Bảy, Đặng Văn May, Nguyễn Khánh, Lê Văn Ký, Đinh Văn Khả, Nguyễn Tích, Trần Văn Tất, Đặng Văn Dũng, Phan Đức Thái, Đinh Ngọc Sang, Lê Văn Pháp… Đỗ Hượt là nhân vật đã trở thành huyền thoại những năm sáu mươi không chỉ với đòn chẻ hổ khẩu đánh nốc-ao võ sĩ đệ ngũ đẳng huyền đai người Nam Hàn tên Lee trên sàn đấu Tây Sơn, mà còn nổi tiếng vì trận giáp chiến có một không hai tại cầu Đập Bộng – một mình ông đương đầu với một trung đội lính Nam Hàn trang bị lưỡi lê sáng quắc, giữa hai cuộn thép gai dã chiến. Bị chúng bao vây và tới tấp đâm lê vào người, Đỗ Hượt phải dùng hết sở trường về quyền để vừa đánh vừa tránh đòn. Ông bị lưỡi lê xóc vào môi, vào sườn, phải chọn cách lăn mình trên cuộn kẽm gai rồi chui xuống cống Đập Bộng để thoát thân. Trong số các học trò của Phan Thọ, rất nhiều người đã thành danh và được phong võ sư như Phan Thanh Sơn, Lê Công Hoàng... Nhiều người đăng quang trên các sàn đấu võ cổ truyền quốc gia như Kim Dũng, Phan Trường Hận... Nguyễn Xuân Nam - một võ sĩ trẻ trong đội võ thuật của Bảo tàng Quang Trung, vừa tham gia công tác biểu diễn, vừa được giao trách nhiệm truyền nghề cho một số diễn viên mới - cũng là học trò chân truyền của võ sư Phan Thọ. Những năm còn khoẻ, vào ngày mồng 9 tháng giêng ông mang lễ vật về thắp hương tại ngôi nhà tổ (từ đường họ Nguyễn) ở An Vinh. Mươi năm trở lại đây, do tuổi cao sức yếu, ông tổ chức giỗ tổ tại nhà và gửi thiệp mời tất cả đồng môn sư đệ về dự. |
Bài 8 |
ROI THUẬN TRUYỀN |
1- Hồ Ngạnh và đường roi tuyệt kỹ vang danh đất Thuận Truyền Trong lịch sử võ cổ truyền Bình Định, nói đến roi Thuận Truyền, nhân vật mà người ta nhắc tới trước tiên với niềm tự hào và lòng tôn kính vô bờ là Hồ Ngạnh. Thật ra Ngạnh là tên con, còn tên thật của ông là Hồ Nhu. Ông sinh năm 1886, quê quán ở thôn Háo Nghi, xã Bình An, trú quán tại thôn Hòa Mỹ xã Bình Thuận, thuộc tổng Thuận Truyền huyện Bình Khê. Theo gia phả họ Hồ, song thân Hồ Nhu - ông Đốc Năm (Hồ Đức Phổ) và bà Lê Thị Huỳnh Hà - đều là những võ nhân cao thủ, đặc biệt là bà mẹ, đã ảnh hưởng rất quan trọng đến việc đào tạo tài năng võ thuật của con trai, đồng thời có công lớn trong việc khai sáng dòng võ họ Lê và họ Hồ trên đất Thuận Truyền. Hồ Nhu được thọ giáo với nhiều thầy học khác nhau, học cả quyền và thập bát ban võ nghệ. Những võ sư mà Hồ Nhu theo học là Đội Sẻ, Hồ Khiêm… Song hai người thầy ảnh hưởng quan trọng nhất trong cuộc đời Hồ Nhu là mẹ ông và một người thầy khuyết danh (bạn của cha ông, từng là tạo sĩ võ). Hồ Nhu sở trường về roi và thành danh cũng về roi. Đường roi của ông được giới chuyên môn truyền tụng là tuyệt kỹ vô song. Trong vô vàn giai thoại về vị võ sư khai môn dòng võ Thuận Truyền này, riêng chuyện ông học roi, luyện roi cũng đủ khiến ta khâm phục về tinh thần khổ luyện. Năm Hồ Nhu tròn mười hai tuổi thì bà Lê Thị Huỳnh Hà nhờ một võ sư trong vùng dạy võ, tối về bà kiểm tra và uốn nắn cho con những chỗ sai. Khi thấy con đã thạo ngũ hành, thất bộ, bà bắt đầu dạy roi. Những đêm trăng sáng, bà dẫn con ra truông vắng, chọn một khoảnh đất bằng, chỉ dẫn từng chiêu thức. Người mẹ dùng than vẽ một vòng tròn trên mặt đất, cho phép con chỉ được di chuyển trong phạm vi vòng tròn đó. Bà yêu cầu rất cao về sự chuẩn xác trong đường nét, thân pháp và rèn tính cẩn trọng. Để thử uy lực trong đường roi của con, bà lấy bốn cái đĩa lớn đựng dầu phụng (dầu lạc), mỗi đĩa ngâm một ngọn bấc, đặt quanh vòng tròn rồi châm lửa vào đầu bấc. Bốn ngọn lửa bừng lên, khi nào ngọn gió từ đường roi phát ra làm tắt phụt cùng lúc là đạt. Trong võ thuật, vũ khí không chỉ để công mà còn là để thủ. Công hay thủ đều đòi hỏi sự tinh nhạy của người đánh. Lúc Hồ Nhu đã tiến bộ, mỗi khi cậu múa roi, bà mẹ di chuyển xung quanh, dùng sỏi ném vào. Sỏi trúng vào roi vào người cắc cắc, bụp bụp. Ban đầu cậu đỡ đòn còn vụng về, sau điêu luyện dần, đường roi vun vút, tiếng sỏi va cắc cắc mỗi lúc một giòn. Những vốc sỏi ném vào bị đường roi của Hồ Nhu gạt rụng rào rào như một cơn mưa. Việc ông tạo sĩ võ đến lánh nạn tại nhà họ Hồ là cơ duyên đặc biệt để Hồ Nhu tiến tới bước “đại thành” trong kỹ thuật đánh roi. Vị tạo sĩ này rất giỏi roi Kinh, thời còn tại triều ông đảm trách việc luyện roi cho quân cấm vệ hoàng thành. Trong những ngày lưu lại Thuận Truyền, khảo sát tâm tính và vốn võ nghệ của Hồ Nhu, ông tạo sĩ nhận ra một năng khiếu võ học hiếm có. Để đền ơn bạn đã cưu mang, ông quyết định luyện các ngón roi bí truyền cho cậu thiếu niên. Người con đầu của Hồ Nhu tên là Ngạnh. Theo phong tục Bình Định, người ta gọi cha mẹ bằng tên con. Gọi riết thành quen, người đời gần như chẳng mấy ai nhắc tới tên húy của ông mà gọi luôn là Hồ Ngạnh. Đặc điểm roi Hồ Ngạnh (hay đặc điểm roi Thuận Truyền) là lấy nghịch chế thuận, vận dụng triệt để phép âm dương để trả đòn, để đánh hạ đối thủ. Đường roi Lạc Côn Hồ Nhu học từ Hồ Khiêm là đường roi tuyệt kỹ với nguyên tắc cộng lực, dựa sức đối phương để đánh lại đối phương. Còn ngón roi đánh nghịch độc đáo do vị tạo sĩ võ truyền cho, Hồ Nhu chỉ dùng đến khi đối phương là cao thủ mà để lộ sát khí, tức là có ý hãm ông vào chỗ chết. Tương truyền ngọn roi khai tử của ông chấm vào sa mỡ của kẻ nào, là kẻ đó cầm chắc cái chết trong vòng ba, bảy ngày. Roi đổ thủy (một đầu chúc một đầu ngửa), roi rút (đánh hai đầu) và roi điểm huyệt cũng là các tuyệt chiêu của ông. Những ngón roi này ông chỉ truyền cho một vài học trò tâm đắc. Mỗi bài roi Thuận Truyền - nay đã khá phổ biến ở Bình Định - gồm lời thiệu và động tác. Lời thiệu để dẫn dắt động tác, còn động tác là các đòn thế được tổ chức theo các phách roi cơ bản. Các phách roi cơ bản là Bát, Bắt, Triệt, Chận, Hoành, Khắc, Lắc, Tém. Bát: phá đòn đánh từ trên xuống; Bắt: phá đòn đâm từ nửa thân trên; Triệt: phá đòn đánh tạt ngang sườn; Chận: phá đòn đánh phất của đối phương; Hoành: đưa ngang roi bên trái rồi bên phải để lựa thế tấn công địch thủ; Khắc: làm cho roi của đối phương văng ra xa; Lắc: né đòn tấn công đâm thẳng từ thắt lưng trở lên; Tém: tóm gạt tất cả đầu roi, đòn đâm thẳng của đối phương. Trong đó, có phách nặng về thủ, có phách nặng về công, cũng có phách vừa thủ vừa công. Roi tiên quyền tiếp. với môn roi, bên ra đòn trước thường chiếm thế thượng phong. Nhưng không phải lúc nào, trận nào anh cũng gặp thuận lợi để ra đòn trước, do đó phải biết thủ để tìm cơ hội. Thủ không có nghĩa là né đòn thụ động, mà phải biết cách phá trừ đòn của đối phương rồi liền đó ra đòn tiêu diệt đối phương. Cũng có khi thủ là một cách trá bại để nhử đối phương vào thế. Các phách roi được sử dụng không phải nhất nhất theo thứ tự trên, mà phải linh hoạt. Linh hoạt ở chỗ không chỉ vận dụng phách nào thích hợp, mà còn biết chuyển hóa hư thực trong từng phách. Sự linh hoạt ấy biểu hiện đa dạng, nhưng có thể rút ra mấy đấu pháp: dùng thủ để công, trước thủ sau công, trừ công để thủ, thủ giả công thật. Tiếng tăm con nhà võ đi liền với thành tích trong giao đấu. Nhưng việc săn tìm danh tiếng là xa lạ với tính cách Hồ Ngạnh, vì ông trầm tĩnh, ít nói và chẳng bao giờ khoe khoang. Song ở đời hữu xạ tự nhiên hương, tiếng đồn Hồ Ngạnh giỏi roi khiến nhiều cao thủ tò mò. Một bữa nọ ông đang tắm ở giếng thì một người đi đường bước tới hỏi xin nước uống và cầm cái gáo dừa chờ ông sớt nước cho. Hồ Ngạnh vừa cúi xuống lấy gàu thì vị khách nọ vung gáo đập vào đầu. Nghe hơi gió, ông vung ngay dây gàu đỡ thân gáo rồi sẵn đà co chân xuất cước đá văng vị khách vô lễ khỏi thềm giếng. Một lần khác Hồ Ngạnh đi ăn giỗ về hơi tối, bất chợt một bóng đen từ bụi rậm vác đao nhảy ra đón đường. Ông rút khăn lông trên vai vung lên, trong nháy mắt đoạt gọn cây đao. Bóng đen chắp tay xin lỗi. Hỏi, người ấy thưa rằng nghe đồn ông Ngạnh giỏi nên muốn thử sức. Hồ Ngạnh chỉ cười không nói, quăng trả cây đao, đi thẳng. Các võ nhân thử tài Hồ Ngạnh thì nhiều, nhưng có hai nhân vật nổi tiếng nhất là Dư Đành và Tàu Sáu. Dư Đành, như đã nói, là một cao thủ võ lâm đương thời, cầm đầu một đảng cướp, hoành hành khắp vùng Tuy Viễn. Nghe tiếng Hồ Ngạnh Thuận Truyền, Dư Đành bèn nhắn tin hẹn gặp. Đêm đến, Hồ Ngạnh một mình một roi ra điểm hẹn. Bè đảng Dư Đành chờ sẵn, mời ông hợp tác làm ăn. Hồ Ngạnh từ chối. Bên Dư Đành ra điều kiện nếu đấu thua phải gia nhập đảng cướp. Hồ Ngạnh chỉ cười khẩy. Thế là điểm hẹn nơi truông vắng xảy ra một trận thư hùng. Mặc dù bên đối phương đông, Hồ Ngạnh không hề nao núng. Đàn em Dư Đành tuy vào hàng cao thủ, nhưng đều không phải là đối thủ của Hồ Ngạnh. Khi bọn đàn em bị đánh rạp, Dư Đành mới lộ diện. Ngoài sức mạnh vô địch, Dư Đành còn có võ công lão luyện, nhưng trước đường roi thượng thừa của Hồ Ngạnh, tên chúa đảng khét tiếng không sao tìm ra chỗ hở. Thấy Dư Đành ỷ sức hung hăng, Hồ Ngạnh sử dụng tuyệt kỹ, đá văng thiết bản khỏi tay đối phương rồi xoay người giở thế đánh nghịch. Ngọn roi phăng tới, Dư Đành biết kết cục đã đến, nhắm mắt chờ đợi, nhưng tay roi vừa chạm áo đối phương Hồ Ngạnh đã thu về. Nhưng Dư Đành vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Một hôm Dư Đành cho đàn em lên rẫy Hồ Ngạnh nhổ hết củ mì (củ sắn) chất thành mấy giỏ lớn và cho người về báo cho Hồ Ngạnh rằng Dư Đành đang ở rẫy mì, nhắn Hồ Ngạnh ra gặp. Lúc Hồ Ngạnh tới nơi chỉ thấy mấy giỏ mì và đòn gánh để sẵn chứ không thấy người. Đoán rằng Dư Đành âm mưu chờ mình quảy mì về sẽ tấn công nên Hồ Ngạnh quay về tay không. Quả nhiên Dư Đành đã phục sẵn bên hàng rào chè của một nhà gần đường đi với một cái bắp cày bằng gỗ kiền kiền nặng trịch. Hồ Ngạnh vừa trờ tới, Dư Đành vung bắp cày ngang cổ ông đánh phạt qua. Nghe hơi gió, Hồ Ngạnh trụt xuống, bắp cày của Dư Đành đang đà phạt ngang cây bồ lời đứt tiện làm đôi như dao chém chuối. Nhanh như chớp, Hồ Ngạnh di ngựa áp sát tới, chụp ngang bắp cày trên tay Dư Đành, rồi vận dụng phép cộng lực trong thế lạc côn, biến sức đối phương thành sức của mình, hất mạnh Dư Đành lọt vào giữa bụi tre đánh roạt. Mắc kẹt giữa bụi tre um tùm không cách nào thoát được, Dư Đành cất tiếng xin Hồ Ngạnh tha tội và đưa giúp mình ra ngoài. Hồ Ngạnh giận, nói: “Chú đánh hiểm vậy, tôi né không kịp thì đứt đầu rồi, còn xin tha sao?”. Dư Đành hạ mình: “Tôi biết thế nào anh Chín cũng né được. Xin anh Chín rộng lượng bỏ qua. Từ nay tôi không dám nữa.” Hồ Ngạnh thấy Dư Đành van nài tha thiết quá, bèn mượn cây rựa phát tre cho Dư Đành ra ngoài. Xúc động trước sự đối xử cao thượng của họ Hồ, Dư Đành quỳ gối cúi đầu tạ tội và thề sẽ không bao giờ dám xâm nhập đất Thuận Truyền. Quả nhiên từ đó về sau, Dư Đành giữ đúng lời hứa. Tàu Sáu- Diệp Trường Phát, là một võ sư người Minh Hương ở An Thái. Việc thử tài của ông với Hồ Ngạnh là một ước định hữu hảo với hai môn côn, quyền, nhằm tìm hiểu tài nghệ của nhau nên giao hẹn không gây thương tích, chỉ dùng mực ghi dấu trên y phục của đối thủ. Cuộc tỷ thí của hai ông diễn ra trước sự chứng kiến của rất nhiều người, lấy thời gian tàn một cây nhang tính một hiệp giao đấu. Qua mỗi hiệp hai người tự thông báo trên người mình có bao nhiêu dấu mực của đối phương. Về quyền, mặc dù số dấu mực trên y phục hai bên bằng nhau, nhưng khi xem lại thì dấu mực Tàu Sáu trên áo Hồ Ngạnh nhạt hơn. Ông Ngạnh thẳng thắn thừa nhận mình thua Tàu Sáu một bậc. Người xem thắc mắc, ông phân tích: Đường quyền thế cước của Tàu Sáu hàm chứa sức mạnh giông bão, nếu đi trọn có thể đoạt mệnh hoặc gây chấn thương nặng cho đối phương, nhưng do đã đạt đến mức vận hành công lực như ý nên dấu mực vừa điểm nhẹ trên áo Hồ Ngạnh, Tàu Sáu liền thu khí công về trong nháy mắt. Về côn, hai ông cũng giở tất cả sở trường ra thi đấu, người xem không còn thấy rõ bóng người, chỉ thấy đường côn loang loáng và tiếng côn đập vang lên bôm bốp. Khi vừa tàn cây nhang, hai ông dùng thế hồi loan nhảy vút ra ngoài, bái tổ, rồi chào nhau, sắc diện vẫn điều hòa tươi tỉnh. Họ lại tự báo với nhau số dấu mực trên người. Tàu Sáu mang nhiều dấu mực hơn, ông kính cẩn hoành côn xá ông Ngạnh, ứng khẩu: “Đoản côn Thuận Truyền duy hữu chủ”, nghĩa là: Đoản côn chỉ có Thuận Truyền (Hồ Ngạnh) làm chủ. Hồ Ngạnh mất năm 1976. Các học trò thống nhất tôn ông làm tổ sư của môn phái và lấy ngày giỗ ông (mồng 6 tháng 2 âm lịch) làm ngày giỗ Tổ hàng năm. Buổi sinh thời cũng như sau khi ông khuất bóng, vì tài năng và uy tín võ học của ông quá lớn, nên ở quê hương ông, các thế hệ hậu sinh và khắp một vùng dân cư rộng lớn, khi nhắc đến vị võ sư đệ nhất tài hoa này đã dùng danh xưng Ông Chín để tránh gọi tên húy lẫn tên tục của ông. Tuy vậy, trong những hồi ức hào sảng về ông, hai chữ Hồ Ngạnh vẫn buột ra trên môi người kể chuyện với một niềm tự hào khó tả. Hoặc đang một ván cờ tướng, người đi được một nước cờ hiểm đắc ý khoe đó là “nước cờ ông Ngạnh”. Ông như vẫn đang sống cùng mạch đời, ẩn hiện trong những đường roi kỳ diệu của đất võ Thuận Truyền. 2- Một số nhân vật nổi danh của dòng roi Thuận Truyền Hồ Ngạnh có nhiều học trò giỏi: Xã Nung, Lê Thành Phiên, Xã Trước, Cả Đang, Tạ Thức, Xã Thọ, Hương bộ Lâm, Hương bộ Trọng, Huỳnh Xuyến, Hồ Tiền, Lê Bá Cừu, Dư Trốn, Nguyễn Song Bá, Tạ Cảnh, Sáu Được, Lâm Như Hiệp, Bảy Ghình, Hương bộ Trấp, Cửu Quyền, Dư Đính, Đặng Vĩnh Nghê, Hồ Sừng, Phan Canh, Đào Sĩ Tần, Lê Kim Bá, Phan Hộ, Lê Công Chanh, Dương Công Đạo, Mai Xuân Thiện. Hiện nay cháu nội của ông là Hồ Sừng tiếp tục nối nghiệp lò võ của ông. Xã Nung tên thật là Nguyễn Thức, người làng Háo Đức, là học trò lớn nhất của Hồ Ngạnh. Ông giỏi võ, nhưng lầm lì ít nói và không tham gia vào các cuộc cao đàm khoát luận. Hai thôn Bính Đức vào Háo Đức cùng sống về nghề làm ruộng, thường có sự tranh chấp về nước tưới. Đêm đêm dân Bính Đức ra tháo nước khiến cho ruộng Háo Đức bị khô. Người làng Háo Đức phẫn nộ nhưng ngại dân Bính Đức giỏi võ nên phải chịu thiệt. Xã Nung biết chuyện, một mình vác cuốc ra đồng đắp nước ruộng. Dân Bính Đức được tin, kẻ gậy gộc, người rựa quéo, đòn gánh ầm ầm kéo lên gây sự. Xã Nung không nói không rằng, bập lưỡi cuốc xuống bờ đất thịt, bẻ phăng cán cuốc làm roi, đánh tan cả mấy chục người. Từ đó dân Bính Đức không dám tháo nước ruộng làng Háo Đức nữa. Lê Thành Phiên, tục gọi Hương bản Hào, là cháu họ của bà Lê Thị Huỳnh Hà. Lê Thành Phiên là đệ tử ruột của võ sư Hồ Ngạnh. Buổi sinh thời của sư phụ, ông được Hồ Ngạnh dẫn theo trong các du lãm. Các cao thủ không dám vô phép với Ông Chín, nhưng họ lại rất muốn đo lường quyền thuật và côn pháp Thuận Truyền nên lắm phen Lê Thành Phiên bị làm phiền. Thử tài ông có nhiều người danh tiếng: Hương kiểm Mỹ, Hương bộ Trọng, Bảy Ghình, ... Hương kiểm Mỹ mới gặp ông đã đưa bông tiền đấm dứ trước mặt. Nếu ông mắc lừa lui lại, Hương kiểm Mỹ sẽ mở bông hậu ra đòn tiếp. Đoán được thâm ý của đối thủ, ông không tránh mà một tay giở bông tiền đánh thốc tới đỡ đòn, đoạn tay kia ra tiếp liền bông hậu hất Hương kiểm Mỹ ngã vô cối giã gạo. Sau chuyện này, Hương kiểm Mỹ ngộ ra chân lý “núi cao còn có núi cao hơn”, chuyên tâm tìm thầy hay để học tiếp, không ngừng nghiên cứu tập luyện, sau thành một võ sư lừng lẫy. Hương bộ Trọng nghe mọi người ca ngợi ông Phiên thì không phục, nói: “Để ta làm một đá thử chơi”. Nào ngờ thử rồi, từ chỗ coi thường chuyển sang bái phục. Bảy Ghình, một người cùng trang lứa với ông Phiên, cũng kiếm cớ so tài. Ông Ghình ra đòn nào ông Phiên hóa giải đòn nấy rất nhẹ nhàng, và cũng bằng một đường côn tuyệt kỹ khiến ông Ghình khuất phục, xin làm đồ đệ. Ông Phiên dẫn ông Ghình vào ra mắt thầy, từ đó Bảy Ghình thành học trò Hồ Ngạnh. Nhiều phen ông Phiên phụng mệnh thầy nhận lời thách đấu của các cao thủ thập phương. Nổi tiếng nhất là trận đấu với Võ Nhuận. Lê Thành Phiên theo thầy lên Tiên Thuận dạy võ, Võ Nhuận - một võ sĩ lừng danh ở Tiên Thuận tìm tới thách đấu. Thấy Võ Nhuận vóc vạc to lớn, bộ điệu nghênh ngang, lại có một đám người theo sau hậu thuẫn, Hồ Ngạnh hỏi Lê Thành Phiên: “Con dám đấu không?”. Lê Thành Phiên thấy Võ Nhuận to khỏe dềnh dàng thì có ý ngại: “Thưa thầy, nó to xác quá, còn tôi nhỏ vầy, đấu sao cân?”. Võ Nhuận hung hăng: “Nếu sợ đấu quyền không lại thì ta đấu roi.” Trước sự chứng kiến của đám đông và trước ánh mắt của thầy, Lê Thành Phiên nhận lời: “Được!”, nhưng trong bụng vẫn lo lo. Hồ Ngạnh giao hẹn: đánh để phân tài cao thấp, không được gây thương tích; rồi cho lấy vải thấm mực bịt đầu hai cây roi. Hai bên nhận roi, bái tổ. Những người tới coi đấu ai cũng ái ngại cho Lê Thành Phiên. Không ai bảo ai, nhưng những kẻ hiếu kỳ dần dần đứng dạt về phía Võ Nhuận. Võ Nhuận ra đòn trước bằng thế đâm lỉa. Lê Thành Phiên nghiêng người né đòn rồi chấm roi liên tiếp vào bụng vào lưng đối thủ. Võ Nhuận xin thua, nhưng lại đòi đấu quyền. Lê Thành Phiên ban đầu chỉ né đòn để quan sát, thấy Võ Nhuận ỷ mạnh chứ ra đòn không kín. Bằng một thế đòn thấp, ông tiếp cận đối phương rồi nghiêng mình tung một đá, Võ Nhuận trúng đòn văng ra tới ba thước. Một lần đấu roi với một võ sư ở Phù Cát. Một lần đấu quyền với một võ sĩ Quyền Anh có cân nặng gấp ba trọng lượng ông. Ba lần thượng đài tại các sàn đấu quốc gia tại Quảng Ngãi, Bình Định. Chiến thắng, đó là mùi vị duy nhất Lê Thành Phiên nếm qua trong nghiệp võ. Đoản côn, trường côn, trường thương, xà mâu, độc phủ, đặc biệt là siêu vào tay ông như có linh hồn. Lập bộ vững như núi thái sơn, tiến thoái như rồng như hổ, uy lực dũng mãnh, phong thái phi phàm – ông xứng danh là học trò yêu của Hồ Ngạnh. Trong cuốn sổ ố vàng mà ông cất giữ cẩn thận như báu vật, là những dòng chép tay về phả hệ họ Hồ, họ Lê; các bài võ, bài thuốc ông học từ thầy Hồ Ngạnh, có cả những bài dịch ra thể lục bát cho dễ nhớ. Đó là những tư liệu quý giá ròng ròng kỷ niệm của một cuộc đời gắn bó cùng nghiệp võ. Sáu Được là một học trò giỏi của Hồ Ngạnh, từng giành nhiều chiến thắng lừng lẫy trong các trận đấu đài ở miền Các học trò giỏi của Võ sư Hồ Ngạnh, người thành danh với thành tích thi đấu, người mở võ đường thành danh sư của một vùng, người khoác áo tu hành trở thành trụ trì ở những ngôi chùa danh tiếng, người sớm khuya vui với ruộng đồng xóm mạc… đều góp phần làm vẻ vang tổ nghiệp. Hỏi, chẳng ai khoe, nhưng nếu gặp họ trong ngày giỗ Tổ, hoặc một tình huống mà người trong cuộc là họ phải trả lời bằng ngôn ngữ đặc trưng của con nhà võ, thì hồn vía của Đất võ Thuận Truyền sẽ hiển hiện trong từng cử động, từng đường roi thế kiếm xuất thần. 3- Lò võ Hồ Sừng và việc duy trì nghiệp tổ Võ sư Hồ Sừng là cháu nội của Hồ Ngạnh. Thân sinh mất sớm, ông được ông nội đích thân truyền dạy võ nghệ. Thông suốt võ kinh, võ đạo và nắm giữ toàn bộ di sản võ thuật tông phái họ Hồ, tuy nhiên, do bản tính thuần hậu và sức khoẻ có phần hạn chế, võ sư Hồ Sừng ít dự vào các cuộc tỷ thí tranh chức vô địch. Nối nghiệp nội tổ, ông mở võ đường tại thôn Hòa Mỹ, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn; đào tạo các bộ môn võ cổ truyền, đặc biệt là côn pháp. Học trò theo học rất đông. Có một quy ước bất thành văn tại làng võ Thuận Truyền, đó là các học trò sau khi làm lễ bái sư, sẽ được lấy họ Hồ gắn với tên mình để làm danh xưng trong làng võ. Về già hay đau yếu, ông giao quyền điều hành võ đường cho con trai đầu, võ sư Hồ Cương. Trong các giải võ cổ truyền cấp tỉnh và cấp quốc gia, học trò Hồ gia được mời tham gia và luôn luôn lập thành tích cao trong thi đấu. Con cháu của Hồ gia như Hồ Bé, Hồ Sửu, Hồ Hiệp, Hồ Sỹ, Hồ Dư, Hồ Thứ, Hồ Thị Kim Tâm, Hồ Thị Thảo, Hồ Đức Hạnh... đều sớm bộc lộ năng khiếu võ thuật, người mở lò dạy võ tại nhà, người được chọn vào đội võ thuật của Bảo tàng Quang Trung. Đặc biệt, lò võ Hồ gia đã cung cấp cho Câu lạc bộ Võ thuật cổ truyền tỉnh Bình Định nhiều nhân tài võ thuật: Hồ Thị Diêu, Hồ Văn Núi, Hồ Văn Tú... Từ năm 2002 đến nay, các võ sĩ xuất thân từ lò võ Hồ Sừng (do võ sư Hồ Cương, Hồ Văn Bé và huấn luyện viên Hồ Sỹ đào tạo) đã liên tiếp giành được nhiều giải thưởng lớn tại các cuộc liên hoan, giải vô địch võ cổ truyền.. |
Bài 9: |
MỘT SỐ LỄ TỤC TẬP QUÁN TẠI CÁC LÒ VÕ CỔ TRUYỀN |
1- Giỗ Tổ Nghề nào tổ nấy. Theo võ sư Phan Thọ, ngày xưa các lò võ đều thờ ba vị thánh tổ là Dương Thiền lão tổ, Đạt Ma tổ sư và Tiêu Diện lão tổ. Có nơi còn thờ Bà Cửu Thiên Huyền Nữ và đức Quan Thánh đế (Quan Công). Về sau, đối tượng được suy tôn là tổ sư ở mỗi võ đường một khác. Nhiều lò võ ở Tây Sơn vừa thờ chư vị thánh tổ nói trên vừa thờ Tây Sơn tam kiệt: Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ. Điều này thể hiện sự dung hoà giữa ý thức dân tộc với tinh thần tiếp biến văn hoá. Ngày giỗ tổ nghề võ không thống nhất. Lò võ Phan Thọ thờ vua Quang Trung, giỗ tổ ngày mồng 9 tháng giêng âm lịch. Còn lò võ Hồ Sừng thờ võ sư Hồ Ngạnh, giỗ tổ ngày mồng 6 tháng 2 (ngày mất của tổ sư Hồ Ngạnh). Giỗ tổ là một nghi lễ mang tính truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, cầu mong điều tốt đẹp cho môn phái, thắt chặt mối liên kết giữa những người đồng môn, đồng thời giáo dục cho thế hệ sau tinh thần tôn sư trọng đạo. 1.1- Ghi chép về lễ giỗ tổ tại lò võ Phan Thọ: Thời gian: Từ 9 - 10 giờ tối (giờ Tuất) của đêm ngày 8 đến ngày 9 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Nguồn gốc của ngày cúng tổ này là do ông Phan Thọ đặt ra, kết hợp với ngày cúng giỗ của gia đình ông hàng năm, nhưng khấn Tổ sư là Quang Trung - Nguyễn Huệ. Các vị thần được khấn vọng: Cửu Thiên Huyền Nữ Thánh Tổ chơn quân, Quan Công Thánh Đế Chơn quân, Hữu vu Thánh Tổ chơn quân, Tiên sư, Tổ sư, Tôn sư, Vô dũng địch tướng mãnh lại phán Quan Vũ Lâm Đại tướng Tôn sư, Hỏa đức, Thổ đức, thập nhị tiên nương hộ chúng, Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai khẩn liệt vị tôn sư, Hữu ban liệt vị, Tả ban liệt vị, Ngũ phương thổ công ngung đại thần, Thập chúng cô hồn thiện nam tín nữ thiên thiên lực sĩ, vạn vạn tinh binh, sơn lâm mãnh hổ. Trong tổ đường thiết các bàn thờ như sau: - Bàn thờ thứ nhất: Xung thiên - Bàn thờ thứ 2: Phác đầu - Bàn thờ thứ 3: Hổ đầu - Bàn thờ bên trái (Tả ban): Ngũ bộ đăng đầu - Bàn thờ bên phải (Hữu ban): Ngũ bộ đăng đầu - Bàn thờ bên trái: Tiểu đầu - Bàn thờ bên phải: Hổ đầu - Bốn bàn vệ tiền: Liệt vị dương binh bộ hạ minh y các hạng cụ túc (đầy đủ các món đồ cúng cho các vị bộ hạ dương binh) - Bàn cúng đất: Khuê liệp y cụ túc (đầy đủ áo, nón, dày, dép), đại hạn khuê liệp đơn bộ. Minh y các hạng là y phục các loại, gồm có: - Xung thiên quan (mão xung thiên), đi với mãng bào màu vàng, giày vàng. - Cửu phụng quan (mão cửu phụng), đi với mãng bào màu đỏ, giày đỏ vẽ hình phụng. - Xuân thu quan (mão xuân thu), đi với mãng bào màu lam và giày đỏ vẽ hình rồng; cũng có thể đi với mãng bào màu xanh và giày đen, khăn hồng. - Phác đầu quan (mão phác đầu), đi với mãng bào màu đỏ và giày đen. - Hổ đầu quan (mão đầu cọp), đi với áo bào ngũ hổ màu tía, giày đen hạng trung; áo bào màu vàng, màu đỏ mỗi thứ một bộ và giày 2 đôi, nón 2 bộ hạng trung; áo ngũ sắc 12 bộ, giày 12 đôi, nón 12 bộ, áo giao lãnh 2 bộ và 2 đôi giày. - Tiểu hạng phác đầu quan (mão phác đầu loại nhỏ) đi với áo gấm, mỗi thứ 6 bộ và giày 2 đôi, áo ngũ sắc 2 bộ, áo gấm, minh y 200 bộ. Lễ vật dâng cúng : 1 cặp vịt, 1 con gà (để xem giò), 2 trứng vịt, 2 con cua, 2 miếng thịt heo, 2 miếng sườn heo, rượu trắng, chè, xôi, bông, chuối, đồ vàng mã… Ban nghi lễ gồm: Chánh bái (võ sư Phan Thọ), bồi bái, tả hữu chủ ban, thầy lễ và học trò gia lễ. Nghi thức tế Tổ sư: Khởi chiêng trống, nhạc nhã. Ban tế lễ vào vị trí lạy, dâng rượu, đọc văn tế, đốt văn tế, dâng rượu, dâng trà, lạy Tổ. Ban nhạc nhã phục vụ trong lễ giỗ tổ tại hai võ đường Phan Thọ, Hồ Sừng chính là đoàn võ nhạc của Bảo tàng Quang Trung. Thành phần khách mời : Khi cúng Tổ ông Phan Thọ thường mời đại diện các môn phái và các bạn hữu đồng môn, học trò về tham dự. Ngoài lễ vật dâng cúng, tùy theo quy mô định trước và lượng khách mời mà gia chủ (võ sư Phan Thọ) làm bò hay heo và sắm sửa các mâm tiệc khoản đãi. Phần hội : Sau các nghi thức tế lễ, các võ sư, võ sĩ trong môn phái thường ra sân diễu võ, trước là để trình Tổ, sau là để quan khách thẩm định về thành quả luyện tập của mình. Các bài võ trình tổ ở lò võ Phan Thọ là các bài quyền mẫu mực: Ngọc trản, Thiền sư, Tứ hải, Hùng kê, Lão hổ, Lão mai; rồi mới đến các bài sử dụng binh khí. 1.2- Ghi chép về lễ giỗ tổ tại lò võ Hồ Sừng: Về trình tự lễ giỗ tổ tại lò võ Hồ Sừng cũng tương tự như ở lò võ Phan Thọ. Chỉ khác về thời gian, lời khấn. Các nghi thức có phần đơn giản hơn. Thời gian: Ngày mồng 6 tháng hai âm lịch hàng năm, là ngày giỗ Tổ sư Hồ Ngạnh, do ông Hồ Sừng và các đại đệ tử của cố võ sư Hồ Ngạnh thống nhất. Võ sư Hồ Sừng chủ trì lễ giỗ, võ sư Lê Thành Phiên được mời giữ vai Chánh bái trong ban nghi lễ. Các bài võ trình tổ ở lò võ Hồ Sừng lấy roi làm chính, các bài tiêu biểu: Thất bộ, Bát quái, Thái Sơn, Tiên ông, Tề mi, ... Lễ bái sư: Người Bình Định xưa không mấy ai là không học lấy một vài miếng võ. Nhà nghèo cho con học võ để phòng thân, để tìm cơ hội kiếm sống, lập thân. Nhà giàu cho con học võ để tăng cường thế lực, thị uy; thậm chí cho người ăn kẻ ở đi học võ để bắt trộm, giữ của. Cha mẹ có ý định cho con học võ ai thì sắm sửa trà rượu dẫn con đến nhà thầy (võ sư) thưa gửi. Người thầy qua câu chuyện dò xem tính ý của cha mẹ thực bụng muốn cho trẻ học võ hay vì thấy trẻ ham võ quá mà phải chìu. Sau khi đã nghe phân qua lai lịch, nguyện vọng của gia đình, người thầy sẽ xem tướng mạo và đưa ra một số câu hỏi để thử tính ý, trí lực, năng khiếu của trò. Sau khi xem qua tướng mạo và tiên đoán về tính hạnh trò, nếu muốn nhận, người thầy bắt đầu nói với trò và cha mẹ trò về những quy định của môn phái. Tiêu chí quan trọng hàng đầu trong chọn học trò là đạo đức tư cách. Võ sư Hồ Sừng nói: “Phải học đạo đức, đạo lý trước sau đó mới tới học võ. Đạo đức và võ phải đi song song với nhau. Phải khiêm tốn học hỏi, không được xưng hùng, xưng bá mà phải rèn luyện đạo đức và võ thuật cho thật tốt. Phải biết cương và nhu cho hợp lý ”. Những quy định mà một người thầy đưa ra cho học trò thường xoay quanh các yêu cầu về tinh thần nhân ái hướng thượng và những phẩm chất chuyên cần, kiên trì, cầu tiến, tinh thần kỷ luật và sự trung thành tuyệt đối với sư môn. Ngoài ra còn có điều kiện về “học phí”. Bởi vì ở Bình Định, dạy võ cũng là một nghề để sống. Con nhà có của đi học thì nộp bạc, vàng. Con nhà nghèo vừa đi học vừa làm công, ở đợ để trừ dần. Những học trò ham học, có năng khiếu mà gia cảnh đặc biệt khó khăn, nếu gặp được người thầy đại lượng sẽ được dạy miễn phí, có khi còn được nhận làm con nuôi (nghĩa tử). Sau khi nghe qua các quy định và các điều kiện, nếu cha mẹ và trò bảo đảm sẽ làm theo thì thầy mới định ra ngày lành tháng tốt làm lễ cúng tổ cho trò bái sư, gia nhập môn phái. Thức dâng cúng trong lễ cúng tổ gia nhập môn phái gồm một cặp vịt, một con gà trống, vài tợ thịt lợn (sườn), 2 quả trứng vịt, 2 con cua, 2 con ốc bươu, chè xôi, hương, hoa, trà, quả. Các thức này thường là do phía gia đình học trò chuẩn bị, người nào nghèo có thể giảm cặp vịt, trường hợp nghèo “rớt mùng tơi”, thì đến thịt lợn, chè xôi cũng giảm được, nhưng con gà trống thì không thể thiếu, mà phải là gà trống choai chưa biết gáy. Coi giò gà là một nghi thức bắt buộc trong lễ cúng tổ gia nhập môn phái. Tương truyền, qua việc coi giò gà, có thể biết được tính cách, cử chỉ và tiên đoán được hậu vận, duyên nghiệp của học trò: dở hay giỏi, hư hay nên, nửa đường đứt gánh hay công thành danh toại. Kết hợp xem tướng với xem giò gà, nếu nhận thấy người nào hiểm độc, hoặc có điềm báo về sự “đứt gánh giữa đường” hoặc phản sư thì thầy kiên quyết không nhận. Cũng có học trò tướng ẩn, tiếp xúc lần đầu không thể biết ngay được, trong quá trình dạy mới phát hiện, người thầy với những trường hợp như thế thường có cách uốn nắn, khắc chế hoặc đối phó riêng. Với những học trò như vậy, người thầy không bao giờ dạy các ngón đòn độc hoặc các chiêu thức bí truyền. “Thà bỏ mất không truyền cho những kẻ bất nhân”- đó là phương châm của võ sư Hồ Ngạnh, đã trở thành nguyên tắc của các võ đường họ Hồ tại Thuận Truyền. 3- Kinh nghiệm xem tướng học trò a- Xem mặt, mắt, mày: Theo kinh nghiệm của các võ sư Phan Thọ, Hồ Sừng, Trần Dần, Văn Xuân Ngọc, thì xem mặt là bước đầu tiên của tướng pháp. Về mặt con nhà võ, cần chú ý những điểm sau: Mặt chữ điền, trán vuông, cằm vuông, hàm nở là tốt. Mặt tròn hay trái xoan cũng tốt. Trán rộng, gò má không cao là người có hậu. Nhân trung sâu là người trung thực. Mặt ốm choắt như mặt chuột là người có tâm địa độc ác. Mặt lưỡi cày, nhìn thấy bẻm và có mái tóc vàng là người thiếu trung thực. Mắt to, tròng đen tròng trắng phân minh là người trung thực. Mắt sáng là thông minh và có sức mạnh. Mắt nhìn như có làn điện phát ra là người có uy lực. Mắt lồi là người có sức mạnh mà gan dạ, miệng nói sợ chứ lòng không sợ. Mắt lé là người bẻm và độc ác. Mắt sụp là không trung thực. Mắt nhỏ, mắt hí là người hiểm tâm, ác độc không lường hết được. Lông mày ngắn mà đậm là có sức mạnh nhưng tính cộc. Lông mày đậm hơi xếch biểu hiện sức mạnh, nhưng lông mày xếch ngược lại là biểu hiện của sự hung hãn, bạo ngược. c - Xem tay: Theo kinh nghiệm của võ sư Hồ Sừng. Bàn tay dài, các ngón tay cũng dài hơn người bình thường là bàn tay có nhiều biệt tài. Bàn tay cù (bàn tay và các ngón tay ngắn và thô) là bàn tay sát sanh, nghĩa là đánh đâu không chết thì cũng bệnh. d - Xem hình thể, xương, khớp xương: Trong làng võ có câu: “Nhứt có tài, nhì dài sào”. Có tài là năng khiếu. Dài sào chỉ sự cao ráo về hình thể. Vóc dáng cao mà lưng, chân cân phân (cân đối) là tốt. Vai rộng và thẳng, lưng thẳng, chân tay thẳng, lưng có hình tam giác là có năng khiếu và đánh tốt. Lưng dài, chân ngắn là lười biếng. Lưng hơi gù là người chậm chạp, nhưng thể lực mạnh. Lồng ngực to và nở là người có thể lực tốt và mạnh. Lồng ngực nhỏ và lép là người có thể lực kém và yếu. Ót thẳng là tốt. Người nào dưới ót có xương phản cốt gồ lên, thì sớm muộn cũng làm phản. 4- Kinh nghiệm xem giò gà: Chân chúm lại, màu sắc tươi đẹp là người có năng khiếu và đạo đức tốt. Chân kẹp cổ: phản sư. Móng chân ngón giữa bấm vào ngón cái (chân bấm cái): phản bạn, có tính cộc và bẻm, không tốt. Ngón chân thứ hai quặt xuống lòng bàn chân: cha hoặc mẹ không muốn cho con học võ. Chân tõe ngoắc và các ngón chân chỉ thiên, chỉ địa là người không có năng khiếu, học đâu quên đó. Nếu gân nổi bầm đen là dấu hiệu người học trò ấy sẽ không tránh được thương tật, nửa đường đứt gánh. Bây giờ, tục coi giò gà vẫn còn được các ông thầy võ ở Thuận Truyền và An Vinh áp dụng. |
Bài 10 |
Đấu võ đài |
Đấu võ đài là một hoạt động thi đấu có tổ chức, có khán giả. Ở Bình Định, đấu võ truyền thống có từ rất lâu đời, các cuộc thách đấu so tài giữa các võ sĩ có sự chứng kiến của đám đông là hiện tượng rất phổ biến, nhưng là những hình thức thi tài đọ sức trên mặt đất. Sau năm 1945, theo trào lưu thế giới, đấu võ đài mới du nhập vào nước ta và rộ lên trong vài thập kỷ tiếp theo. Đài đấu võ ở ta là một sàn gỗ vuông mỗi cạnh sàn dài từ 4m đến 5m thiết kế theo kiểu sân khấu giản đơn nhưng chắc chắn, an toàn, không gây chấn thương cho võ sĩ. Tính từ mặt đất đến sàn chừng 1,2m - 1,5m. Góc đài khu vực bên trái đối diện Chủ tịch Hội đồng giám sát là góc đỏ, đối diện góc đỏ là góc xanh, hai góc chéo còn lại là góc trắng (trung lập). Tại các góc của sàn đài có trụ để căng 3 hoặc 4 dây dừa hoặc dây neo ghe bầu to bằng ngón chân cái, nơi nào kiếm không ra dây neo thì dùng cây tre đã róc trơn mắt để bo khung. Ngày nay khung đài được căng bằng loại dây rin chắc chắn, có độ đàn hồi nhẹ. Từ đất lên đài có 3 cầu thang. Hai cầu thang đối diện nhau dành cho vận động viên và săn sóc viên, một cầu thang ở góc trung lập dành cho trọng tài. Theo các cụ già kể lại, từ năm 1950 đổ về trước, các võ sĩ đấu võ cổ truyền khi thượng đài vẫn đánh tay không chứ không đeo găng tay, mặc áo bảo hiểm và quanh đài không căng dây. Người nào bị đánh rơi xuống đài là thua. Phải đến cuối thập kỷ năm mươi của thế kỷ XX, áo bảo hiểm và găng tay võ sĩ mới xuất hiện trên các sàn đấu Bình Định. Màu phổ biến của áo bảo hiểm và găng tay là đỏ - xanh, hoặc đỏ - đen. Có thể nói rằng thời kỳ đấu võ đài rộ lên đã mở ra những cơ hội thăng hoa của các tài danh võ học. Võ Bình Định vang dội với các tên tuổi Nguyễn An (Bảy Lụt), Hương kiểm Mỹ, Lê Thành Phiên, hùm xám Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh, Nguyễn Thái Bảng, Lâm Đình Phú, Lý Xuân Hỷ ... Trong những năm 1973 đến 1975, do tình hình chiến sự nóng bỏng, đấu võ đài không được tổ chức. Tháng 4-1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, công cuộc xây dựng quê hương, hàn gắn vết thương chiến tranh đã cuốn hút sự quan tâm của mọi nhà, mọi người. Việc tập võ tuy vẫn được duy trì, nhưng không thành phong trào mạnh mẽ, chủ yếu là để vốn liếng võ thuật của ông cha không bị thất truyền. Từ năm 1980 trở đi, nhiều võ sư, võ nhân mở võ đường dạy võ. Đấu võ đài được tổ chức rộng khắp: xã tổ chức đấu liên xã, huyện tổ chức đấu liên huyện, cũng có khi một huyện của Bình Định, mà điển hình là Tây Sơn, đứng ra tổ chức đấu liên tỉnh. Phong trào lên mạnh. Sở Thể dục Thể thao tổ chức các giải đấu võ đài liên tỉnh, khu vực. Bình Định đăng cai tổ chức nhiều giải thi đấu quốc gia. Tại các cuộc thi đấu này vừa có võ đối kháng, vừa có võ biểu diễn, tức là đấu võ đài và diễn võ đài. Gần đây, cùng với chủ trương bảo tồn và chấn hưng văn hoá dân tộc, nhiều lễ hội và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian được khôi phục, trong đó có đấu võ đài. Ở Bình Định, tại một số huyện như Tây Sơn, Tuy Phước, An Nhơn thường tổ chức đấu võ đài vào độ giáp Tết hay trong tháng giêng, mà tập trung nhiều nhất vẫn là huyện Tây Sơn. Từ mồng bốn tháng giêng âm lịch, khi người bốn phương đổ về dâng hương tưởng niệm Tây Sơn tam kiệt và các vị anh hùng dân tộc thời Tây Sơn, thì tại sân vận động Phú Phong, người ta bắt đầu quây đài đấu võ. Tiếng trống từng chặp đổ hồi, khiến người ta rộn ràng nao nức. Đấu xong 3 đêm ở Phú Phong, lại quây đài ở Bình Thuận, Bình An. Vào lúc sẫm tối, khi ánh đèn vàng trên sàn đấu sáng lên, già trẻ trai gái lục tục rủ nhau đi xem đấu võ. Trong chốc lát, trên khoảng đất rộng quanh đài người tụ tập lên tới hàng ngàn. Buổi đấu thường bắt đầu vào lúc 20 giờ. Trước đó, Ban tổ chức đã ghi danh sách võ sĩ, xếp các cặp và lên lịch thi đấu, đọc to cho khán giả theo dõi. Cũng có trường hợp một vài võ sĩ ban đầu chỉ đi xem chơi, xem một lúc nổi hứng mới xin phép thầy ghi danh đăng ký thi đấu. Những sự thay đổi như vậy được giải quyết nhanh chóng và Ban tổ chức lại thông báo qua loa phóng thanh. Các võ sĩ tham gia đấu võ đài thường xếp cặp theo bo chạng, tức không chênh lệch nhau nhiều về tuổi tác và cân nặng. Tuy nhiên, ở những trận đấu then chốt thì không câu nệ lắm về bo chạng. Môn phổ biến trong đấu đài thường là võ tay không (quyền cước). Trước khi mỗi cặp võ sĩ lên đấu, có giới thiệu để khán giả biết tên tuổi, cân nặng, xuất thân từ lò võ nào của địa phương nào, mặc áo đeo găng màu gì. Hai bên ra đòn, cả võ trường liền nóng lên. Nếu gặp đôi ngang sức ngang tài, những miếng hay được thi triển, tiếng cổ vũ, tiếng vỗ tay rộ lên, sau đó là những lời bình luận xuýt xoa. Tình cảm và lòng say mê nghệ thuật quyện làm một, lúc cao trào có thể khiến người ta la hét, chửi đổng. Cào cào châu chấu nấp dưới cỏ bị làm kinh động, nhảy búng tanh tách lên đầu lên vai người xem. Có người chỉ cổ vũ cho bên mạnh, cũng có người chỉ cổ vũ cho bên yếu. Lúc đó phần đông quên tên võ sĩ, trong tiếng gọi của họ chỉ còn “thằng Xanh”, “thằng Đỏ”, rất mộc mạc và sôi động. Ngày xưa, tính sát phạt ăn thua rất quyết liệt. Đấu võ đài có người chết là chuyện đương nhiên, cho nên võ sĩ và thân nhân phải làm tờ cam đoan mới được tham gia thi đấu. Thậm chí có võ sĩ mang theo hòm (quan tài) đặt dưới sàn đấu để tỏ rõ quyết tâm chiến đấu đến cùng. Ngày nay, các trận thi đấu mang tính giao hữu. Các đòn chỏ, gối bị cấm. Trọng tài luôn xen vào kịp thời để tránh sự tàn sát đáng tiếc xảy ra. Tuy vậy, vẫn có những võ sĩ kỹ thuật cao, đánh chỏ, gối qua mắt được giám định và trọng tài, làm trọng thương hoặc hạ nốc-ao đối phương nhanh chóng. Đấu võ thế nào cũng có bên thắng, bên thua. Nhưng sự ăn thua ở đây phơi trần trước mắt mọi người, để lại dấu tích trên tóc tai, quần áo, cơ thể. Trên sàn đấu, có võ sĩ kém thế không còn tự chủ được phải đưa mắt cầu cứu thầy học, vì một số các võ sĩ thi đấu là do thầy chọn đưa đi. Nhắc đòn là chuyện miễn cưỡng, mà cũng là một nghệ thuật, bởi lời nhắc được rất nhiều người nhận biết, kể cả đối thủ. Người được nhắc phải lanh, phải biết tiếp thu biến hóa cực kỳ mau lẹ mới có thể lật ngược tình thế, chuyển bại thành thắng. Trường hợp hai võ sĩ chỉ chênh nhau chút đỉnh về tài nghệ, thì sự thắng thua tuy có đem lại vui buồn cho từng bên, nhưng cái lớn nhất mà họ thu nhận được là những kinh nghiệm quý giá về đòn thế, về đấu pháp. Với những trường hợp bị đánh bay khỏi đài hay bị hạ nốc - ao, cảm giác nhục nhã của bên thua cuộc phải nói là cực điểm. Có võ sĩ bị thua đã lết từ sàn đấu xuống quỳ chịu tội trước mặt thầy; người thầy làm mặt lạnh, đưa mắt bảo trò ra ngoài. Cái khoảnh khắc vô ngôn ấy nặng tựa nghìn cân. |
Bài 11 |
NGÀY XƯA HỌC VÕ |
Ngày xưa, người ta gọi người học võ là võ sinh, người dạy võ là võ sư, nhà dạy võ là võ đường, người lập thân bằng võ nghệ là võ sĩ. Trong số đó, nổi lên những người kiệt xuất, thực học sâu xa, thông hiểu võ đạo, có thành tích rực rỡ trong nghiệp võ. Để đào tạo một võ sĩ có nghề, là cả một quá trình truyền dạy công phu của võ sư. Những phẩm chất của trò như thông minh, chăm chỉ, có thể lực, có năng khiếu chỉ mới là “bột”, còn sự chỉ dạy của thầy là nước, là lửa, là bàn tay người “gột” nên hồ. Chính vì vậy mà có câu “Không thầy đố mày làm nên”. Lại có câu “Thầy nào trò nấy” để chỉ ảnh hưởng to lớn của thầy đối với trò không chỉ về mặt nghề nghiệp mà cả về mặt tinh thần và nhân cách. Ngay từ buổi đầu, thầy nêu ra những quy định của môn phái. Những quy định này rất ngắn gọn, được đúc kết thành những điều cấm và những điều cần nhớ:Phải giữ gìn bản thân luôn trong sáng, thuần khiết; Phải chuyên cần tập luyện võ công và tuyệt đối trung thành với môn phái; Phải phát huy và truyền dạy võ công của môn phái theo chính đạo; Không phản thầy, hại bạn, hà hiếp người khác; Không khoe mình, chê người; Không có tư tưởng “thắng làm vua, thua làm giặc". Một số nguyên tắc luyện tập yêu cầu trò phải học thuộc và làm theo trong suốt quá trình học là: Không được gần sắc dục trong thời gian tập luyện; không nên tập võ ngay sau khi ăn xong; trong lúc tập luyện không được ngồi nghỉ giữa chừng; không nên uống nước nhiều trong buổi tập; nên tập cả sáng sớm và ban đêm để hấp thụ đầy đủ khí âm dương. Thầy bắt đầu truyền dạy cho trò vừa lý thuyết vừa thực hành, lý thuyết đến đâu thực hành đến đó. Về thực hành gồm có luyện sức và luyện võ. 1- Luyện sức: là tập luyện hàng ngày để tăng cường sức mạnh và sức chịu đựng. Để luyện sức, võ sinh phải tập xách nặng, tập chạy, tập nhảy, tập các động tác tay chân. Võ sinh tập cầm, nắm, bóp vật cứng, chém bằng lườn bàn tay; tập cầm cú để đấm, tập đánh bằng lòng hoặc lưng bàn tay; tập xuyên bàn tay qua cát để luyện ngón tay cứng rắn; tập đấm, đá vào bao cát... Thật ra trong khi luyện sức, võ sinh sẽ quen dần với các thế đánh ra, thu vào (tay), xuất cước, thu cước (chân) sao cho mạnh, đẹp, gọn gàng. Khi tập thành công, võ sinh có thể dùng tay chém vỡ gạch, ngói hoặc đâm xuyên qua vách ván, thành bụng. Để luyện đôi chân, võ sinh tập nhảy trên đất bằng, nhảy hố. Dân gian gọi môn tập nhảy hố là “võ cá lóc”. Ngày xưa chàng Lía tự đào hố để tập nhảy, ban đầu đào hố cạn, về sau sâu dần. Lía đổ cát vào hai ống quần, cột lại rồi nhảy. Nhờ luyện nhảy chuyên cần mà Lía chỉ nhún mình một cái là nhảy lên cao, vượt tường dễ dàng. Còn có lối nhảy lên cao, dùng chân đạp vào một điểm tựa để tiếp tục nhảy lên cao một khoảng nữa, gọi là “nhảy leo thang”. Truyền thuyết về Lía kể rằng khi mẹ mất, chàng Lía đã vượt núi băng truông về mang thi hài mẹ lên táng trên núi cao. Lía lấy áo buộc mẹ trên lưng, rồi hai tay cầm ba chiếc mâm đồng, ném lên không trung một chiếc. Chiếc mâm bay lên, Lía nhún mình một cái vút theo. Khi chân chạm vào mâm, Lía vừa lấy đà nhảy vọt lên vừa ném tiếp chiếc thứ hai rồi chiếc thứ ba. Bóng Lía khuất dần trong mây thẳm. Chỗ Lía chôn mẹ là Trưng Sơn, ngọn núi cao nhất của Tây Sơn. Về sau có ông Khách Bút ở Kiểng Hàng cũng giỏi thuật khinh công, ném mâm gỗ để vượt trùng vây*, chính là dùng lối nhảy leo thang này, một thứ công phu tuyệt đỉnh mà rất ít người đạt tới. 2. Luyện võ: Thông thường, học trò mới hàng ngày phải tập trụ và tập di chuyển. Tập trụ là tập đứng trung bình tấn. Hai chân dạng ra vừa đủ, hai bàn chân nằm song song với nhau, chân rùn xuống để cho hai đùi song song với mặt đất. Lưng thẳng đứng, mặt ngó thẳng, hai tay nắm chặt, cùi chỏ khép sát vào sườn, cánh tay song song với hai đùi. Trọng lực toàn thân dồn xuống hai đùi, bàn chân gắn chặt vào mặt đất. Có nhiều thế đứng tấn: Tý ngọ, Tứ bình, Đinh tấn, Kim kê, Đảo đinh, Bát quái, Độc cước... Thầy võ thường bắt học trò kê cối đá hay đá tảng trên đầu gối, nếu ai trụ được hồi lâu mà không bị run chân khuỵu gối, không suy suyển xê dịch là đạt. Tập trụ thành công thì võ sinh có thể giữ thăng bằng cho cơ thể, nói theo thuật ngữ của con nhà võ là đứng vững như núi, khó ai lay chuyển được. Sau khi tập trụ được rồi, học trò tập bộ ngựa, tức là tập di chuyển. Có nhiều bộ ngựa khác nhau. Nếu bộ trụ chắc giúp cho ta ra đòn mạnh và chính xác, thì bộ ngựa linh hoạt giúp cho ta di chuyển nhanh nhẹn, lách tránh tốt. Có người mạnh về trụ mà yếu về ngựa và ngược lại. Những võ sĩ giỏi phải nhuần nhuyễn cả trụ lẫn ngựa, khi trụ thì vững chắc, khi chuyển động thì mau lẹ gọn gàng. Tập trụ và ngựa chủ yếu là tập chân. Các bài tập chân cơ bản là Tứ bình, Thất bộ. Tập tay là tập các thế đánh và đỡ bằng nắm đấm, bằng lườn tay, ngón tay, cùi chỏ; cách tấn công, cách đỡ gạt. Bài tập tay cơ bản là bài Ngũ hành (Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ). Bài tập gồm 5 tư thế, mỗi tư thế tương ứng với một hành: Kim: đâm; Mộc: chặt; Thuỷ: bắt; Hỏa: tránh; Thổ: đánh xuống. Về Ngũ hành có Ngũ - hành - trụ và Ngũ - hành - đi. Ngũ hành trụ là đứng trụ tại chỗ để đánh. Ngũ hành đi là vừa di chuyển vừa đánh. Lúc này, thầy võ dạy cho học trò cách kết hợp chân và tay. Các bài quyền cơ bản mà võ sinh được học là Ngọc Trản quyền, Lão Mai quyền... Sau khi tập xong các bài cơ bản, thầy võ mới phân thế cho đánh. Ở Bình Định, cách phân thế đi liền với các câu trong bài thiệu. Học trò phải học thuộc lòng các bài thiệu thầy mới dạy từng thế võ trong bài. Ngày xưa, việc phân thế và truyền khẩu quyết thường ít để cho người ngoài biết, với những chiêu thức độc đáo lại càng cẩn thận. Thầy võ vừa đọc các câu thiệu, vừa giảng giải rất kỹ các từ, các động tác của từng thế võ rồi biểu diễn để trò coi qua. Rồi thầy thị phạm một vài lần cho trò tự tập. Trong khi trò tập, thầy luôn luôn quan sát, uốn nắn, chỉ dạy các chỗ sai cho trò. Học xong mỗi bài thảo, học trò được thầy phân tích các thế công, thủ, trừ … rồi cho giao đấu với nhau từng cặp một theo bo chạng** trên dưới 3 kg. Thầy đứng xem, chỉ cho từng chỗ hở, chỉnh sửa cho học trò những điểm non yếu. Trường hợp thầy dạy một lúc vài chục hoặc năm bảy học trò, có thể giao việc cai quản tập luyện cho một học trò lớp lớn làm thay. Nếu phải khi học trò hiếm hoi, một thầy một trò, thì thầy vừa chỉ vẽ vừa “đấu” với trò. Thầy ra đòn, dạy cho trò cách đỡ, rồi thầy cho trò đánh để mình đỡ. Thầy thường khuyến khích trò đánh hết sức, đánh như thật để nắm bắt khả năng tiếp thu của trò đến đâu, kịp thời bổ khuyết cho trò chỗ thiếu, hoặc gặp phải học trò tối dạ, thầy phải nghĩ ra cách dạy dỗ phù hợp để dìu dắt trò tiến bộ. Võ sinh phải khổ công tập luyện, nhuần nhuyễn đến độ không cần suy nghĩ gì mà vẫn sử dụng được các thế võ để đối phó với mọi tình huống. Mỗi khi giao đấu thì những điều mình từng luyện tập tự nhiên phát ra. Cùng một thảo võ, nhưng không phải học trò nào cũng tiếp thu và sử dụng như nhau. Người sáng dạ, biết biến hoá uyển chuyển thì trong vận dụng sẽ linh hoạt hơn những người học sao làm vậy. Khổ công tập luyện thì võ nghệ sẽ tinh thâm, nhưng biết ứng biến linh hoạt mới trở thành cao thủ. Kết hợp được cả hai thì võ nghệ sẽ tuyệt luân. Trong võ học có khái niệm tâm pháp và thân pháp. Tâm pháp là sự vận dụng trí tuệ để tiếp thu, lĩnh hội lời dạy của thầy, tự nghiên cứu và chọn lọc tinh hoa, sáng tạo ra các chiêu thức hay. Thân pháp là các phép luyện tập thân thể tay chân, vận công bế huyệt. Buổi đầu học võ, bao giờ tâm pháp cũng là cái đi trước, chi phối thân pháp, vì suy nghĩ phải đi trước hành động. Tuy nhiên, trong giao đấu mà quá lệ thuộc vào việc suy nghĩ để tìm cách đánh, đỡ đòn này, đòn kia ra sao thì chiêu thức đưa ra bị “lạc nước”, rất dễ bị đối phương đánh bại. Tâm pháp và thân pháp có quan hệ mật thiết với nhau, hoà quyện thống nhất với nhau trong từng chiêu thức võ thuật. Cần luyện thế nào cho thành thục, đứng ngồi vững vàng, tới lui qua lại mực thước, chuyển động âm dương hoà hợp, tóm lại là hình thành các phản xạ mau lẹ để ứng biến thần tốc trong mọi trường hợp. Khi bị tấn công có thể xuất thế phản đòn một cách tự nhiên, linh diệu, tưởng như không cần suy nghĩ, là đã đạt đến sự ly khai tâm pháp. Người nào đạt tới trình độ đó, là võ công đã thành. Đã có thời người ta học võ như học một nghề, hơn nữa, lại là một nghề gắn liền với tiếng tăm, danh dự. Vì thế từ cách dạy đến cách học rất tỉ mỉ, công phu. Ngày nay, việc dạy võ, học võ đã giản lược đi nhiều, chủ yếu là để rèn luyện sức khỏe. Cái tinh túy, kỹ lưỡng cũng mai một dần. Võ sư Phan Thọ rưng rưng nói những lời gan ruột: “Người biết nhiều môn võ Bình Định, biết sử dụng đủ mười tám môn binh khí như lứa chúng tôi còn ít lắm. Mà bây giờ người ta mải theo chuyện làm ăn sinh sống, có mấy ai chuyên tâm theo học mười mấy năm ròng. Tôi lo rồi đây các môn thập bát ban binh khí sẽ mất dần. Nếu có người chịu học, tôi sẵn sàng dạy, không lấy tiền công”. Ở Bình Định hiện nay có khoảng chín chục lò võ cổ truyền, riêng Tây Sơn đã chiếm non nửa, một số trong đó là vệ tinh của Sở Thể dục – Thể thao Bình Định. Đối tượng học võ chủ yếu là thiếu niên, học sinh. Nhu cầu của võ sinh ngày nay thiên về võ tay không để tự vệ, không mấy ai lưu tâm đến các môn binh khí cổ truyền. Đó cũng là tuân theo quy luật tự nhiên của đời sống, song đối với các võ sư cao niên nặng lòng vì nghiệp tổ và với những người yêu chuộng võ cổ truyền, thì điều này lại là một nỗi ưu tư lớn. .................... * Theo Quách Tấn – Quách Giao, Võ nhân Bình Định, NXB Trẻ 2001, trang 599 ** bo chạng: cũng một cỡ, tương đương, có thể chênh lệch chút ít. |
Bài 12: |
SỨC SỐNG CỦA VÕ CỔ TRUYỀN BÌNH ĐỊNH |
16:55', 20/11/ 2006 (GMT+7) |
Khảo sát những làng võ Bình Định mà tập trung là hai làng võ Thuận Truyền và An Vinh huyện Tây Sơn, chúng ta cảm nhận một cách rõ ràng sức sống mãnh liệt của võ cổ truyền với tư cách là các giá trị văn hoá. Sức sống ấy thể hiện trước hết ở chỗ nó được người dân ưa chuộng và mức độ phổ biến của nó. Một vị quan tri phủ Phù Cát thế kỷ XIX tên là Hà Ngại viết về Bình Định đã nói rằng dân ở đây không mấy người là không học võ. Thậm chí nhiều nhà còn nuôi võ sĩ để áp tải hàng buôn. Thưở ấy dọc sông từ thượng nguồn về hạ bạn, những nơi thành quách hoang phế, bờ bụi um tùm, thường là nơi ẩn náu của các đảng cướp - tập hợp những kẻ võ nghệ cao cường hành nghề lạc thảo kiếm ăn. Có kẻ cướp thì có kẻ bắt cướp. Ý nghĩa của võ nghệ cũng theo đó mà thiên hình vạn trạng. Trong đời sống đã từng tồn tại những gánh mãi võ giang hồ chuyên đến các tụ điểm dân cư hay trước chợ căng dây biểu diễn, vừa múa võ vừa bán thuốc võ. Người xem đủ cả già trẻ gái trai, đông như kiến cỏ. Như vậy đủ biết cái sự chuộng võ đã ngấm sâu vào quan niệm và nếp sinh hoạt của người Bình Định xưa. Chỉ riêng xét về góc độ rèn luyện sức khỏe hoặc kỹ năng đối phó với kẻ địch, võ cổ truyền Bình Định đã xứng đáng là bộ môn được xã hội quan tâm. Nhưng sự chuộng võ của người Bình Định không chỉ ở khía cạnh thực dụng, ích lợi của nó, mà còn gắn với khát vọng tinh thần sôi động, đẹp đẽ và đầy tráng khí. Qua các giai thoại ta thấy hiện tượng so tài khá phổ biến trong giới võ học. Võ sư A. ở đất An Thái nghe tiếng một võ sư B. ở Thuận Truyền, võ sư B. ở Thuận Truyền nghe tiếng một võ sư X. ở An Vinh, là có thể lặn lội đường trường tìm gặp để so tài cao thấp. Có khi mới cung tay chào nhau đã ra đòn thử, có khi đang bữa ăn vờ làm một cử chỉ lỡ trớn để nhả đòn. Cái hay là qua những bận thử tài, so tài, họ có thêm tri âm tri kỷ. Còn không ít giai thoại con nhà võ tình cờ giúp nhau mà nên duyên chồng vợ như Bùi Thị Xuân - Trần Quang Diệu, hoặc tỷ thí mà nên nghĩa chúa tôi, tình anh em keo sơn chung thuỷ như Nguyễn Huệ - Trần Quang Diệu - Võ Văn Dũng, Hồ Ngạnh - Diệp Trường Phát… Võ có thể kéo người ta lại gần nhau, cũng có thể khiến người ta xa cách nhau, làm nên những cuộc tan hợp ly kỳ, như chuyện vợ chồng Tám Cảng - Dư Hữu. Võ thuật thật sự là một nhịp cầu tri ngộ giữa người và người, cũng là một thứ lửa để thử tâm tính, đức hạnh, trí tuệ, tài sức con người. Nói rằng võ cổ truyền Bình Định, võ Tây Sơn có sức sống mãnh liệt, không có nghĩa là chúng ta không nhìn thấy sự phôi pha của nó. Điều đó đã diễn ra gần như đồng hành với thời gian, trước áp lực của đời sống đương đại. Vấn đề học võ cổ truyền để phát huy, phát triển danh tiếng võ đường, phòng thân hay rèn luyện sức khỏe không còn là nhu cầu bức thiết của xã hội hiện nay. Trước sự lên ngôi của nhiều loại hình thể dục thể thao mới, võ cổ truyền không còn thu hút sự quan tâm của mọi thành phần xã hội mà chỉ được duy trì ở một số địa bàn từng là nơi phát tích những lò võ danh tiếng. Vài chục năm nay, mặc dù võ truyền thống Bình Định vẫn giữ được ưu thế trên các sàn đấu trong nước (thi các bài võ cổ truyền, thi đối kháng), nhưng người chuyên tâm học võ đã dần thưa vắng. Người ta bắt đầu nói về võ truyền thống Bình Định với tình cảm bịn rịn và luyến tiếc như nói về những giá trị “một thời vang bóng”. Đó là mối lo ngại lớn đối với những người từng nặng lòng với võ cổ truyền. Bây giờ người ta tìm tới võ với mục đích rèn luyện sức khỏe, trang bị các đòn thế tự vệ hơn là để trở thành một võ nhân danh tiếng. Những môn đòi hỏi nhiều công phu như đao, kiếm, kích, thương, cung, phủ…, nói chung là các binh khí cổ truyền hầu như không có người học tự giác, trừ một số ít người vì yêu cầu công tác, nghề nghiệp như võ sinh trong đội diễn võ của Bảo tàng Quang Trung, võ sinh các câu lạc bộ võ cổ truyền vệ tinh của Sở Thể dục - Thể thao Bình Định. Việc tổ chức lớp học tại các lò võ, các câu lạc bộ trải qua rất nhiều thăng trầm mới được gầy dựng lại thành mạng lưới như hiện nay. Hầu hết các võ sư, huấn luyện viên đều cho rằng thời điểm mở lớp thuận lợi nhất là vào mùa hè vì các mùa khác thiếu vắng môn sinh, các em trong độ tuổi thanh thiếu niên bận học văn hóa tại các trường phổ thông. Ba tháng cho một lớp học võ, nếu bảo là kịp thì cũng ở mức võ vẽ mấy đường, để võ sinh tập luyện thể lực; bởi so với yêu cầu tinh luyện thực thụ thì ba tháng mới là bước khởi đầu. Điều đáng mừng là từ những lớp ấy, có một số võ sinh bộc lộ năng khiếu và yêu thích thực sự. Có em kiên trì theo đuổi từ mùa hè này sang mùa hè khác. Ngoài ra, tại một số vùng, các em vẫn có thể tranh thủ học vào ban đêm, nhưng sự yêu thích của các em chỉ là một phần, còn phải tính đến sự đồng ý của phụ huynh, sự tiếp nhận của thầy võ. Rất ít võ sư nhận dạy theo kiểu này, nhưng vẫn có. Ở Thuận Truyền. Ở An Vinh. Ở An Thái. Ở Đập Đá… Một khi nhu cầu về học võ ở mức cầm chừng, chịu nhiều ràng buộc như vậy, thì sự truyền nghề cũng không chú trọng sự tỉ mỉ, công phu như thưở một thầy một trò. Đối với người thầy, tìm được học trò tâm huyết, đủ đức hạnh, say mê sống chết với nghiệp Tổ, để có thể tin cậy trao truyền cho những miếng võ tinh túy nhất là một niềm hạnh phúc. Nhưng hầu hết các võ sư đều thở dài vì trong điều kiện đào tạo bây giờ rất khó kiếm ra những học trò như vậy, do thời gian tiếp cận quá ngắn ngủi, hoặc võ sinh theo học không bền lòng. Những miếng võ bí truyền có nguy cơ bị thất truyền là vì vậy. Trong thời gian qua, những chương trình phục hồi võ cổ truyền Bình Định của các cơ quan chức năng thuộc ngành Thể dục - Thể thao rất đáng ghi nhận. Song các chương trình và kể cả mức đầu tư cho lĩnh vực này còn quá ít ỏi. Đó cũng là điều dễ hiểu, một khi võ cổ truyền chỉ được xếp là một bộ môn như các bộ môn thể thao khác, thậm chí còn “nhẹ cân” hơn một số môn như bóng đá, bơi lội... Đã đến lúc phải nhìn lại vấn đề một cách nghiêm túc hơn, rằng việc phấn đấu để đội bóng đạt đẳng cấp cao trong cả nước là hoàn toàn chính đáng, nếu đội bóng Bình Định thua các đội bóng khác, người Bình Định buồn; song nếu đội võ Bình Định thua các đội võ khác, thì người Bình Định không chỉ có buồn, mà trong nỗi buồn còn đau đớn, day dứt, nhục nhã. Bởi vì sao? Bởi Bình Định là Đất Võ. Vâng, võ được gìn giữ bởi con người, bởi bao thế hệ võ nhân và đông đảo nhân dân của một vùng đất hơn 600 năm nay đã lấy võ thuật làm yếu tố mệnh danh cho xứ sở: Đất Võ. Điều đó có nghĩa rằng võ đã thành bản sắc, thành linh hồn của vùng đất. Để bản sắc ấy không bị tàn phai, cần phải có chương trình khôi phục, bảo tồn và chấn hưng võ cổ truyền tương đối toàn diện trong thời gian tới. Trước hết, về mặt nhận thức, nói như giáo sư Dương Trung Quốc, “không nên coi võ là võ, mà võ còn là văn”. Võ chính là văn hóa. Cần có một chiến lược lâu dài để bảo vệ và phát triển nó như một di sản văn hóa của Bình Định, của Việt Giữ gìn, phát huy giá trị võ cổ truyền là hoạt động tương đối rộng, liên quan đến nhiều thành tố tác động, trong đó quan trọng hơn hết vẫn là nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan chức năng và người dân Bình Định. Cần quán triệt quan điểm: Coi di sản võ cổ truyền là niềm tự hào và là một bản sắc độc đáo của đất và người Bình Định trong công cuộc khôi phục và phát triển đất nước; lấy bảo tồn làm cơ sở để phát huy giá trị của võ cổ truyền; ngược lại muốn phát huy đúng mức giá trị võ cổ truyền cần phải chú trọng công tác giữ gìn, nghiên cứu chọn lọc để sử dụng khai thác có hiệu quả loại hình văn hóa đặc sắc này. Thành phố Quy Nhơn - Bình ĐịnhTháng 10-2006
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét