Bản báo cáo của của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á (NBR) của Mỹ phân tích, đánh giá những rủi ro ở vùng Biển Đông, biển Hoa Đông và Vịnh Thái Lan; các xu hướng gần đây tại các vùng biển tranh chấp - bao gồm cả tích cực và tiêu cực; các rào cản và cơ hội để thúc đẩy hợp tác. Cuối cùng, báo cáo đề xuất một loạt các kiến nghị chính sách cho các bên liên quan. Bản báo cáo được thực hiện bởi các chuyên gia quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực này.
LỜI MỞ ĐẦU
Những tranh chấp chủ quyền trên biển ở khu vực Đông và Đông Nam Á là những mối đe dọa tiềm tàng lớn nhất đối với nền an ninh và lợi ích kinh tế của các quốc gia trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Các tuyến giao thông lớn trên biển, đặc biệt là Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự lưu thông tự do của thương mại và hàng hóa. Đồng thời, các vùng biển này này cũng chứa đựng trong nó những tài nguyên sinh vật và phi sinh vật để góp phần duy trì nền kinh tế và dân số của các quốc gia yêu sách cũng như các quốc gia sử dụng các nguồn tài nguyên đó. Cùng với sự phát triển của công nghệ cho phép khoan, đào, khai thác sâu dưới nước, giờ đây tiềm năng tài nguyên của khu vực lại càng lớn. Tuy nhiên, những yêu sách chồng lấn về quyền tài phán và những nỗ lực của các quốc gia nhằm khẳng định vị trí của mình đã gây cản trở cho mọi hoạt động, từ các hoạt động thăm dò cho đến việc khai thác các tài nguyên vốn có. Do tính phức tạp của các yếu tố chính trị, lịch sử, pháp lý, kinh tế trong nước có liên quan, cho đến nay các quốc gia yêu sách vẫn chưa đi đến được một giải pháp cho những tranh chấp này. Thậm chí vấn đề này còn trở nên phức tạp hơn do áp lực ngày càng tăng về việc phát triển nguồn năng lượng trong khu vực khi mà yêu cầu của thế giới ngày càng cao.
Những nỗ lực nhằm giải quyết tranh chấp đã được thực hiện hàng thập kỷ nay, cả ở các cấp chính thức lẫn cấp Kênh II, kết quả chúng mang lại là những thỏa thuận nhằm gác xung đột chủ quyền sang một bên và cùng nhau khai thác các nguồn tài nguyên theo các hiệp định tạm thời – một phương pháp được ưu tiên để xây dựng lòng tin và hướng về phía trước. Một số hiệp định song phương ở Vịnh Thái Lan đã cho phép các dự án phát triển tài nguyên đã được triển khai. Các biện pháp xây dựng lòng tin ở Biển Đông giữa Trung Quốc và ASEAN, đặc biệt là Tuyên bố về Ứng xử của các Bên tại Biển Đông năm 2002 (DoC), cũng đã góp phần kiềm chế các căng thẳng, mặc dù không có cơ chế triển khai chính thức. Tuy nhiên các dàn xếp hiện hành cũng có những hạn chế của nó, thậm chí một vài dàn xếp đã bị trì hoãn một cách vô thời hạn.
Do đó căng thẳng vẫn tiếp tục leo thang và thường xuyên trở thành tâm điểm thời sự, đặc biệt là giữa các quốc gia yêu sách ở Biển Đông. Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam có lẽ là nóng nhất trong khu vực này và nổi bật bởi hàng loạt các vụ việc xảy ra trong những năm gần đây. Những vụ việc liên quan đến các quốc gia yêu sách khác về vấn đề Trường Sa, cũng như về việc xây dựng các trạm quân sự trên các bãi và đảo san hô ở Biển Đông đã khiến cho căng thẳng đến nay vẫn tiếp diễn và có tính nghiêm trọng, đồng thời trở thành động lực cho các chương trình hiện đại hóa quân sự trong khu vực. Hệ quả là, rất ít khả năng để những quốc gia này giải quyết các bất đồng trong tương lai gần.
Nhận thức được rằng, có lẽ là trong hàng thập kỷ tới các quốc gia vẫn khó có thể đi đến được các giải pháp cho những tranh chấp quyền tài phán trên biển trong khu vực, nhưng cũng nhận thức được tầm quan trọng của các vùng biển tranh chấp đối với thương mại và tài nguyên; do đó Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á (NBR) đã nghiên cứu về những tranh chấp này và tác động của chúng, để từ đó đưa ra những cách nhìn mới về cách thức quản lý những xung đột trên trước khi có được một giải pháp về chính trị. Để làm việc này, NBR đã tập hợp một đội ngũ gồm các chuyên gia quốc tế để thực hiện một dự án ba năm có tên là “Maritime Energy Resources in Aisa: Opportunities for Joint Development” [Tài nguyên Năng lượng Biển ở Châu Á: Cơ hội cho sự Phát triển Chung] (MERA) để phân tích các diễn biến gần đây trong khu vực và cung cấp những phân tích và các lựa chọn thực tiễn cho các nhà hoạch định chính sách nhằm góp phần cải thiện các tranh chấp.
Dự án này được hỗ trợ bởi Sáng kiến An ninh Châu Á thuộc Quỹ John D. Và Catherine T. MacArthur và được dẫn đầu bởi nhà nghiên cứu trưởng là Tiến Sĩ Cliv Schofield (Trung tâm của Úc về Tài nguyên và An ninh Đại dương, Đại học Wollongong, Úc). Báo cáo này được tổng hợp từ những kết luận và quan điểm chính của đội ngũ các học giả của dự án cũng như kết hợp ý kiến chuyên môn và phân tích của nghiên cứu trưởng, các cố vấn cấp cao, và nhân viên của NBR, những người đã tham dự hội thảo kéo dài ba ngày vào tháng 5/2011 để dự thảo báo cáo này. Mục đích của báo cáo là để tóm tắt và tập trung vào các khía cạnh liên quan đến chính sách của dự án MERA mà không bị hạn chế bởi các chính sách quốc gia hay các đòi hỏi về chủ quyền.
Tôi muốn bày tỏ sự cảm kích đối với các tác giả của bản báo cáo này vì thời gian và cống hiến mà họ đã dành ra, cũng như sự ủng hộ của họ đối với dự án MERA trong tất cả các giai đoạn. Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Quỹ MacArthur vì sự ủng hộ hào phóng về mặt tài chính, mà nếu không có nó thì dự án này đã không thể thực hiện được.
Tim Cook, Giám đốc Dự án, Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á
CLIVE SCHOFIELD là Giáo sư và Giám đốc Nghiên cứu tại Trung tâm của Úc về Tài nguyên và An ninh Đại dương (ANCORS), Đại học Wollongong, Úc. Hiện ông là Ủy viên giám đốc của Hội đồng Nghiên cứu Úc và là nghiên cứu trưởng của dự án “Tài nguyên Năng lượng Biển ở Châu Á: Cơ hội cho sự Phát triển Chung” của NBR. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ < clives@uoww.edu.au>.
IAN TOWNSEND-GAULT là Giám đốc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Pháp lý Châu Á, Khoa Luật, Đại học British Columbia. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ <itgault@law.ubc.ca>
HASJIM DJALAL là thành viên Hội đồng Biển Indonesia; Cố vấn Cấp cao của Bộ trưởng Bộ Hàng hải và Ngư nghiệp, Bộ trưởng Bộ Giao thông, và Trưởng Tham mưu Hải quân Indonesia; và là thành viên của Nhóm Chuyên gia Pháp lý của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Indonesia. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ < hdh@cbn.net.id>.
IAN STOREY là Ủy viên giám đốc của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS), Singapore, và là Biên tập viên của tạp chí Contemporary Southeast Asia. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ <ijstorey@edu.sg>.
MEREDITH MILLER là Phó Chủ nhiệm Các vấn đề Thương mại, Kinh tế, và Năng lượng ở Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á. Có thể liên lạc với bà qua địa chỉ < mmiller@nbr.org>.
TIM COOK là Giám đốc Cao cấp của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ tcook@nbr.org
TÓM TẮT
Báo cáo này phân tích các kết luận từ dự án ba năm về “Tài nguyên Năng lượng Biển ở Châu Á: Cơ hội cho sự Phát triển Chung” của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á, trong đó đánh giá các tranh chấp quyền tài phán trên biển và các cơ hội hợp tác ở Đông và Đông Nam Á.
NHỮNG KÉT LUẬN CHÍNH
Những tranh chấp lâu năm về các yêu sách quyền tài phán trên biển ở Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan đe dọa sự ổn định và thịnh vượng lâu dài của các quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Á. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đa phương trong những thập kỷ gần đây cùng với các thể chế pháp lý quốc tế như Công ước LHQ về Luật Biển, nhưng căng thẳng giữa các quốc gia yêu sách và các quốc gia sử dụng vẫn cao. Các quốc gia yêu sách vẫn chưa đi đến được một giải pháp cho những tranh chấp này do tính phức tạp của các yếu tố chính trị, lịch sử, pháp lý, kinh tế trong nước có liên quan và áp lực cần phải phát triển các nguồn năng lượng trong khu vực tranh chấp. Những mối quan ngại về quyền tiếp cận tài nguyên, cùng với việc các quốc gia yêu sách đã không thực thi được các biện pháp xây dựng lòng tin (CBM) để xoa dịu căng thẳng, đã cho thấy rằng một giải pháp chính trị khó có thể đạt được trong ngắn hạn. Ngay cả khi không có một thỏa thuận dài hạn, thì các quốc gia yêu sách vẫn cần phải có những hành động phối hợp tạm thời để xoa dịu căng thẳng, tăng cường hợp tác và lòng tin, cũng như duy trì cương vị quản lý đối với môi trường và tài nguyên biển.
Ý NGHĨA CHÍNH TRỊ
+ Các quốc gia có thể quản lý tốt hơn những căng thẳng hiện tại bằng cách thực thi các biện pháp xây dựng lòng tin, bao gồm cả các biện pháp được liệt kê trong Tuyên bố về Ứng xử của Các bên tại Biển Đông (DoC). Những biện pháp này có thể bao gồm những việc như sử dụng các đường dây nóng, thông báo trước về việc tập trận quân sự, tìm kiếm và cứu nạn chung, hợp tác về phòng, chống các mối đe dọa xuyên quốc gia, các quy định về ứng xử khi đụng độ trên biển cả, và tăng cường minh bạch về quân sự.
+ Bất kể hạn chế trong việc thực thi DoC, Trung Quốc và các nước ASEAN cần phải bắt đầu đàm phán để về một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông để chính thức hóa các biện pháp xây dựng lòng tin và hạn chế những hành động gây mất ổn định.
+Việc quản lý tạm thời nhiều tranh chấp lãnh thổ và trên biển có liên kết với nhau ở Châu Á là cách tốt nhất để đảm bảo quyền tự do hàng hải và sự lưu thông tự do của thương mại, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Những dàn xếp này sẽ không phương hại tới các yêu sách trên biển của các quốc gia trong thời gian ngắn.
Không gian biển nửa kín của Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan là nơi chứa đựng các tuyến giao thông trên biển (SLOC) có giá trị vô cùng quan trọng không chỉ với các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á mà còn với thương mại toàn cầu. Hơn nữa những vùng biển này còn chứa một môi trường biển vô cùng đa dạng về sinh học, có giá trị lớn với ngành đánh cá, và do đó nó duy trì được sự sống của hàng trăm triệu người. Thêm vào đó, từ lâu đã có những dự đoán rằng những khu vực này chứa đựng trữ lượng dồi dào các nguồn năng lượng đáy biển – một tiềm năng có sức hấp dẫn vô cùng lớn trong một thời đại mà mối lo ngại về an ninh năng lượng ngày càng gia tăng. Tuy các nguồn trữ lượng năng lượng dưới đáy biển đã được phát hiện và đang trong quá trình được phát triển trong khu vực Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan, nhưng tiềm năng thực sự của những khu vực này vẫn chưa được làm sáng tỏ và cũng chưa thể hiện thực hóa do các tranh chấp về quyền tài phán lãnh thổ và trên biển vẫn là những đặc tính cố hữu của những vùng biển này. Thực tế là những không gian biển này đã được định hình bởi nhiều tranh chấp chủ quyền đối với những hòn đảo, đảo đá, bãi đá ngầm có diện tích nhỏ và cách xa bờ cùng với những yêu sách chồng chéo và không phải lúc nào cũng rõ ràng về quyền tài phán.
Những tranh chấp về chủ quyền và quyền tài phán trên biển ở Đông và Đông Nam Á là những điểm nóng có nguy cơ trở thành mối đe dọa đối với hòa bình, an ninh, và cùng với nó là thịnh vượng về kinh tế trong những khu vực này. Những yêu sách xung đột nhau về chủ quyền đối với các hòn đảo và các đảo nhỏ cùng với những yêu sách chồng lấn trên biển liên quan đến chúng là nguồn gốc của sự căng thẳng trong suốt hàng thập kỷ qua. Những tranh chấp này đã dẫn đến hàng loạt các vụ việc và thậm chí là đụng độ quân sự giữa các quốc gia yêu sách trong quá khứ. Với sự dai dẳng của các tranh chấp, rất có khả năng những vụ việc đó sẽ lại tiếp diễn và có nguy cơ phát triển thành những xung đột lớn hơn.
Việc không có một giải pháp giải quyết tranh chấp đã là một cản trở lớn đối với các lợi ích tích cực mà những không gian biển và các tài nguyên của nó có thể mang lại cho các quốc gia trong khu vực. Đặc biệt là khi nhìn từ góc độ năng lượng, các tuyến biển của Châu Á là những điểm quá cảnh quan trọng – và cũng có thể là những nguồn trữ lượng dồi dào – của năng lượng hidrocacbon mà các nền kinh tế trong khu vực phải dựa vào để duy trì quỹ đạo phát triển của mình. Nhiều quốc gia trong khu vực đang bị thâm hụt nguồn năng lượng trong nước một cách nghiêm trọng và đang ngày càng phụ thuộc vào việc nhập khẩu dầu thô để đáp ứng các yêu cầu. Chẳng hạn, ở Đông Á Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước phụ thuộc rất nhiều vào dầu thô để đáp ứng hầu hết các yêu cầu của mình, và trong năm 2009 Trung Quốc đã phải dựa vào dầu thô nhập khẩu để giải quyết 53% các nhu cầu. Sự lệ thuộc vào dầu thô và khí của hầu hết các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á (ngoại trừ Brunei) được dự đoán là sẽ còn tăng mạnh trong tương lai.
Hầu hết các nguồn năng lượng nhập khẩu này đến từ Châu Phi và Trung Đông và được vận chuyển bằng đường biển qua các điểm kiểm tra ở Đông Nam Á như Eo biển Malacca, Singapore, Sunda, Lombok, Makassar, và Balabac rồi mới đi tiếp qua Biển Đông và Biển Hoa Đông đến bến cảng cuối cùng. Bất kỳ cuộc đụng độ hay biểu dương lực lượng nào ở một trong những điểm này cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực tới an ninh năng lượng trong khu vực do tàu thuyền phải điều chỉnh lại tuyến hàng hải. Do trữ lượng dầu chủ yếu của thế giới tập trung ở những nơi như Trung Đông nên các nguồn cung cấp thay thế mà không đòi hỏi việc quá cảnh qua khu vực bị ảnh hưởng là tương đối thấp (xem Hình 1-3).
Hình 1
Hình 2
Hình 3
Tranh chấp trong khu vực trải rộng từ những yêu sách chủ quyền đối với đảo và vùng biển liên kết cho đến những bất đồng về năng lực của những hòn đảo nhỏ, xa bờ, và không có người sinh sống để bổ trợ cho những yêu sách mở rộng đối với không gian biển. Những bất đồng về vai trò của các hòn đảo trong việc phân định biên giới trên biển, cũng như những bất đồng về cách thức tiếp cận hay phương pháp của việc phân định biên giới đã làm trầm trọng thêm sự phức tạp của các tranh chấp và dẫn đến sự trì hoãn của một biện pháp giải quyết cuối cùng. Những nỗ lực để giải quyết các tranh chấp này đã tiếp diễn hàng thập kỷ nay tại các cấp độ chính phủ và cấp độ Kênh II mà hầu như không đạt được mấy thành công. Trong đó, những nỗ lực trong cách tiếp cận về pháp luật quốc tế dựa trên Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS), các cuộc đàm phán phân định biên giới song phương, và các hiệp định phát triển tài nguyên chung đã đóng vai trò kiềm chế hành vi của các quốc gia, đưa ra các lựa chọn thay thế, và nhìn chung đã nhấn mạnh vai trò của ngoại giao và đàm thoại thay vì sử dụng lực lượng quân sự trong việc giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu đáng báo động về căng thẳng đang gia tăng giữa các quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Á về những yêu sách chồng chéo của họ. Chẳng hạn, trong nửa đầu năm 2011 đã có ít nhất là hai lần tàu hải giám của Trung Quốc quấy rầy tàu thăm dò địa chấn do chính phủ Philippin và Việt Nam làm chủ quản và buộc những con tàu này phải ngừng các hoạt động khai thác của mình. Sự kiện đầu tiên xảy ra vào tháng 3 ở Bãi Cỏ rong, một khu vực mà Philippin cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) kéo dài 200 hải lý của mình. Sự kiện thứ hai xảy ra vào tháng 5 ở vùng biển gần tỉnh Phú Yên của miền trung Việt Nam. Cả Manila và Hà Nội đều đã phản đối những hành động của tàu tuần tra Trung Quốc. Một vụ việc khác đã xảy ra vào tháng 9/2010 khi lực lượng Biên phòng Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng của một con tàu đánh cá của Trung Quốc sau một cuộc đụng dộ ở vùng biển tranh chấp ở Biển Hoa Đông. Sự kiện này, cùng với căng thẳng ngoại giao về sau, đã làm dấy lên căng thẳng giữa các thành phần chủ nghĩa dân tộc của hai nước và làm lu mờ hơn khả năng thực thi hiệp định năm 2008 về vùng phát triển chung và dự án dầu khí. Trong khi đó, ở Vịnh Thái Lan tình trạng xấu đi của quan hệ giữa Campuchia và Thái Lan, chủ yếu do những tranh chấp trên biên giới đất liền, vẫn có khả năng lan ra biển. Những vụ việc nêu trên và một loạt các tranh cãi tương tự đã thường xuyên xảy ra trong các năm gần đây. Trong mọi vụ việc thì căng thẳng và sự mất lòng tin đều gia tăng giữa các chủ thể chính, và từ đó đặt ra nghi vấn về khả năng giải quyết những tranh chấp này trong tương lai.
Ở những nơi có những yêu sách chồng lấn về biển, những bất trắc về quyền tài phán rõ ràng đã gây phức tạp cho công tác quản lý tài nguyên đại dương. Những chính sách không được điều phối dẫn đến tranh chấp về tài nguyên mang tính hủy hoại và không bền vững, đặc biệt là đối với các tài nguyên sinh vật biển. Sự đối đầu, va chạm giữa các đoàn tàu đánh cá có thể nhanh chóng kéo các cơ quan chức năng của các quốc gia ven biển vào cuộc, đặc biệt là khi các lực lượng an ninh của quốc gia chỉ đơn thuần cho là mình đang tuần tra ở không gian biển “của mình”. Sự cạnh tranh về tài nguyên cũng có xu hướng kích động các thành phần chủ nghĩa dân tộc - tương tự những gì đã xảy ra trong các cuộc biểu tình ở Trung Quốc về việc Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng thuyền đánh cá của Trung Quốc. Những tư tưởng chủ nghĩa dân tộc như vậy càng làm gia tăng rủi ro cho các nhà lãnh đạo chính trị do họ có thể vì lí do nhượng bộ mà thể hiện sự yếu đuối với công dân của mình. Trong trường hợp xấu nhất, nếu căng thẳng leo thang và trở thành xung đột vũ trang thì quyền tự do hàng hải và thương mại tren biển, bao gồm việc quá cảnh các nguồn tài nguyên năng lượng quan trọng, sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
Xin mời độc giả đọc toàn bộ bản dịch:
Clive Schofield, Ian Townsend-Gault, Hasjim Djalal, Ian Storey, Meredith Miller, và Tim Cook
Bá Việt (dịch)
Quang Hưng (hiệu đính)
Báo cáo của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á (National Bureau of Asian Research) về hợp tác trên biển ở Đông và Đông Nam Á, bản gốc tiếng Anh “From Disputed Waters to Seas of Opportunity: Overcoming Barriers to Maritime Cooperation in East and Southeast Asia”
1
TỪ NHỮNG VÙNG BIỂN TRANH CHẤP ĐẾN ĐẠI DƯƠNG CƠ
HỘI: VƯỢT QUA RÀO CẢN HỢP TÁC TRÊN BIỂN Ở ĐÔNG VÀ
ĐÔNG NAM Á
Clive Schofield, Ian Townsend-Gault, Hasjim Djalal, Ian Storey, Meredith
Miller, và Tim Cook
LỜI MỞ ĐẦU
Những tranh chấp chủ quyền trên biển ở khu vực Đông và Đông Nam Á là
những mối đe dọa tiềm tàng lớn nhất đối với nền an ninh và lợi ích kinh tế
của các quốc gia trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Các tuyến giao
thông lớn trên biển, đặc biệt là Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái
Lan, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự lưu thông tự do của thương
mại và hàng hóa. Đồng thời, các vùng biển này này cũng chứa đựng trong nó
những tài nguyên sinh vật và phi sinh vật để góp phần duy trì nền kinh tế và
dân số của các quốc gia yêu sách cũng như các quốc gia sử dụng các nguồn
tài nguyên đó. Cùng với sự phát triển của công nghệ cho phép khoan, đào,
khai thác sâu dưới nước, giờ đây tiềm năng tài nguyên của khu vực lại càng
lớn. Tuy nhiên, những yêu sách chồng lấn về quyền tài phán và những nỗ
lực của các quốc gia nhằm khẳng định vị trí của mình đã gây cản trở cho
mọi hoạt động, từ các hoạt động thăm dò cho đến việc khai thác các tài
nguyên vốn có. Do tính phức tạp của các yếu tố chính trị, lịch sử, pháp lý,
kinh tế trong nước có liên quan, cho đến nay các quốc gia yêu sách vẫn chưa
đi đến được một giải pháp cho những tranh chấp này. Thậm chí vấn đề này
còn trở nên phức tạp hơn do áp lực ngày càng tăng về việc phát triển nguồn
năng lượng trong khu vực khi mà yêu cầu của thế giới ngày càng cao.
Những nỗ lực nhằm giải quyết tranh chấp đã được thực hiện hàng thập kỷ
nay, cả ở các cấp chính thức lẫn cấp Kênh II, kết quả chúng mang lại là
những thỏa thuận nhằm gác xung đột chủ quyền sang một bên và cùng nhau
khai thác các nguồn tài nguyên theo các hiệp định tạm thời – một phương
pháp được ưu tiên để xây dựng lòng tin và hướng về phía trước. Một số hiệp
định song phương ở Vịnh Thái Lan đã cho phép các dự án phát triển tài
nguyên đã được triển khai. Các biện pháp xây dựng lòng tin ở Biển Đông
giữa Trung Quốc và ASEAN, đặc biệt là Tuyên bố về Ứng xử của các Bên
tại Biển Đông năm 2002 (DoC), cũng đã góp phần kiềm chế các căng thẳng,
www.nghiencuubiendong.vn
2
mặc dù không có cơ chế triển khai chính thức. Tuy nhiên các dàn xếp hiện
hành cũng có những hạn chế của nó, thậm chí một vài dàn xếp đã bị trì hoãn
một cách vô thời hạn.
Do đó căng thẳng vẫn tiếp tục leo thang và thường xuyên trở thành tâm điểm
thời sự, đặc biệt là giữa các quốc gia yêu sách ở Biển Đông. Mối quan hệ
giữa Trung Quốc và Việt Nam có lẽ là nóng nhất trong khu vực này và nổi
bật bởi hàng loạt các vụ việc xảy ra trong những năm gần đây. Những vụ
việc liên quan đến các quốc gia yêu sách khác về vấn đề Trường Sa, cũng
như về việc xây dựng các trạm quân sự trên các bãi và đảo san hô ở Biển
Đông đã khiến cho căng thẳng đến nay vẫn tiếp diễn và có tính nghiêm
trọng, đồng thời trở thành động lực cho các chương trình hiện đại hóa quân
sự trong khu vực. Hệ quả là, rất ít khả năng để những quốc gia này giải
quyết các bất đồng trong tương lai gần.
Nhận thức được rằng, có lẽ là trong hàng thập kỷ tới các quốc gia vẫn khó có
thể đi đến được các giải pháp cho những tranh chấp quyền tài phán trên biển
trong khu vực, nhưng cũng nhận thức được tầm quan trọng của các vùng
biển tranh chấp đối với thương mại và tài nguyên; do đó Cục Nghiên cứu
Quốc gia về Châu Á (NBR) đã nghiên cứu về những tranh chấp này và tác
động của chúng, để từ đó đưa ra những cách nhìn mới về cách thức quản lý
những xung đột trên trước khi có được một giải pháp về chính trị. Để làm
việc này, NBR đã tập hợp một đội ngũ gồm các chuyên gia quốc tế để thực
hiện một dự án ba năm có tên là “Maritime Energy Resources in Aisa:
Opportunities for Joint Development” [Tài nguyên Năng lượng Biển ở Châu
Á: Cơ hội cho sự Phát triển Chung] (MERA) để phân tích các diễn biến gần
đây trong khu vực và cung cấp những phân tích và các lựa chọn thực tiễn
cho các nhà hoạch định chính sách nhằm góp phần cải thiện các tranh chấp.
Dự án này được hỗ trợ bởi Sáng kiến An ninh Châu Á thuộc Quỹ John D.
Và Catherine T. MacArthur và được dẫn đầu bởi nhà nghiên cứu trưởng là
Tiến Sĩ Cliv Schofield (Trung tâm của Úc về Tài nguyên và An ninh Đại
dương, Đại học Wollongong, Úc). Báo cáo này được tổng hợp từ những kết
luận và quan điểm chính của đội ngũ các học giả của dự án cũng như kết
hợp ý kiến chuyên môn và phân tích của nghiên cứu trưởng, các cố vấn cấp
cao, và nhân viên của NBR, những người đã tham dự hội thảo kéo dài ba
ngày vào tháng 5/2011 để dự thảo báo cáo này. Mục đích của báo cáo là để
tóm tắt và tập trung vào các khía cạnh liên quan đến chính sách của dự án
MERA mà không bị hạn chế bởi các chính sách quốc gia hay các đòi hỏi về
chủ quyền.
www.nghiencuubiendong.vn
3
Tôi muốn bày tỏ sự cảm kích đối với các tác giả của bản báo cáo này vì thời
gian và cống hiến mà họ đã dành ra, cũng như sự ủng hộ của họ đối với dự
án MERA trong tất cả các giai đoạn. Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc
tới Quỹ MacArthur vì sự ủng hộ hào phóng về mặt tài chính, mà nếu không
có nó thì dự án này đã không thể thực hiện được.
Tim Cook
Giám đốc Dự án
Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á
CLIVE SCHOFIELD là Giáo sư và Giám đốc Nghiên cứu tại Trung tâm
của Úc về Tài nguyên và An ninh Đại dương (ANCORS), Đại học
Wollongong, Úc. Hiện ông là Ủy viên giám đốc của Hội đồng Nghiên cứu
Úc và là nghiên cứu trưởng của dự án “Tài nguyên Năng lượng Biển ở Châu
Á: Cơ hội cho sự Phát triển Chung” của NBR. Có thể liên lạc với ông qua
địa chỉ
IAN TOWNSEND-GAULT là Giám đốc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
tại Trung tâm Nghiên cứu Pháp lý Châu Á, Khoa Luật, Đại học British
Columbia. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ
HASJIM DJALAL là thành viên Hội đồng Biển Indonesia; Cố vấn Cấp cao
của Bộ trưởng Bộ Hàng hải và Ngư nghiệp, Bộ trưởng Bộ Giao thông, và
Trưởng Tham mưu Hải quân Indonesia; và là thành viên của Nhóm Chuyên
gia Pháp lý của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Indonesia. Có thể liên lạc với ông
qua địa chỉ
IAN STOREY là Ủy viên giám đốc của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
(ISEAS), Singapore, và là Biên tập viên của tạp chí Contemporary Southeast
Asia. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ
MEREDITH MILLER là Phó Chủ nhiệm Các vấn đề Thương mại, Kinh
tế, và Năng lượng ở Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á. Có thể liên lạc
với bà qua địa chỉ
TIM COOK là Giám đốc Cao cấp của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu
Á. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ tcook@nbr.org
www.nghiencuubiendong.vn
4
TÓM TẮT
Báo cáo này phân tích các kết luận từ dự án ba năm về “Tài nguyên Năng
lượng Biển ở Châu Á: Cơ hội cho sự Phát triển Chung” của Cục Nghiên cứu
Quốc gia về Châu Á, trong đó đánh giá các tranh chấp quyền tài phán trên
biển và các cơ hội hợp tác ở Đông và Đông Nam Á.
NHỮNG KÉT LUẬN CHÍNH
Những tranh chấp lâu năm về các yêu sách quyền tài phán trên biển ở Biển
Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan đe dọa sự ổn định và thịnh vượng
lâu dài của các quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Á. Mặc dù đã có
nhiều nỗ lực đa phương trong những thập kỷ gần đây cùng với các thể chế
pháp lý quốc tế như Công ước LHQ về Luật Biển, nhưng căng thẳng giữa
các quốc gia yêu sách và các quốc gia sử dụng vẫn cao. Các quốc gia yêu
sách vẫn chưa đi đến được một giải pháp cho những tranh chấp này do tính
phức tạp của các yếu tố chính trị, lịch sử, pháp lý, kinh tế trong nước có liên
quan và áp lực cần phải phát triển các nguồn năng lượng trong khu vực tranh
chấp. Những mối quan ngại về quyền tiếp cận tài nguyên, cùng với việc các
quốc gia yêu sách đã không thực thi được các biện pháp xây dựng lòng tin
(CBM) để xoa dịu căng thẳng, đã cho thấy rằng một giải pháp chính trị khó
có thể đạt được trong ngắn hạn. Ngay cả khi không có một thỏa thuận dài
hạn, thì các quốc gia yêu sách vẫn cần phải có những hành động phối hợp
tạm thời để xoa dịu căng thẳng, tăng cường hợp tác và lòng tin, cũng như
duy trì cương vị quản lý đối với môi trường và tài nguyên biển.
Ý NGHĨA CHÍNH TRỊ
Các quốc gia có thể quản lý tốt hơn những căng thẳng hiện tại bằng
cách thực thi các biện pháp xây dựng lòng tin, bao gồm cả các biện pháp
được liệt kê trong Tuyên bố về Ứng xử của Các bên tại Biển Đông (DoC).
Những biện pháp này có thể bao gồm những việc như sử dụng các đường
dây nóng, thông báo trước về việc tập trận quân sự, tìm kiếm và cứu nạn
chung, hợp tác về phòng, chống các mối đe dọa xuyên quốc gia, các quy
định về ứng xử khi đụng độ trên biển cả, và tăng cường minh bạch về quân
sự.
Bất kể hạn chế trong việc thực thi DoC, Trung Quốc và các nước
ASEAN cần phải bắt đầu đàm phán để về một bộ quy tắc ứng xử ở Biển
Đông để chính thức hóa các biện pháp xây dựng lòng tin và hạn chế những
hành động gây mất ổn định.
www.nghiencuubiendong.vn
5
Việc quản lý tạm thời nhiều tranh chấp lãnh thổ và trên biển có liên
kết với nhau ở Châu Á là cách tốt nhất để đảm bảo quyền tự do hàng hải và
sự lưu thông tự do của thương mại, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối
với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Những dàn xếp này sẽ
không phương hại tới các yêu sách trên biển của các quốc gia trong thời gian
ngắn.
Không gian biển nửa kín của Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan
là nơi chứa đựng các tuyến giao thông trên biển (SLOC) có giá trị vô cùng
quan trọng không chỉ với các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á mà còn với
thương mại toàn cầu. Hơn nữa những vùng biển này còn chứa một môi
trường biển vô cùng đa dạng về sinh học, có giá trị lớn với ngành đánh cá,
và do đó nó duy trì được sự sống của hàng trăm triệu người. Thêm vào đó,
từ lâu đã có những dự đoán rằng những khu vực này chứa đựng trữ lượng
dồi dào các nguồn năng lượng đáy biển – một tiềm năng có sức hấp dẫn vô
cùng lớn trong một thời đại mà mối lo ngại về an ninh năng lượng ngày càng
gia tăng. Tuy các nguồn trữ lượng năng lượng dưới đáy biển đã được phát
hiện và đang trong quá trình được phát triển trong khu vực Biển Hoa Đông,
Biển Đông, và Vịnh Thái Lan, nhưng tiềm năng thực sự của những khu vực
này vẫn chưa được làm sáng tỏ và cũng chưa thể hiện thực hóa do các tranh
chấp về quyền tài phán lãnh thổ và trên biển vẫn là những đặc tính cố hữu
của những vùng biển này. Thực tế là những không gian biển này đã được
định hình bởi nhiều tranh chấp chủ quyền đối với những hòn đảo, đảo đá, bãi
đá ngầm có diện tích nhỏ và cách xa bờ cùng với những yêu sách chồng
chéo và không phải lúc nào cũng rõ ràng về quyền tài phán.
Những tranh chấp về chủ quyền và quyền tài phán trên biển ở Đông và Đông
Nam Á là những điểm nóng có nguy cơ trở thành mối đe dọa đối với hòa
bình, an ninh, và cùng với nó là thịnh vượng về kinh tế trong những khu vực
này. Những yêu sách xung đột nhau về chủ quyền đối với các hòn đảo và
các đảo nhỏ cùng với những yêu sách chồng lấn trên biển liên quan đến
chúng là nguồn gốc của sự căng thẳng trong suốt hàng thập kỷ qua. Những
tranh chấp này đã dẫn đến hàng loạt các vụ việc và thậm chí là đụng độ quân
sự giữa các quốc gia yêu sách trong quá khứ. Với sự dai dẳng của các tranh
chấp, rất có khả năng những vụ việc đó sẽ lại tiếp diễn và có nguy cơ phát
triển thành những xung đột lớn hơn.
Việc không có một giải pháp giải quyết tranh chấp đã là một cản trở lớn đối
với các lợi ích tích cực mà những không gian biển và các tài nguyên của nó
www.nghiencuubiendong.vn
6
có thể mang lại cho các quốc gia trong khu vực. Đặc biệt là khi nhìn từ góc
độ năng lượng, các tuyến biển của Châu Á là những điểm quá cảnh quan
trọng – và cũng có thể là những nguồn trữ lượng dồi dào – của năng lượng
hidrocacbon mà các nền kinh tế trong khu vực phải dựa vào để duy trì quỹ
đạo phát triển của mình. Nhiều quốc gia trong khu vực đang bị thâm hụt
nguồn năng lượng trong nước một cách nghiêm trọng và đang ngày càng
phụ thuộc vào việc nhập khẩu dầu thô để đáp ứng các yêu cầu. Chẳng hạn, ở
Đông Á Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước phụ thuộc rất nhiều vào dầu thô
để đáp ứng hầu hết các yêu cầu của mình, và trong năm 2009 Trung Quốc đã
phải dựa vào dầu thô nhập khẩu để giải quyết 53% các nhu cầu. Sự lệ thuộc
vào dầu thô và khí của hầu hết các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á (ngoại
trừ Brunei) được dự đoán là sẽ còn tăng mạnh trong tương lai.
Hầu hết các nguồn năng lượng nhập khẩu này đến từ Châu Phi và Trung
Đông và được vận chuyển bằng đường biển qua các điểm kiểm tra ở Đông
Nam Á như Eo biển Malacca, Singapore, Sunda, Lombok, Makassar, và
Balabac rồi mới đi tiếp qua Biển Đông và Biển Hoa Đông đến bến cảng cuối
cùng. Bất kỳ cuộc đụng độ hay biểu dương lực lượng nào ở một trong những
điểm này cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực tới an ninh năng lượng trong khu
vực do tàu thuyền phải điều chỉnh lại tuyến hàng hải. Do trữ lượng dầu chủ
yếu của thế giới tập trung ở những nơi như Trung Đông nên các nguồn cung
cấp thay thế mà không đòi hỏi việc quá cảnh qua khu vực bị ảnh hưởng là
tương đối thấp (xem Hình 1-3).
www.nghiencuubiendong.vn
7
Hình 1
www.nghiencuubiendong.vn
8
Hình 2
www.nghiencuubiendong.vn
9
Hình 3
Tranh chấp trong khu vực trải rộng từ những yêu sách chủ quyền đối với đảo
và vùng biển liên kết cho đến những bất đồng về năng lực của những hòn
đảo nhỏ, xa bờ, và không có người sinh sống để bổ trợ cho những yêu sách
mở rộng đối với không gian biển. Những bất đồng về vai trò của các hòn đảo
trong việc phân định biên giới trên biển, cũng như những bất đồng về cách
thức tiếp cận hay phương pháp của việc phân định biên giới đã làm trầm
trọng thêm sự phức tạp của các tranh chấp và dẫn đến sự trì hoãn của một
www.nghiencuubiendong.vn
10
biện pháp giải quyết cuối cùng. Những nỗ lực để giải quyết các tranh chấp
này đã tiếp diễn hàng thập kỷ nay tại các cấp độ chính phủ và cấp độ Kênh II
mà hầu như không đạt được mấy thành công. Trong đó, những nỗ lực trong
cách tiếp cận về pháp luật quốc tế dựa trên Công ước LHQ về Luật Biển
(UNCLOS), các cuộc đàm phán phân định biên giới song phương, và các
hiệp định phát triển tài nguyên chung đã đóng vai trò kiềm chế hành vi của
các quốc gia, đưa ra các lựa chọn thay thế, và nhìn chung đã nhấn mạnh vai
trò của ngoại giao và đàm thoại thay vì sử dụng lực lượng quân sự trong việc
giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu đáng báo động về căng thẳng đang gia
tăng giữa các quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Á về những yêu
sách chồng chéo của họ. Chẳng hạn, trong nửa đầu năm 2011 đã có ít nhất là
hai lần tàu hải giám của Trung Quốc quấy rầy tàu thăm dò địa chấn do chính
phủ Philippin và Việt Nam làm chủ quản và buộc những con tàu này phải
ngừng các hoạt động khai thác của mình. Sự kiện đầu tiên xảy ra vào tháng 3
ở Bãi Cỏ rong, một khu vực mà Philippin cho là thuộc vùng đặc quyền kinh
tế (EEZ) kéo dài 200 hải lý của mình. Sự kiện thứ hai xảy ra vào tháng 5 ở
vùng biển gần tỉnh Phú Yên của miền trung Việt Nam. Cả Manila và Hà Nội
đều đã phản đối những hành động của tàu tuần tra Trung Quốc. Một vụ việc
khác đã xảy ra vào tháng 9/2010 khi lực lượng Biên phòng Nhật Bản bắt giữ
thuyền trưởng của một con tàu đánh cá của Trung Quốc sau một cuộc đụng
dộ ở vùng biển tranh chấp ở Biển Hoa Đông. Sự kiện này, cùng với căng
thẳng ngoại giao về sau, đã làm dấy lên căng thẳng giữa các thành phần chủ
nghĩa dân tộc của hai nước và làm lu mờ hơn khả năng thực thi hiệp định
năm 2008 về vùng phát triển chung và dự án dầu khí. Trong khi đó, ở Vịnh
Thái Lan tình trạng xấu đi của quan hệ giữa Campuchia và Thái Lan, chủ
yếu do những tranh chấp trên biên giới đất liền, vẫn có khả năng lan ra biển.
Những vụ việc nêu trên và một loạt các tranh cãi tương tự đã thường xuyên
xảy ra trong các năm gần đây. Trong mọi vụ việc thì căng thẳng và sự mất
lòng tin đều gia tăng giữa các chủ thể chính, và từ đó đặt ra nghi vấn về khả
năng giải quyết những tranh chấp này trong tương lai.
Ở những nơi có những yêu sách chồng lấn về biển, những bất trắc về quyền
tài phán rõ ràng đã gây phức tạp cho công tác quản lý tài nguyên đại dương.
Những chính sách không được điều phối dẫn đến tranh chấp về tài nguyên
mang tính hủy hoại và không bền vững, đặc biệt là đối với các tài nguyên
sinh vật biển. Sự đối đầu, va chạm giữa các đoàn tàu đánh cá có thể nhanh
chóng kéo các cơ quan chức năng của các quốc gia ven biển vào cuộc, đặc
biệt là khi các lực lượng an ninh của quốc gia chỉ đơn thuần cho là mình
www.nghiencuubiendong.vn
11
đang tuần tra ở không gian biển “của mình”. Sự cạnh tranh về tài nguyên
cũng có xu hướng kích động các thành phần chủ nghĩa dân tộc - tương tự
những gì đã xảy ra trong các cuộc biểu tình ở Trung Quốc về việc Nhật Bản
bắt giữ thuyền trưởng thuyền đánh cá của Trung Quốc. Những tư tưởng chủ
nghĩa dân tộc như vậy càng làm gia tăng rủi ro cho các nhà lãnh đạo chính
trị do họ có thể vì lí do nhượng bộ mà thể hiện sự yếu đuối với công dân của
mình. Trong trường hợp xấu nhất, nếu căng thẳng leo thang và trở thành
xung đột vũ trang thì quyền tự do hàng hải và thương mại tren biển, bao
gồm việc quá cảnh các nguồn tài nguyên năng lượng quan trọng, sẽ bị ảnh
hưởng tiêu cực.
Một hệ quả tức thời và gây khó khăn hơn của các tranh chấp chủ quyền biển
– và là một hệ quả nổi bật nếu nhìn từ khía cạnh an ninh năng lượng – là sự
hiện diện của nhiều yêu sách chồng lấn nhau về quyền tài phán đã ngăn cản
sự khai thác và tiếp cận các tài nguyên năng lượng dưới đáy biển có thể có
trong khu vực. Điều này được minh họa bởi những vụ việc xảy ra ở Biển
Đông như đã được miêu tả ở trên, khi mà những hoạt động thăm dò địa chấn
bị gián đoạn bởi những phản đối và can thiệp của một quốc gia yêu sách
khác. Các công ty dầu khí quóc tế thường ngại ngần khi thực hiện các hoạt
động khai thác ở những khu vực tranh chấp. Hơn nữa, ngay cả khi những
hoạt động khai thác này có diễn ra thành công và các tài nguyên năng lượng
dưới đáy biển có được khám phá đi nữa, thì vẫn khó có thể mà phát triển
được chúng khi mà các điều kiện về tài chính và pháp lý không được chắc
chắn và liên tục. Các nguồn tài nguyên ở khu vực tranh chấp có thể có vai
trò cốt yếu đối với phúc lợi kinh tế và ổn định chính trị của các quốc gia ven
biển có liên quan – nếu như chúng có thể được khai thác. Điều này đặc biệt
đúng nếu như sự phát triển có thể được hiện thực hóa vào đúng thời điểm,
khi mà các mối quan ngại của các quốc gia về an ninh năng lượng ngày càng
tăng.
Với nhận thức rằng những tranh chấp về quyền tài phán trên biển ở Biển
Đông, Biển Hoa Đông, và Vịnh Thái Lan khó có thể được giải quyết trong
tương lai gần, nhưng đồng thời cũng ý thức được về tầm quan trọng trước
mắt của những vùng biển tranh chấp đối với thương mại và nguồn cung cấp
các tài nguyên thiết yếu cho các dân tốc và các nền kinh tế trong khu vực,
Cục Nghiên cứu Châu Á Quốc gia (NBR) đã phân tích những tranh chấp này
cũng như tác động của chúng để có thể đưa ra những cái nhìn mới về cách
thức quản lý cũng như giải quyết các hệ quả của các tranh chấp trước khi đi
đến một giải pháp chính trị. Để làm được việc này NBR đã tập hợp một đội
ngũ gồm các chuyên gia quốc tế được dẫn đầu bởi nhà nghiên cứu trưởng
www.nghiencuubiendong.vn
12
Clive Schofield và hai cố vấn cấp cao là Hasjim Djalal và Ian Townsend-Gault để khai thác những tiến triển đáng chú ý gần đây trong khu vực và
cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những cái nhìn mới và những
công cụ thực tiễn để cải thiện hoặc quản lý tốt hơn những tranh chấp này. Ấn
phẩm này, được tổng hợp bởi nghiên cứu trưởng, các cố vấn cấp cao, và
nhân viên của NBR, tập trung vào các khía cạnh liên quan đến chính sách
của dự án “Tài nguyên Năng lượng biển ở Châu Á” (MERA).
Bài báo cáo này bắt đầu bằng việc thảo luận về những rủi ro ở vung biển ở
Đông và Đông Nam Á và Vịnh Thái Lan. Từ đó, bài báo cáo đánh giá về các
xu hướng gần đây, cả tích cực và tiêu cực, bao gồm cả những lợi ích chưa
được hiện thực hóa mà những không gian biển này mang lại. Phần sau đó sẽ
đánh giá các cách mà những nước yêu sách và các bên hữu quan khác có thể
hướng tới. Cuối cùng, bài báo cáo kết luận bằng một loạt các kiến nghị về
chính sách để góp phần tạo nên một thể chế bền vững hơn trên biển, để từ đó
thúc đẩy các tiềm năng kinh tế của khu vực.
Những gì đang bị đe dọa?
An ninh tuyến biển
Những không gian biển cấu tạo nên Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh
Thái Lan càng ngày càng quan trọng đối với các quốc gia ven biển có liên
quan, cũng như đối với khu vực và toàn thế giới vì nhiều lí do. Một mối
quan ngại nổi bật liên quan đến hàng hải và sự lưu thông tự do của thương
mại hàng hải. Điều này mang tầm quan trọng căn bản đối với sự vận hành
của các nền kinh tế nhập siêu ở Đông và Đông Nam Á. Theo Báo cáo về
Giao thông Hàng hải 2010 của Hội thảo LHQ về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD) thì có hơn 80% thương mại thế giới được thực hiện qua đường
biển. UNCTAD chỉ ra rằng trong năm 2009 lượng thương mại hàng hải là
7,8 tỉ tấn, giảm 4,5% so với mức 8,2 tỉ tấn trong năm 2008 do suy yếu toàn
cầu nhưng vẫn lớn hơn nhiều so với mức 6,0 tỉ tán của năm 2000 hay 2,6 tỉ
tấn của năm 1970. Hơn thế nữa, Châu Á chiếm 41% lượng hàng hóa trên
biển.
Hơn nữa, an ninh năng lượng cũng đang ngày càng trở thành vấn đề quan
trọng trong mối quan ngại về hàng hải của các quốc gia ven biển. Các SLOC
qua Biển Đông và Biển Hoa Đông vốn đã là thiết yếu đối với nhu cầu năng
lượng của các quốc gia ven biển, và vai trò của nó sẽ còn tăng thêm trong
tương lai. Thật vậy, những con số mà Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA)
đưa ra cho thấy rằng sự tăng trưởng về nhu cầu ở Đông Nam Á và Trung
www.nghiencuubiendong.vn
13
Quốc, cùng với nền sản xuất đang phát triển ở những nơi này, sẽ đồng nghĩa
với việc lượng dầu nhập khẩu dòng sẽ tăng gấp bốn lần vào năm 2030. Nếu
đúng như vậy thì lượng nhập khẩu sẽ chiếm 74% nhu cầu về dầu của Đông
Nam Á, so với mức 25% của năm 2008. Việc này cũng lại đồng nghĩa với sự
gia tăng về lưu lượng tàu chở dầu đi qua các điểm kiểm tra ở những nơi
trọng yếu như Eo biển Malacca và Singapore ở cửa ngõ phía tây nam đi vào
Biển Đông và các điểm ở Luzon và Đài Loan ở phía bắc. Tương tự như vậy
là các tuyến đường đi qua Eo biển Lombok và Makassar và cửa ngõ đi vào
Biển Đông qua Eo biển Balabac giữa quần đảo Philippin và Borneo – một
trong các tuyến đường thường được các tàu chở dầu thô cỡ lớn (VLCC) lựa
chọn.
Chia sẻ Tài nguyên Sinh vật: Cá cho Tương lai?
Biển Đông và Biển Hoa Đông là những vùng môi trường biển giàu có về sự
đa dạng sinh học. Cụ thể, Biển Đông đã được ghi nhận là một khu vực có sự
đa dạng sinh học mang tầm quan trọng quốc tế, còn Biển Hoa Đông và Vịnh
Thái Lan thì cũng màu mỡ không kém. Những môi trường này cũng tạo điều
kiện thuận lợi cho ngành cá ở tầm quốc tế và đương nhiên là ở cả tầm khu
vực. Trên thực tế Cơ quan Môi trường Thế giới của LHQ – một đối tác của
mười cơ quan quốc tế1 - đã nhận định rằng riêng Biển Đông đã đóng góp
một phần mười lượng đánh bắt cá toàn cầu. Cũng như Biển Đông, tính chất
nửa kín của Biển Hoa Đông thường tạo ra sự lưu thông và trao đổi về nước
một cách chậm chạp. Yếu tố này, cùng với các đặc tính môi trường khác của
nó, đã tạo ra một môi trường biển thuận lợi cho sự sinh sống của các loài
sinh vật di cư.
Những tài nguyên sinh vật biển này có vai trò cốt lõi đối với nền an ninh
lương thực của hàng trăm triệu người dân ven biển và khiến cho việc tiếp
cận với Biển Đông và Vịnh Thái Lan trở thành mối trăn trở thường trực của
các quốc gia ven biển. Hơn nữa, trong báo cáo về Tình trạng Ngành cá và
Ngư nghiệp Thế giới 2010 Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của LHQ
(FAO) đã nhận thấy rằng trong năm 2007 lượng tiêu thụ cá ở Châu Á là 74,5
triệu tấn, tương đương với hai phần ba lượng tiêu thụ toàn thế giới. Lượng
tiêu thụ trên đầu người ở Đông Nam Á đã tăng từ 12,7kg vào năm 1961 lên
29,8kg vào năm 2007, trong khi lượng tiêu thụ trên đầu người ở Đông Á
tăng từ 10,8kg vào năm 1961 lên 30,1kg vào năm 2007. Tầm quan trọng của
1 GEF là đối tác của Chương trình Phát triển của LHQ, Chương trình Môi trường của LHQ, Ngân
hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Ngân hàng Tái tạo và Phát triển Châu Âu, và Ngân
hàng Phát triển Liên Mỹ, và Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế.
www.nghiencuubiendong.vn
14
vấn đề này còn được nêu bật khi báo cáo này cũng chỉ ra rằng trong năm
2008 85% lượng cá trên biển đã bị khai thác hoàn toàn (53%) hoặc khai thác
quá mức, cạn kiệt, hoặc đang phục hồi (32%). Do đó việc bảo vệ và bảo tồn
môi trường biển của những vùng biển này cần phải được xem xét một cách
khẩn cấp và đòi hỏi phải thiết lập những khu vực bảo vệ biển (MPA) ở
những phần nhất định của Biển Đông và bảo tồn các hệ sinh thái bãi san hô
của các đảo thuộc vùng tranh chấp – những vùng này cung cấp môi trường
nuôi dưỡng và sinh sống đặc biệt quan trọng để duy trì toàn bộ ngành đánh
cá.
Một thách thức quan trọng khác trong bối cảnh này là tính chất di cư của các
đàn cá chủ chốt trong vùng biển này. Các đàn cá thường di cư trong và giữa
các vùng biển thuộc quyền tài phán của quốc gia và những khu vực có các
yêu sách chồng lấn (xem Hình 4). Việc này có nghĩa là phần lớn những tài
nguyên sinh vật quý giá này có thể được coi là một tài nguyên chung và
được quản lý chung – một việc mà vào hiện tại chưa xảy ra. Trong bối cảnh
này, sự cần thiết phải quản lý ở tầm hệ sinh thái và xuyên biên giới những
tài nguyên đang bị đe dọa này là hết sức quan trọng.
www.nghiencuubiendong.vn
15
Hình 4
Những mối đe dọa thường trực đối với Môi trường Biển
Môi trường biển ở từng khu vực được nghiên cứu đang bị đe dọa theo nhiều
cách khác nhau. Trong bài báo cáo Từ Chóp đến Bãi, Cơ quan Môi trường
Thế giới (GEF) đã nhận định rằng có hơn 80% các bãi đá ở Biển Đông và
Vịnh Thái Lan đang gặp nguy cơ và sẽ sụp đổ trong vòng 20 năm trừ khi các
www.nghiencuubiendong.vn
16
hoạt động mang tính bền vững được thực hiện; 70% các vùng phủ cây đước
đã bị mất trong vòng 70 năm qua, và với tốc độ hủy hoại môi trường sống
thì phần còn lại sẽ bị mất hoàn toàn vào năm 2030; và từ 20%-60% thềm cỏ
biển đã biến mất trong 50 năm qua, trong khi số còn lại cũng đang bị đe dọa
bị phá hủy. Biển Hoa Đông cũng là nơi có các hệ sinh thái dễ bị tổn thương,
và các tài nguyên sinh vật biển mà nó nuôi dưỡng cũng dễ bị đe dọa bởi sự ô
nhiễm từ đất liền gây hư hại hoặc phá hủy sự sinh sôi, gây giống, nuôi
dưỡng, và nơi trú ngụ mùa đông của những đàn cá quan trọng, và từ đó phá
hủy sự bền vững của ngành đánh cá. Sự cạnh tranh khai thác các nguồn cá
chung của các đoàn đánh cá thuộc các quốc gia ven biển cũng dẫn đến sự
khai thác thái quá các nguồn cá chung.
Tình trạng này có khả năng sẽ còn xấu đi khi mà lượng giao thông trên đại
dương và các hoạt động về dầu khí tăng lên. Ô nhiễm từ việc vận hành tàu
biển – chẳng hạn như từ các tàu chở dầu thải ra các khí bẩn sau khi lau tàu –
từ lâu đã là vấn đề và sẽ còn tiếp diễn trừ khi các quốc gia ven biển có thể
thực thi quyền tài phán đề ngăn chặn hành vi này. Rủi ro về ô nhiễm từ tai
nạn hay thiệt hại về tàu vẫn luôn hiện hữu. Mối đe dọa này được nêu bật bởi
thực tế là rất nhiều tên tiếng Anh của các hòn đảo nhỏ ở quần đảo Trường Sa
của Biển Đông có nguồn gốc từ những con tàu đã mắc cạn trên nó. Những
nghi vấn cũng vẫn đang tồn tại về khả năng của các quốc gia và các thực thể
khác trong việc thực hiện các biện pháp kiềm chế và dọn dẹp cần thiết trong
những trường hợp trên. Những hệ quả tiêu cực của sự bế tắc về quyền tài
phán một lần nữa lại được thể hiện rõ, và những nghi vấn vẫn tồn tại về ý chí
và khả năng của các chính phủ trong việc đưa ra các phản ứng tối ưu và kịp
thời đối với ô nhiễm từ vận hành tàu hay các thiệt hại từ các tai nạn trên
biển.
Việc khai thác và sản xuất dầu, bao gồm ở những khu vực sâu và rất sâu (ở
các độ sâu lần lượt hơn một nghìn feet và năm nghìn feet), cũng được dự
đoán là sẽ tăng ở Vịnh Thái Lan, Biển Đông, và Biển Hoa Đông và việc này
sẽ làm tăng rủi ro lan dầu từ giàn khoan dầu trong trường hợp không may.
Vụ việc Deepwater Horizon xảy ra vào năm 2010 ở Vịnh Mexico đã nhấn
mạnh thách thức kỹ thuật cũng như các thách thức khác mà các nước có
công nghệ hiện đại và các tổ chức được cấp phép của mình phải đối mặt khi
gặp phải những vấn đề thế này. Một lần nữa, những câu hỏi lại được đặt ra
về sự sẵn sàng và khả năng của các quốc gia cũng như các đơn vị vận hành
giàn khoan trong việc phản ứng một cách hiệu quả đối với sự lan dầu diện
rộng từ những hoạt động nêu trên.
www.nghiencuubiendong.vn
17
Như các phần về yếu tố an ninh con người và các tài nguyên biển dễ bị nguy
hại của bài báo cáo này sẽ cho thấy, cái giá phải trả về mặt kinh tế và con
người khi tiếp tục phá hủy môi trường biển là vô cùng cao.
Đánh giá yếu tố Dầu
Những khu vực có các yêu sách chồng lấn ở Biển Hoa Đông, Biển Đông, và
Vịnh Thái Lan từ lâu đã được cho là chứa đựng nhiều nguồn trữ lượng các
tài nguyên năng lượng dưới đáy biển. Tuy nhiên, do các tranh chấp ở những
khu vực này, những khả năng đó vẫn chưa thể xác nhận được.
Khả năng tồn tại các trữ lượng dầu quan trọng và gần gũi đó được coi là
động lực quan trọng dẫn đến các yêu sách mở rộng trên biẻn của các quốc
gia hữu quan. Những cám dỗ về trữ lượng dầu giàu có đó đã phần lớn giải
thích cho thái độ không khoan nhượng của các quốc gia này đối với yêu sách
của mình – do tồn tại nỗi sợ hãi rằng nhượng bộ sẽ đồng nghĩa với khả năng
mất hết phần tài nguyên quan trọng “của mình”.
Ở tầm khu vực, nhu cầu về năng lượng và sự lệ thuộc vào nhập khẩu vẫn
tiếp tục tăng, và làm tăng các mối quan ngại giữa các chính phủ mà coi nhập
khẩu năng lượng như một điểm yếu chiến lược. Các quốc gia Đông Bắc Á
như Hàn Quốc và Nhật Bản phụ thuộc rất nặng vào nhập khẩu năng lượng;
ví dụ, Nhật Bản nhập khẩu 90% nhu cầu về dầu của mình qua đường biển.
Trung Quốc đã trở thành quốc gia nhập khẩu dòng vào năm 1993; theo dữ
liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng của Mỹ (EIA), trong năm 2010
Trung Quốc đã nhập khẩu 47% nhu cầu dầu qua biển trong năm 2010 vừ
Trung Đông và 30% từ Châu Phi. Ở Đông Nam Á, nền sản xuất nội địa đang
bị suy yếu khi mà các quốc gia đang xuất khẩu hoặc đã từng xuất khẩu ở
thời điểm gần đây như Indonesia, Malaysia và Việt Nam đang trở nên (hay
đã trở nên như trường hợp của Indonesia) lệ thuộc vào nhập khẩu. Trên thực
tế, ở Đông Nam Á có lẽ chỉ có Brunei là vẫn còn có thể là quốc gia xuất
khẩu dầu trong tương lai, nhưng nếu xét ở tầm quốc tế thì lượng xuất khẩu
của Brunei là không đáng kể.
Vịnh Thái Lan vốn đã được chứng minh là một nguồn trữ lượng phong phú
của khí hidrocacbon, và đặc biệt là khí. Cần lưu ý là đã có rất nhiều phát
kiến thương mại được thực hiện ở những vùng biển không tranh chấp của
Thái Lan, ở vị trí rất gần về phía tây của vùng yêu sách chồng lấn giữa
Campuchia và Thái Lan. Những phát hiện đầy hứa hẹn cũng đã được đưa ra
ở các vùng biển không tranh chấp của Campuchia. Do đó, có nhiều yếu tố để
chứng minh rằng các vùng yêu sách chồng lấn của Thái Lan-Campuchia còn
www.nghiencuubiendong.vn
18
chứa đựng nhiều trữ lượng năng lượng đáy biển hơn, đặc biệt là ở dọc khu
vực trung tâm Vịnh Thái Lan nối liền với một phần của vùng Lõm Pattani –
một cấu trúc đã được chứng minh là chứa đựng các mỏ quý giá về mặt
thương mại ở vùng biển Thái Lan. Những khu vực đáy biển này cấu thành
nên những diện tích chưa được khai thác tốt nhất ở Đông Nam Á. Việc tiếp
cận những tài nguyên năng lượng đáy biển này cho phép Campuchia có
được một phương tiện tiềm năng để biến đổi nền kinh tế đang phát triển của
mình. Về phần mình, Thái Lan, với tư cách là một nước đang công nghiệp
hóa nhanh chóng, cũng đang có những mối quan ngại thường trực về an ninh
năng lượng và khiến cho tiềm năng về tăng cường sản xuất dầu khí trong
nước càng trở nên hấp dẫn.
Còn với Biển Hoa Đông, tài nguyên dầu khí đáy biển từ lâu đã được các
quốc gia ven biển để ý đến – điển hình là bằng việc lập nên vô số các khối
khai phá, đôi khi chồng lấn lẫn nhau, từ tận những năm 1970 – nhưng mãi
đến gần đây mới thu được thành công đáng kể. Kể từ năm 2000, những hoạt
động khai phá này đã bắt đầu thu về được những kết quả chắc chắn, do đã
phát hiện ra các vùng chủ yếu sản sinh khí ở về phía Trung Quốc, nhưng lại
gần hơn về phía đường trung tuyến hoặc trung trực giả định ở phân trung
tâm của biển.
Những ước tính về quy mô của những tài nguyên này là không đồng nhất
với nhau, đặc biệt là ở khu vực Biển Đông. Chẳng hạn, Trung Quốc đã ước
tính trữ lượng dầu ở đây là vào khoảng từ 105 đến 213 tỉ thùng dầu. Tuy
nhiên, những đánh giá này chỉ liên quan đến tổng lượng tài nguyên dầu khí
mà không phải trữ lượng có thể phục hồi – một sự khác biệt lớn. Một quy tắc
theo kinh nghiệm của ngành này là sẽ có tỉ lệ khôi phục 10% đối với các tinh
ở biên giới, vì vậy các chỉ số của Trung Quốc sau khi có điều chỉnh lại sẽ rơi
vào khoảng từ 10,5-21,3 tỉ thùng dầu có thể khôi phục.
Chẳng hạn, báo cáo mang tên “Đánh giá về Tài nguyên Dầu khí chưa khai
phá ở Đông Nam Á, 2010” của Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) đã xác
định 23 tỉnh địa chất có thể phù hợp cho sự phát triển dầu khí ở Đông Nam
Á, trong đó có 9 tỉnh nằm ở khu vực Đông Nam Á (bao gồm cả những khu
vực cận biên với Biển Đông cũng như các khu vực trên bờ không nằm trong
tranh chấp). USGS đã ước tính rằng tổng lượng tài nguyên dầu thông thường
của những tỉnh này là vào khoảng 15.6 tỉ thùng dầy, tương đương với 1,6 tỉ
thùng dầu của trữ lượng có thể khôi phục theo quy tắc khôi phục 10%.
Một ước tính khác thường được nhắc đến là của Viện nghiên cứu Địa chất
Nước ngoài của Nga. Cơ quan này đã ước tính rằng vùng Biển Đông có 1,6
www.nghiencuubiendong.vn
19
tỉ thùng dầu và trong đó 70% là khí, do đó thành tố dầu tương đương với 1,8
tỉ thùng dầu. Trên thực tế các trữ lượng khí ở đây có thể rất hứa hẹn, đặc biệt
là khi tốc độ phục hồi từ các mỏ khí thường nhanh hơn rất nhiều so với mỏ
dầu (75% so với 10%). Tuy vậy, nhưng những ước tính về trữ lượng khí ở
Biển Đông cũng gặp phải những bất trắc như với trữ lượng dầu, và vì những
lí do tương tự (không có cơ hội khai phá do các tranh chấp chủ quyền và các
yêu sách chồng lấn trên biển). Một lần nữa, những ước tính của Trung Quốc
là vô cùng lạc quan, nhưng các chỉ số của Trung Quốc, cũng giống như các
ước tính khác, thường bao gồm cả các tài nguyên khí thông thường và khí
bất thường. Tài nguyên khí bất thường, đặc biệt là khí hydrat, có thể là một
thay thế hấp dẫn cho các tài nguyên dầu khí thông thường trong tương lai.
Tuy nhiên, để khai phá được nó vào thời điểm này vẫn là không tưởng. Việc
không thể phân biệt tài nguyên khí thông thường với tài nguyên khí bất
thường đã khiến cho nhiều ước tính trở nên không đáng tin cậy từ góc nhìn
của các xem xét về an ninh năng lượng trong ngắn hạn và trung hạn.
Với các chỉ số của EIA rằng lượng tiêu thụ dầu thông thường (dầu thô và
dầu tinh) tính riêng trong năm 2010 đã lên đến 26,9 tỉ thùng, có thể thấy
rằng khả năng để đánh giá một cách lạc quan các trữ lượng dầu khí ở Biển
Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan là rất thấp, ít nhất là ở tầm thế
giới. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những tài nguyên đó, nếu đúng là
chúng có tồn tại và có thể được khai thác, sẽ không có giá trị quan trọng ở
tầm khu vực hay giữa quốc gia với quốc gia. Dù sao nó cũng cho thấy rằng
những câu chuyện về sự dồi dào trữ lượng dầu khí ở Biển Đông cũng cần
phải được xem xét lại.
Công nghệ mới, Mặt trận mới
Các hoạt động khai phá tài nguyên ở các khu vực xa bờ đang được tăng
cường thông qua những phát triển quan trọng về công nghệ. Những lĩnh vực
đáng chú ý mà tại đó những phát triển quan trọng đang diễn ra gồm có các
mỏ khai phá năng lượng dưới đáy biển, khai thác mỏ đáy biển, sử dụng tài
nguyên biển, năng lượng đại dương, và các hoạt động kiềm chế thay đổi khí
hậu. Thềm lục địa và đáy biển sâu có khả năng cung cấp các tài nguyên sinh
học và khoáng vật khác và đang ngày càng được khai thác nhiều hơn, một
phần nhờ những tiến bộ đáng kể về công nghệ khai phá sâu dưới đáy biển.
Các khu vực xa bờ là một nguồn tài nguyên phi sinh vật lớn và quan trọng
với các tài nguyên như hidrocacbon. Điều này nhiều khả năng sẽ còn được
củng cố trong tương lai gần do giá dầu khí tăng do sản xuất đi vào suy thoái
trong khi nhu cầu về năng lượng ngày càng cao. Những cải tiến trong công
www.nghiencuubiendong.vn
20
nghệ ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn để khai phá và khai thác một
cách có hiệu quả về mặt kinh tế các tài nguyên dầu khí xa bờ trong các điều
kiện khắc nghiệt, kể cả ở những vùng nước sâu xa bờ. Những cải tiến lớn về
công nghệ trong ngành khai thác dầu khí trong những năm ngần đây đã cho
phép khai phá ở những vùng nước sâu và rất sâu. Nó bao gồm việc khoan
được những cái giếng sâu hơn, cũng như những cải tiến quan trọng đối với
thiết kế dàn khoan sản xuất và các công nghệ khai phá địa vật lý. Tất cả
những điều này đã tăng cương một cách đáng kể khả năng thành công của
việc khai phá và khai thác ở vùng đáy biển sâu. Bất chấp vụ tai nạn xảy ra
với Deepwater Horizon và những trì hoãn hoạt động đối với các dàn khoan
xa bờ mà tai nạn này gây ra, công việc khoan sâu và rất sâu để khai thác khí
hidrocacbon dưới đáy biển nhiều khả năng vẫn sẽ phát triển và là một lựa
chọn quan trọng cho việc khai phá dầu khí trong tương lai. Chẳng hạn, mặc
dù việc sản xuất xa bờ của Trung Quốc hiện tại vẫn diễn ra tương đối gần bờ
và ở những vùng nước trũng, chẳng hạn như ở các vùng Vịnh Bohai và Vịnh
Bắc Bộ, nhưng các hoạt động khai phá ở vùng nước sâu ở Biển Hoa Đông
và Biển Đông đang ngày càng tăng. Việc gần đây Trung Quốc xây dựng dàn
khoan dầu nửa chìm nửa nổi để khai thác vùng nước sâu, có khả năng khoan
sâu đến 3000 mét, đã chứng minh cho luận điểm này.
Đằng sau yếu tố về dầu khí trong các tranh chấp biển ở khu vực, cũng như
những lợi ích ngày càng tăng đối với việc khoan nước sâu ở vùng biển này,
là thực tế rằng các quốc gia vẫn còn phụ thuộc nặng nề vào dầu khí như một
nguồn năng lượng chủ yếu để vận hành nền kinh tế thế giới. Khi mà nguồn
cung cấp dầu khí ngày càng cạn kiệt trong khi nhu cầu về nó vẫn đang trên
đà đi lên, thì khả năng lớn về giá dầu ngày một tăng cao sẽ càng làm động
lực cho việc khai phá và khai thác các trữ lượng dầu bất thường như trữ
lượng dầu ở các vùng sâu và rất sâu.
Nhìn xa hơn vấn đề dầu khí
Mặc dù thường được coi là tâm điểm, nhưng trữ lượng dầu khí không phải là
những khoáng sản duy nhất có thể được khai thác từ đáy biển. Trong khi
những khoáng sản ở đáy biển như hạch polymetal đã được xét đến từ những
năm 1960, những phát triển gần đây lại tập trung vào việc khai thác và sử
dụng các khoáng sản như phótphorit, khí bay hơi, sunfua polymetal, và
những loại khí hidrocacbon bất thường như hidrat khí. Mặc dù việc khai thác
một số loại khoáng sản này trong thời điểm hiện tại, đặc biệt là với hidrat, là
không khả thi về mặt thương mại, nhưng tình huống này có thể thay đổi theo
thời gian khi mà các yêu cầu và giá cả thay đổi và công nghệ phát triển.
Những nỗ lực hiện tại để khai thác các mỏ sunfua dưới đáy biển – từ độ sâu
www.nghiencuubiendong.vn
21
khoảng 1.600m ở Biển Bismark thuộc Papua New Gunie – đã phác họa cho
những tiềm năng phát triển lĩnh vực này của các quốc gia trong khu vực đảo
Thái Bình. Trên thực tế, Papua New Guinea đã cấp phép cho Nautilus
Minerals để thực hiện việc khai thác mỏ ở đấy biển đầu tiên trên thế giới –
dự án Solwara 1 vào tháng 1/2011.
Cũng cần lưu ý về nhu cầu ngày càng cao của các quốc gia đối với các tài
nguyên biển, những tài nguyên bổ trợ cho các tài nguyên sinh vật biển.
Những vùng sinh vật biển (gồm thực vật và động vật) là tài nguyên chưa
được khai thác và là tiềm năng phát triển cho các lĩnh vực như y học, nông
nghiệp (cung cấp cho các chuyên gia những thực phẩm chức năng và bổ trợ
cho các chế độ ăn uống, cũng như các chất hóa học dùng cho nông nghiệp
như thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu), mỹ phẩm, và cho các ngành công nghiệp
mà các sản phẩm biển có thể cung cấp những enzym và chất xúc tác quan
trọng cho các quá trình công nghiệp.
Việc này đã dẫn đến sự ra đời của “thăm dò sinh học” biển và loại hoạt động
này là một tiềm năng lớn về tài nguyên dồi dào và cơ hội cho các quốc gia
ven biển. Trên thực tế, chỉ riêng trong năm 2000, những sản phẩn liên quan
đến công nghệ sinh học biển đã được ước tính có giá trị vào khoảng 100
triệu USD. Tiềm năng để phát triển từ thăm dò sinh học biển, đặc biệt là từ
những vùng hầu như chưa được biết đến do các yêu sách chồng lấn về quyền
tài phán hay những vùng nằm sâu dưới đáy biển, trở nên nổi bật do trong số
hơn 30.000 sản phẩm biển tự nhiên được dự báo từ những năm 1960 chỉ có
dưới 2% trong số đó là có nguồn gốc từ các cấu trúc dưới đáy biển. Những
vùng biển đa dạng về sinh học nhưng lại chưa được khai phá hết ở Biển Hoa
Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan dường như có rất nhiều tiềm năng về
mặt này.
Hướng đi khác: Năng lượng đại dương và các Hoạt động kiểm soát Biển
đổi Khí hậu
Những khu vực biển rộng lớn đang được xem xét cũng là một nguồn tài
nguyên rộng lớn nhưng cũng chưa được khai thác để đối phó với những tác
động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Chẳng hạn, một vài kịch bản kỹ thuật địa
chất biển đang được khai thác để tăng cường sức chứa của đại dương để tích
trữ và hấp thu khí đioxit cácbon từ khí quyển, trong đó bao gồm các hoạt
động như nuôi dưỡng đại dương, cô lập sinh học đối với khí đioxit cácbon,
và hút khí cácbon xa bờ. Thêm vào đó, “Báo cáo Đánh giá thứ Tư của Ban
Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu” đã thừa nhận về vai trò to lớn mà năng
lượng sản xuất từ gió, sóng, dòng nước, và thủy triều, cũng như năng lượng
www.nghiencuubiendong.vn
22
từ các kỹ thuật chuyển đổi nhiệt năng đại dương có thể có để thay thế một
phần cho năng lượng hóa thạch. Nhưng đồng thời báo cáo này cũng đã nhấn
mạnh rằng mức độ các nguồn năng lượng trên có thể khai thác thương mại
vẫn còn rất thấp. Tiềm năng sử dụng những vùng biển của Biển Hoa Đông,
Biển Đông, và Vịnh Thái Lan cho những mục đích này hiện vẫn chưa được
hiện thực hóa.
Chúng ta đang ở đâu? Các xu hướng tích cực và tiêu cực
Nếu chỉ lướt qua trang nhất các tờ báo thường nhật thì rất dễ có ấn tượng
rằng những tranh chấp về quyền tài phán trên biển ở Đông và Đông Nam Á
là không thể giải quyết được và trước sau gì cũng sẽ dẫn đến xung đột trong
khu vực. Nhưng trên thực tế vẫn tồn tại những cơ sở để có thể lạc quan một
cách thận trọng, và đồng thời cũng có những lí do thuyết phục để tăng các
mối quan ngại. Mục này sẽ dành để phân tích các xu hướng gần đây của các
tranh chấp, bắt đầu bằng việc nhấn mạnh các tranh chấp có tiến triển và hình
thành được nên các nền tảng để hướng về tương lai.
Những xu hướng tích cực
Tiến triển vượt bậc trong việc định nghĩa biên giới. Một cách đáng chú ý
để các quốc gia ven biển có thể làm rõ yêu sách trên biển của mình và giải
quyết các tranh chấp với các quốc gia láng giềng là thông qua việc phân định
biên giới trên biển của mình. Biên giới này có giá trị mang lại sự rõ ràng và
chăc chắn cho các quốc gia trên biển cũng như các thực thể sử dụng biển, từ
đó góp phần giảm thiểu rủi ro xảy ra va chạm hay xung đột. Sự phân định rõ
ràng biên giới trên biển cũng sẽ tạo ra một khuôn khổ quyền tài phán và một
thể chế ổn định trên biển cần thiết cho việc quản lý tổng thể và bền vững
môi trường biển và tài nguyên của nó. Mặc dù rất nhiều biên giới tiềm năng
ở Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan vẫn chưa được phân định,
những tiến triển nhất định đã được thực hiện – mặc dù về bản chất chúng bị
phân mảnh và diễn ra từ từ - trong đó bao gồm những thỏa thuận được ký
kết gần đây. Điển hình là có hiệp định EEZ giữa Việt Nam và Thái Lan năm
1997, hiệp định phân định biên giới biển ở Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và
Việt Nam năm 2000, hiệp định ranh giới thềm lục địa giữa Indonesia và Việt
Nam năm 2003, “trao đổi thư từ” giữa Brunei và Malaysia năm 2009, và
hiệp định năm 2009 giữa Indonesia và Singapore về việc mở rộng ranh giới
vùng lãnh hải đã được phân định một phần của mình.
Một cách tiếp cận rõ ràng hơn đối với phân định biển. Trong bối cảnh này,
luật quốc tế về phân định biên giới trên biển đã có những bước phát triển
www.nghiencuubiendong.vn
23
quan trọng. Đặc biệt là vào năm 2009 phán quyết của Tòa án Công lý Quốc
tế (ICJ) trong vụ việc biên giới trên biển giữa Rumani và Ukraina đã mang
đến một cách tiếp cận chắc chắn hơn cho một chủ thể mà trước đây đã có
quá nhiều khái niệm và cách tiếp cận. Tòa đã tuyên bố rằng, đầu tiên, cần
phải xác định một đường phân định tạm thời bằng các phương pháp “khách
quan hình học” “phù hợp với địa lý của khu vực.” Tòa ICJ trong vụ Biển
Đen đã xác định rằng một phương pháp khách quan hình học chính là việc
xây dựng một đường trung tuyến và cho rằng cần phải áp dụng phương pháp
này “trừ khi có những lí do thuyết phục khiến cho việc này trở nên bất khả
thi trong trường hợp cụ thể này.” Tuyên bố rõ ràng và mang tính ràng buộc
về đường trung tuyến này là một phần của phán quyết thống nhất của Tòa và
cũng là một bước tiến quan trọng so với những tuyên bố kém rõ ràng hơn
trước đây của ICJ về vấn đề này.
Ở giai đoạn thứ hai của quá trình xét xử, tòa ICJ đánh giá về việc liệu có tồn
tại yếu tố nào dẫn đến sự cần thiết phải điều chỉnh đường trung tuyến tạm
thời này để đạt được kết quả công bằng thỏa đáng hay không. Cuối cùng, ở
giai đoạn thứ ba, đường trung tuyến này phải trải qua sự kiểm tra về sự
“không tương xứng”, mà cụ thể là việc so sánh chiều dài của các đường bờ
biển có liên quan của hai bên so với diện tích biển được chia.
Nếu các cơ quan tư pháp duy trì được cách tiếp cận ba giai đoạn này thì nó
sẽ mang lại khả năng dự đoán được về các tranh chấp biên giới trên biển, và
từ đó khuyến khích được việc sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp này.
Cách tiếp cận này nhiều khả năng cũng sẽ có tầm ảnh hưởng lớn trong các
cuộc đàm phán biên giới trong tương lai giữa các quốc gia ven biển, ngay cả
khi phán quyết trong vụ Biển Đen chỉ có giá trị ràng buộc đối với Rumani và
Ukraina. Phán quyết của tòa ICJ có giá trị thông báo về tiến triển hướng tới
việc xác định các biên giới hiện vẫn chưa được phân định tren biển ở các vụ
việc đang được xem xét ở Châu Á. Tuy vậy, cũng cần phải xác định rằng sự
rõ ràng ngày càng cao này về cách tiếp cận đối với việc phân định biên giới
trên biển tuy rất hữu ích nhưng không phải lúc nào cũng mang lại giải pháp
tức thì cho các tranh chấp phức tạp về biên giới trên biển, nhất là khi những
tranh chấp đó liên quan đến chủ quyền trên đảo và các thái độ thù địch đối
với các yêu sách về quyền tài phán như ở Biển Hoa Đông hay Biển Đông.
Xu hướng đang hình thành về quy chế các đảo. Một yếu tố then chốt cần
xem xét trong việc phân định biên giới trên biển, đồng thời là nguyên nhân
chủ yếu của các tranh chấp, trong đó bao gồm các vùng biển ở Đông và
Đông Nam Á, là vấn đề về quy chế đảo. Từ những phân tích về quy chế này,
đặc biệt là từ những phán quyết của các tòa án quốc tế, có thể thấy rằng có
www.nghiencuubiendong.vn
24
một xu thế đang hình thành về việc trao cho các đảo ngày càng ít hiệu lực
trong việc phân định biển. Điều này đặc biệt đúng trong các trường hợp các
đảo không quan trọng hay nằm ở vị trí tương đối xa bờ biển của đất liền đến
mức sự chênh lệch về đường bờ biển liên quan là hết sức rõ ràng. Những đảo
nhỏ này vì thế sẽ có tác động không tương xứng đối với việc xác định các
đườn biên giới dựa trên quy tắc đường cách đều và sẽ dẫn đến một kế quả
không thỏa đáng. Từ đó hệ quả là những ảnh hưởng mà các đảo có thể có
đối với các đường phân định biên giới biển nhìn chung đã bị coi nhẹ. Trên
thực tế, có vẻ như một vài quốc gia ven biển ở Biển Đông, đặc biệt là
Malaysia và Việt Nam, đã hình thành quan điểm rằng những hòn đảo tranh
chấp ở Biển Đông không có khả năng tạo ra yêu sách về quyền đối với vùng
EEZ và thềm lục địa. Điều này có thể thấy rõ từ thực tế là những nước này
đã đệ trình về quyền thềm lục địa mở rộng ra xa hơn 200 hải lý từ đường cơ
sở dọc bờ biển đất liền của mình. Có thể thấy từ những công hàm phản đối
rằng Trung Quốc không chia sẻ quan điểm này. Tuy nhiên, nếu ý kiến này
được duy trì, thì tầm quan trọng của ít nhất là một số hòn đảo tranh chấp sẽ
bị giảm đi đáng kể và phạm vi của các yêu sách chồng lấn về quyền tài phán
trên biển sẽ bị rút ngắn lại. Cũng có vẻ như sự phân biệt giữa các đảo tự
nhiên và đảo nhân tạo sẽ được duy trì. (Đảo nhân tạo chỉ được hưởng quy
chế vùng bảo vệ 500 mét quanh chúng).
Thực thi các dàn xếp phát triển chung trên biển. Một đặc tính khác của các
vùng biển Đông và Đông Nam Á là sự tồn tại của nhiều hiệp định phát triển
chung trên biển. Trên thực tế các quốc gia dường như đã tập trung rất nhiều
vào việc phát triển chung ở khu vực này. Bên cạnh các vùng được hình
thanh lâu đời như của Hàn Quốc và Nhật Bản (1974) hay Malaysia và Thái
Lan (được đồng thuận trên nguyên tắc vào năm 1979), thì những vùng khai
thác chung cũng đã được hình thành giữa Malaysia và Việt Nam (1992) liên
quan đến việc khai thác và phát triển khí hidrocacbon dưới đáy biển, giữa
Trung Quốc và Việt Nam (2000) về các hoạt động đánh cá chung trong điều
ước năm 2000 về biên giới trên biển. Campuchia và Thái Lan trong năm
2001 cũng đã đồng thuận trên nguyên tắc về việc đi đến thỏa thuận về phát
triển chung trên biển trên một phần khu có yêu sách chồng lấn, mặc dù trên
thực tế vẫn chưa đạt được nhiều tiến triển. Hơn thế nữa, một loạt các vùng
đánh cá tạm thời đã được hình thanh ở Biển Hoa Đông trên cơ sở song
phương giữa Nhật Bản và Trung Quốc vào năm 1997, giữa Nhật Bản và Hàn
Quốc vào năm 2000, giữa Trung Quốc và Hàn Quóc vào năm 2001 (xem
Hình 4). Trong năm 2008, Trung Quốc và Nhật Bản cũng đã đồng thuận
trên nguyên tắc về việc xác định một vùng chung ở khu vực phía bắc của
Biển Hoa Đông, nhưng việc triển khai hiệp định này vẫn chưa có tiến triển
www.nghiencuubiendong.vn
25
nào đáng chú ý. Còn đối với Biển Đông, việc ký kết Tuyên bố về Ứng xử
của các Bên ở Biển Đông (DoC) vào năm 2002 và Hiệp ước Thăm dò Chung
(JMSU) sau đó được ký kết giữa Trung Quốc – Philippin – Việt Nam cũng
có thể được coi là những tiến triển tích cực, mặc dù việc DoC không được
thực thi một cách thực sự và dự án JMSU đã bị hủy vào năm 2008 đã phản
biện luận điểm này.
Những vùng phát triển chung trên biển này phù hợp với Điều 74 khoản 3 và
Điều 83 khoản 3 của Công ước UNCLOS liên quan đến phân định vùng
EEZ và thềm lục địa, trong đó kêu gọi các quốc gia trong khi chờ để đi đến
thỏa thuận và trên tinh thần hiểu biết và hợp tác cần nỗ lực hết mình để đi
đến các dàn xếp tạm thởi có tính thực tiễn cao. Quan trọng là một vài trong
số những vùng phát triển chung này đã được vận hành một cách khá là thành
công. Chẳng hạn, mặc dù phải mất tương đối nhiều thời gian thì Malaysia và
Thái Lan mới có thể chuyển sự đồng thuận trên nguyên tấc thành một điều
ước chính thức, nhưng các hoạt động khai phá đã mang lại được một số phát
kiến có giá trị thương mại về khí đốt và đang trong quá trình được phát triển,
mặc dù vẫn còn những thách thức về việc thống nhất phát triển ở đáy biển và
sự cần thiết phải có các tuyến liên lạc ở bờ biển. Tuy nhiên, nhìn chung thì
tiến triển này và sự phổ biến của ý tưởng về phát triển chung ở Đông và
Đông Nam Á đều rất có lợi để cơ chế quản lý tranh chấp và cai quản đại
dương này được áp dụng ở những khu vực khác của Biển Hoa Đông, Biển
Đông, và Vịnh Thái Lan.
Các Quốc gia có quan điểm rõ ràng hơn. Bản chất và mức độ của các
quyền và nghĩa vụ ở không gian biển đã được xác định trong Công ước
UNCLOS cùng với luật tập quán quốc tế. Luật quốc tế trao cho mỗi quốc gia
ven biển một vùng lãnh hải có chiều rộng không quá 12 hải lý mà trong đó
quốc gia được thực thi chủ quyền và các tàu thuyền nước ngoài được hưởng
quyền qua lại vô hại. Một vùng tiếp giáp mà trong đó một số luật nhất định
của quốc gia (ví dụ, những luật liên quan đến hải quan hay dịch tễ) có thể
được thi hành, và có thể được yêu sách trong giới hạn 24 hải lý. Các quóc
gia ven biển có quyền chủ quyền được khai phá và khai thác các tài nguyên
thiên nhiên dưới đáy biển và tầng đất cái của thềm lục địa của mình ở giới
hạn 200 hải lý và có thể hơn. Các quốc gia cũng có thể yêu sách một vùng
EEZ kéo dài đến 200 hải lý, cho phép quốc gia khai phá và khai thác tài
nguyên sinh vật và phi sinh vật biển, đáy biển, và tầng đất cái, cùng với một
số quyền khác; tuy nhiên vẫn có một số tranh cãi trong khu vực về mức độ
mà quốc gia có thể kiểm soát các hoạt động khác.
www.nghiencuubiendong.vn
26
Các quốc gia thành viên của Công ước UNCLOS được kỳ vọng sẽ điều
chỉnh các yêu sách trên biển của mình sao cho phù hợp với các điều khoản
của Công ước. Trên thực tế các quốc gia ven biển ở Đông và Đông Nam Á
phần lớn đã làm như vậy, hoặc chí ít là tuyên bố về việc đó. Tuy vậy vẫn có
một vài quốc gia nhất định sử dụng các yếu tố khác làm cơ sở cho yêu sách
của mình, trong đó có cơ sở về “vùng nước lịch sử”. Đặc biệt trong bối cảnh
này có thể nhận thấy từ bản đồ đường chín đoạn của Trung Quốc (Đài Loan)
ở Biển Đông (xem Hình 2).
Mặc dù Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra một giải thích xác đáng nào về bản
chất của đường này, kể cả về những vùng được yêu sách hay cơ sở pháp lý
của nó, nhưng có lẽ ta vẫn có thể nhận ra được một xu hướng tích cực.
Chẳng hạn, Trung Quốc đã sử dụng các ngôn từ phù hộp với Công ước
UNCLOS để phản đối các đệ trình về kéo dài thềm lục địa của Việt Nam
vào năm 2009 và đệ trình chung của Việt Nam và Malaysia. Cụ thể là Trung
Quốc đã đệ trình một công hàm trong đó nêu rằng Trung Quốc có chủ quyền
trên các vùng biển “tiếp giáp” với các hòn đảo trên Biển Đông và các
“quyền chủ quyền” trên các “vùng biển có liên quan cũng như đáy biển và
tầng đất cái của chúng”. Điều này có thể hiểu là một sự viện dẫn đến các yêu
sách đối với các quyền trên lãnh hải, vùng EEZ, và thềm lục địa dựa trên các
đảo chứ không phải là yêu sách đối với các vùng nước lịch sử hay các yêu
sách tương tự như vậy bên trong đường chín đoạn như vẫn thường được
phỏng đoán. Quan điểm này còn được làm rõ thông qua thư của Trung Quốc
gửi Tổng thư ký LHQ vào ngày 14/4/2011. Bức thư này là phản ứng của
Trung Quốc đối với thư phản đối của Philippin về việc Trung Quốc sử dụng
bản đồi đường chín đoạn để phản đối đệ trình riêng của Việt Nam về việc
kéo dài thềm lục địa cũng như đệ trình chung của Malaysia và Việt Nam.
Bức thư tháng 4/2011 của Trung Quốc tuyên bố rằng các hòn đảo tranh chấp
“được hưởng đầy đủ quy chế lãnh hải, vùng EEZ và thềm lục địa.” Tuy
nhiên, không may là kết luận này lại liên quan đến nhiều phỏng đoán và
thậm chí là ảo vọng, khi mà Trung Quốc vẫn chưa thể hoàn toàn rõ ràng về
các yêu sách của mình.
Tiến trình hội thảo. Nhận thức được về tính phức tạp và đa dạng của các
yêu sách ở Biển Đông, Indonesia đã khởi động một tiến trình hội thảo không
chính thức vào năm 1989 như một phương pháp để quản lý tốt hơn các căng
thẳng trong khu vực và để tránh các xung đột lan rộng. Những hội thảo
không chính thức này không để nhằm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ giữa
các quốc gia yêu sách mà để đạt được ba mục tiêu: đầu tiên, tạo ra các
chương trình hợp tác để tất cả các quốc gia yêu sách có thể tham gia; thứ hai,
www.nghiencuubiendong.vn
27
tăng cường đối thoại giữa các bên liên quan trực tiếp để các bên này có thể
hướng tới giải quyết tranh chấp; và, thứ ba, hình thành một tiến trình xây
dựng lòng tin để hỗ trợ hợp tác và xây dựng niềm tin, những điều đang bị
thiếu một cách nghiêm trọng.
Sau hơn hai mươi năm họp thường kỳ, kinh nghiệm cho thấy rằng việc tham
gia hợp tác kỹ thuật dễ hơn nhiều so với việc phải giải quyết các vấn đề về
lãnh thổ, chủ quyền và quyền tài phán. Một kết quả trực tiếp của tiến trình
hội thảo là, một số hiệp định và hoạt động hợp tác đã được tống nhất giữa
các quốc gia yêu sách trong khu vực, ở các lĩnh vực như khai phá đa dạng
sinh học, theo dõi độ tăng của mực nước biển, và quản lý môi trường biển –
đây đều là những hoạt động quan trọng góp phần giúp các nước trong khu
vực tạo ra tiến triển theo những cách không đòi hỏi phải giải quyết ván đề về
chủ quyền hay yêu sách về biên giới. Chẳng hạn, trong năm 2002, một đội
ngũ các nhà khoa học đa quốc gia đến từ Indonesia, Malaysia, Singapore,
Thái Lan, Philippin, Việt Nam, Trung Quốc, và Đài Loan đã tham gia thám
hiểm đa dạng sinh học ở các đảo Anambas của Indonesia. Chuyến thám
hiểm này đã phát hiện ra nhiều loài sinh vật mới và phục vụ cho việc tăng
cường hợp tác và niềm tin trong một lĩnh vực trước đây ít được đầu tư do
các yêu sách đối đầu cản trở. Chương trình về Mạng lưới Đông Nam Á về
Giáo dục và Đào (SEANET) do Trung Quốc và Đài Loan khởi xướng và
chung vốn là một ví dụ khác về một hoạt động hợp tác thu hút sự tham gia
của tất cả các thành viên của tiến trình Biển Đông. Chương trình SEANET
hướng tới việc tăng cường kiến thức khoa học và kỹ thuật về các vấn đề đại
dương và cũng để tăng cường mạng lưới giữa các nhà khoa học ở khu vực
Biển Đông.
Nhìn chung, tiến trình hội thảo tiếp tục được khu vực ủng hộ, với minh
chứng không chỉ là sự tham gia các cuộc họp mà còn thông qua các đóng
góp về tiền và của cho các dự án hợp tác mà tiến trình này đã tạo ra.
Tăng cường đối thoại giữa các chuyên gia. Thập niên vừa qua đã chứng
kiến sự phổ biến dần dần của các cuộc họp không chính thức mà tại đó có
ngày càng nhiều vấn đề về biển và các vấn đề khác được thảo luận. Những
đơn vị đứng ra chủ trì các hoạt động này gồm có Học viện Ngoại giao Việt
Nam hợp tác cùng Hội Luật gia Việt Nam, Học viện Nghiên cứu Biển
Đông về Đảo Hainan, và sau này vào năm 2011 là Academia Sinica của Đài
Loan, Trung tâm Luật pháp Quốc tế thuộc Đại học Quốc gia Singapore, và
Cơ quan Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao Philippin. Phát biểu tại các cuộc
họp này có các quan chức chính phủ và các nhà nghiên cứu trong và ngoài
khu vực. Giá trị của những buổi đối thoại này không chỉ nằm ở chỗ nó cho
www.nghiencuubiendong.vn
28
phép việc trao đổi các ý tưởng về các vấn đề cấp bách mà còn ở chỗ nó đã
đặt các quan chức và các chuyên gia vào giữa một loạt các ý kiến và quan
điểm mà họ không thể thấy ở các diễn đàn khác. Đây là một tác động có lợi
cho việc hoạch định chính sách và làm giảm rủi ro về một cách tiếp cận quá
nhỏ hẹp đối với các vấn đề.
Quốc tế hóa các tranh chấp. Ngoại trưởng Hillary Clinton và mười một bộ
trưởng ngoại giao khác tại cuộc họp Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) vào
tháng 7/2010 đã bày tỏ mối quan ngại về những tiến triển gần đây ở Biển
Đông và sự cần thiết phải thúc đẩy DoC. Kể từ khi ARF được thành lập vào
năm 1994 đến nay, đây là lần dầu tiên vấn đề Biển Đông được nêu lên một
cách chính thức và nó tạo ra một tiền lệ tích cực để vấn đề này được thảo
luận tại các diễn đàn an ninh đa phương sau này, chẳng hạn như tại cuộc
Họp Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Cộng (ADMM-Plus) vào tháng
10/2010, khi đã có tám nước đề cập về vấn đề này.
Cũng có các dấu hiếu đáng khích lệ cho thấy rằng ASEAN đang dần đi đến
sự đồng thuận mạnh mẽ hơn về việc các cuộc thảo luận với Trung Quốc về
tranh chấp cần phải mang tính đa phương. Chẳng hạn, vào tháng 5/2011 ở
Bắc Kinh, Phó Thủ tướng Malaysia Muhyiddin Yassin đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của một cách tiếp cận đa phương. Cũng trong tháng đó, tại cuộc
gặp của lãnh đạo ASEAN ở Jakarta, tổng thống Philippin Benigno Aquino
đã kêu gọi các quốc gia yêu sách của ASEAN đứng chung trên một chiến
tuyến về vấn đề Biển Đông trong khuôn khổ ASEAN.
Những xu hướng tiêu cực
Bất kể những đà tích cực mà những tiến triển trên có để hướng đến giải
quyết dứt điểm các tranh chấp về quyền tài phán trên biển ở Châu Á, không
may là vẫn còn tồn tại những xu hướng làm chậm – và thậm chí là làm phản
tác dụng – các tác động tích cực này. Những xu hướng dưới đây là sự lưu ý
về những vấn đề phức tạp gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp trong
thời gian gần.
Gia tăng các mối quan ngại và căng thẳng về sự khan hiếm tài nguyên.
Một yếu tố gây đau đầu trong các tranh chấp trên biển ở Đông và Đông Nam
Á được thảo luận ở đây là sức ép ngày càng tăng về việc tiếp cận các nguồn
tài nguyên quý giá được chứa đựng, hoặc dự đoán có tồn tại, trong các vùng
diện tích rộng lớn mà các quốc gia có yêu sách chồng lấn. Như đã được vạch
ra ở trên, các tài nguyên biển, cả sinh vật và phi sinh vật, đang ngày càng trở
nên quan trọng với các quốc gia ven biển dọc Biển Hoa Đông, Biển Đông,
www.nghiencuubiendong.vn
29
và Vịnh Thái Lan. Những mối quan ngại về an ninh năng lượng trong khu
vực sẽ còn tăng lên khi mà sản xuất trong nước đi vào bão hòa hoặc suy
giảm trong khi nhu cầu ngày càng tăng với tốc độ cao. Sự lệ thuộc ngày
càng nhiều vào nguồn cung cấp năng lượng nhập khẩu nhiều khả năng sẽ
dẫn các quốc gia đến chỗ đặt ưu tiên hàng đầu cho việc tiếp cận các tài
nguyên năng lượng dưới đáy biển ở khu vực tranh chấp. Động lực này mang
theo nó những rủi ro về việc xảy ra các vụ việc và va chạm, như sẵn đã xảy
ra khi Philippin và Việt Nam thực hiện thăm dò ở Biển Đông vào nửa đầu
năm 2011 và phản ứng của Trung Quốc đối với hoạt động này. Hơn nữa,
như đã nêu ở trên, những mối lo ngại đang được đặt ra cho vấn đề sức khỏe
của các đàn cá chủ chốt trong khu vực – những tài nguyên tái tạo có vai trò
vô cùng quan trọng đối với an ninh lương thực trong khu vực. Những áp lực
ngày càng tăng, và những nỗ lực để sử dụng và khai thác tài nguyên đại
dương ngay từ bây giờ đã là những động lực thúc đẩy căng thẳng giữa các
quốc gia ven biển có liên quan.
Những tranh chấp dai dẳng? Những điểm bất đồng quan trọng và dai dẳng
giữa các quốc gia hữu quan không phải là xu hướng mà là một thực tế
thường trực của môi trường pháp lý và địa chính trị trong khu vực. Những
vấn đề này là cơ sở căn bản, và là vật cản đối với việc giải quyết các yêu
sách trên biển trong khu vực. Tranh chấp chủ quyền đối với các đảo vẫn là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các yêu sách chồng chéo về quyền tài phán
trên biển ở những vùng này. Mối liên hệ chủ yếu giữa các quốc gia và các
vùng lãnh thổ cấu thành, gắn liền với những ảnh hưởng mạnh mẽ của chủ
nghĩa dân tộc, yêu nước, và những yêu cầu đối với chính trị trong nước và
quốc tế, đồng nghĩa với việc các quốc gia sẽ có xu hướng bảo vệ chắc chắn
lãnh thổ của mình. Điều này vẫn đúng kể cả khi những mảnh lãnh thổ đó có
nhỏ hay vô giá trị đến đâu, hay như nếu chúng có là những hòn đảo nhỏ, xa
bờ, và không có người sinh sống. Khi mà tài nguyên biển, dù là có thực hay
được tưởng tượng, chựa đựng trong những không gian biển này có thể được
gắn liền với những đảo nhỏ này và được xét đến trong các tính toán, thì khả
năng thỏa hiệp đối với vấn đề chủ quyền là gần như không tưởng.
Do đó, cho dù đã có nhiều tiến triển trong việc phân định biên giới trên biển
ở Đông và Đông Nam Á, cũng như trong các cách tiếp cận của luật pháp
quốc tế đối với vấn đề phân định biển, thì rõ ràng là vẫn còn rất nhiều việc
phải làm trước khi một mạng lưới tổng thể về biên giới trên biển được xác
định và hình thành nên một khuôn khổ quyền tài phán một cách rõ ràng.
Tranh chấp chủ quyền đối với các đảo vẫn là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
các yêu sách chồng chéo về quyền tài phán trên biển ở những vùng này.
www.nghiencuubiendong.vn
30
Đặc biệt là ở Biển Hoa Đông, các quốc gia hữu quan – với Trung Quốc và
Hàn Quốc một bên, và Nhật Bản ở bên kia – cũng có những quan điểm trái
nghịch nhau về cơ sở để xác định các quyền trên biển trong khu vực và cách
thức xác định biên giới trên biển. Sự bất đồng này ngăn cản việc áp dụng
cách tiếp cận như đã được sử dụng trong vụ Biển Đen. Trong khi trong quá
khứ Nhật Bản đã từng ủng hộ cách phân định theo quy tắc đường trung trực
hay đường trung tuyến, thì Trung Quốc và Hàn Quốc lại sử dụng nguyên tắc
“kéo dài tự nhiên” làm cơ sở cho các yêu sách của mình – có nghĩa là, mỗi
quốc gia ven biển phải có quyền đối với một phần thềm lục địa gắn với lãnh
thổ đất liền của mình (cụ thể là phần cấu tạo nên sự kéo dài tự nhiên của
lãnh thổ đất liền vào biển vào nằm dưới biển). Theo cách tiếp cận này thì vị
trí của biên giới trên biển cần phải được xác định hay ít nhất là bị ảnh hưởng
bởi các tính chất địa vật lý của đáy biển, đặc biệt là yếu tố địa lý (chất cấu
thành và cấu trúc) và địa mạo học (hình, dạng, và thể). Do Rãnh Okinawa có
thể được coi là sự đứt quãng giữa hai thềm lục địa riêng biệt, và từ đó tạo ra
các quyền riêng biệt về thềm lục địa, trong khi đặc tính dưới biển này lại
nằm gần về phía chuỗi đảo Ryukyu của Nhật Bản nhiều hơn là bờ biển của
Trung Quốc và Hàn Quốc, nên một đường phân định thềm lục địa trùng với
rãnh Okinawa sẽ có lợi cho Trung Quốc và Hàn Quốc hơn với phần lớn Biển
Hoa Đông nằm về phía hai nước này. Tuy nhiên, vẫn có những minh chứng
cho thấy rằng các tranh chấp trên Biển Hoa Đông đang ngày càng mở rộng.
Đệ trình đầu tiên của Trung Quốc để mở rộng quyền trên thềm lục địa bao
gồm các điểm nằm phía đông rãnh Okinawa và xa hơn giới hạn vốn được
hiểu là yêu sách trước đây của Trung Quốc dọc trục của rãnh này. Có lẽ là
để phản ứng với những tiến triển này, các nhà phân tích của Nhật Bản đã
nhấn mạnh yêu sách của nước này đối với một vùng EEZ 200 hải lý, và cho
biết rằng các yêu sách của Nhật Bản có thể sẽ mở rộng ra phía tây đường
trung trực ở Biển Hoa Đông vốn được hiểu là yêu sách của Nhật Bản trong
quá khứ.
Duy trì các yêu sách thái quá. Một đặc tính gây vấn đề của các tranh chấp
biển trong khu vực là đa số các quốc gia hữu quan duy trì cái mà có thể được
coi một cách đúng đắn là các yêu sách thái quá trên biển. Việc những yêu
sách này thường có nguồn gốc lâu năm không khiến cho chúng trở nên bớt
phiền phức hơn hay khó vượt qua hơn. Loại yêu sách thái quá thường thấy là
loại liên quan đến các đường cơ sở thẳng được hình thành trái với tinh thần
của các khoản liên quan tại Điều 7 của Công ước UNCLOS. Trên thực tế,
hầu hết các yêu sách đối với đường cơ sở thẳng được hình thành liên quan
đến các đường bờ biển không lồi lõm, khoét sâu, hay có các vành đảo ở
trước đều có thể coi là đi trái lại cách giải thích hợp lý về luật pháp quốc tế.
www.nghiencuubiendong.vn
31
Hệ quả là những yêu sách này đã dấy lên sự phản đối trong cộng đồng quốc
tế, đặc biệt là từ Mỹ. Việc thực tiễn khu vực này có vẻ như phù hợp – tức là
các yêu sách của nhiều quốc gia cũng thái quá như láng giềng của mình –
chẳng có mấy tác dụng trong việc giải quyết các tranh chấp trong khu vực.
Những yêu sách thái quá về đường cơ sở là một yếu tố ngày càng phức tạp
đối với các nỗ lực trong khu vực trong việc phân định các biên giới trên
biển.
Các yêu sách lịch sử phiền toái. Một loại yêu sách thái quá trên biển khác
cũng là một đặc tính đặc biệt của các không gian biển ở Đông và Đông Nam
Á là những yêu sách mơ hồ dựa trên các quyền lịch sử. Tuy nhiên, có tồn tại
sự phân biệt rõ ràng giữa các yêu sách lịch sử về danh nghĩa đối với một
vùng lãnh thổ, trong đó bao gồm các đảo và yêu sách lịch sử đối với không
gian trên biển. Hầu hết các quốc gia yêu sách các hòn đảo tranh chấp ở Biển
Đông đều căn cứ các yêu sách chủ quyền của mình dựa trên, ít nhất là một
phần nào đó, các yếu tố lịch sử bao gồm phát kiến, sử dụng, và chiếm hữu
các vùng lãnh thổ đảo. Điều này cũng được áp dụng trong tranh chấp giữa
Trung Quốc/Đài Loan và Nhật Bản đối với các hòn đảo tranh chấp ở khu
vực phía nam Biển Hoa Đông được Trung Quốc gọi là đảo Điếu Ngư, còn
Nhật gọi là đảo Senkaku. Mặc dù việc phân tích chi tiết các yêu sách chủ
quyền đối với các đảo ở Biển Đông nằm ngoài phạm vi của bài viết này,
nhưng có thể thấy rằng không có một yêu sách nào trong số này, cho dù là
sử dụng yếu tố lịch sử hay các cơ sở khác như khoảng cách, có được luận cứ
chắc chắn, bất chấp thực tế là một vài quốc gia yêu sách tuyên bố rằng yêu
sách của mình là “không thể tranh cãi”.
Các yêu sách lịch sử đối với các không gian trên biển còn trở nên phiền toái
hơn khi mà chúng đi trái lại với các điều khoản của Công ước UNCLOS; và
cũng cần nhấn mạnh lại rằng hầu hết các quốc gia ven biển ở Đông và Đông
Nam Á đều là thành viên của Công ước này. Như đã nêu ở trên, một số quốc
gia ở Đông và Đông Nam Á đưa ra yêu sách đối với các vùng biển trên cơ
sở thực tiễn lịch sử - cái mà được gọi là “vùng nước lịch sử”. Thuật ngữ này
không xuất hiện trong Công ước UNCLOS. Thay vào đó, công ước này chỉ
dẫn chiếu đến “vịnh lịch sử”. Điều này khó có thể được coi là sự chứng thực
cho khái niệm trên, và đã bị một số quốc gia phản đối do bản chất bất trắc
của nó (chẳng hạn, Mỹ chỉ chấp nhận ba trên tổng số mười tám yêu sách như
vậy trên toàn thế giới). Đáng chú ý ở đây là yêu sách của Campuchia và Việt
Nam đưa ra vào năm 1982 về một khu vực gọi là “vùng nước lịch sử chung”
ở Vịnh Thái Lan, yêu sách của Philippin về vùng ô vuông được hình thành
www.nghiencuubiendong.vn
32
bởi một vài điều ước của thế kỷ mười chín, và đường chín đoạn trứ danh của
Trung Quốc.
Liên quan đến các yêu sách của Philippin, Manila đã ban hành luật pháp phù
hợp với các điều khoản của UNCLOS. Trên thực tế, vào năm 2009 Philippin
đã điều chỉnh lại đường cơ sở của mình qua Sắc lệnh số 9522 thành đường
cơ sở quần đảo theo quy định của Công ước. Tuy nhiên, Manila lại không
đồng thời từ bỏ yêu sách lâu năm của mình rằng các không gian biển trong ô
vuông được xác định theo Giới hạn theo Điều ước của Philippin là một phần
thuộc lãnh hải của nước này (bất chấp thực tế là Philippin rõ ràng đã yêu
sách một vùng lãnh hải rộng 12 hải lý trong khi giới hạn của ô vuông cách
đường cơ sở của Philippin đến 285 hải lý). Những yêu sách như vậy rõ ràng
là không phù hợp với Công ước UNCLOS và gây phiền toái cho các quốc
gia láng giềng của Philippin. Philippin cũng yêu sách chủ quyền đối với tất
cả các hòn đảo trong vùng của một hình ngũ cạnh, và gọi những hòn đảo này
là “Quần đảo Kalayaan” (KIG). Tuy nhiên, khối KIG lại không phát sinh từ
yêu sách về vùng nước lịch sử, trong khi sự điều chỉnh trong năm 2009 như
đã nêu ở trên lại khiến cho các hòn đảo của Biển Đông mà Philippin yêu
sách nằm bên ngoài đường cơ sở quần đảo của nước này. Thay vào đó khối
này …
Đường chín đoạn của Trung Quốc đến nay vẫn là một bí ẩn và gây không ít
phiền toái. Vào năm 1947, chính phủ Quốc dân đảng của Trung Hoa Dân
Quốc đã chop hat hành một tấm bản đồ trong đó có đường mười một đoạn ở
Biển Đông. Tấm bản đồ này sau đó đã được Cộng hòa dân chủ nhân dân
Trung Hoa (PRC) sử dụng vào năm 1949, mặc dù hai đoạn của nó đã bị loại
bỏ ở Vịnh Bắc Bộ vào năm 1953. Dù số lượng các đoạn có là bao nhiêu đi
chăng nữa, nhưng một điều có thể thấy rõ là các khúc của đường này nằm rất
gần với đường bờ biển của các quốc gia ven biển khác. Trung Quốc đến nay
vẫn chưa đưa ra một lời giải thích rõ ràng nào về ý nghĩa của các đường đứt
đoạn này. Chẳng hạn, những đoạn này đôi khi đã được nối lại thành hình
chữ U và bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông. Vẫn chưa thể biết được liệu
rằng đường này có phải là thể hiện yêu sách chủ quyền bên trong nó (đặc
biệt là đối với các đảo tranh chấp), cho thấy một tuyên bố đơn phương về
biên giới trên biển, hay là một yêu sách đối với các không gian biển bên
trong các đoạn đó như một vùng nước lịch sử hay các vùng biển khác. Việc
Trung Quốc đính kèm tấm bản đồ có đường chín đoạn này trong công hàm
phản đối đệ trình của Việt Nam và Malaysia – Việt Nam lên Ủy ban Ranh
giới Thềm lục địa của LHQ (CLCS) đã kích động sự bất trắc và lo ngại trong
khu vực. Xét về mặt pháp lý mà nói, thì những yêu sách mập mờ về lịch sử
www.nghiencuubiendong.vn
33
như đã phân tích ở trên khó có thể được biện minh trước một tòa án quốc tế.
Trước vấn đề này, và do không một quốc gia yêu sách nào ở Biển Đông có
được yêu sách vững chắc về chủ quyền trên các đảo tranh chấp, nên có rất ít
khả năng việc giải quyết tranh chấp thông qua một cơ quan quốc tế như tòa
ICJ.
Thêm vào đó, vào năm 2010 các quan chức Trung Quốc còn làm vấn đề
trầm trọng thêm bằng việc tuyên bố Biển Đông là một “lợi ích cốt lõi” của
mình, qua đó đặt tranh chấp này ngang tầm với vấn đề Đài Loan và hàm ý
rằng Bắc Kinh sẽ không chấp nhận đàm phán và sẵn sàng sử dụng vũ lực.
Tuy nhiên, trước những phản ứng tiêu cực trong khu vực, các quan chức và
học giả Trung Quốc đã phải thôi gọi Biển Đông là một lợi ích cốt lõi.
Các yêu sách ngày càng phức tạp. Như đã nói ở trên, những đệ trình mà các
quốc gia ven biển ở Đông và Đông Nam Á lên CLCS về giới hạn thềm lục
địa của mình, cũng như phản ứng của những quốc gia như Trung Quốc đối
với chúng, đều mang tính chỉ thị và giúp hiểu rõ hơn về các yêu sách trên
biển. Tuy vậy, các đệ trình của khu vực về việc mở rộng các quyền trên
thềm lục địa dường như lại làm tăng thêm tính phức tạp của những yêu sách
vốn đã rối rắm và chồng lấn lên nhau. Hơn nữa, như đã được thể hiện trong
những phản đối qua lại mà những đệ trình này gây ra, các quyền mở rộng
thềm lục địa là một nguồn gây tranh cãi bổ sung, mang tính kỹ thuật và pháp
lý cao giữa các nước tranh chấp.
DoC không được ASEAN và Trung Quốc thực thi. Mặc dù cả Trung Quốc
ASEAN gần đây đã tái khẳng định tầm quan trọng của tuyên bố DoC, nhưng
hai bên đã không thể đạt được sự đột phá nào về các nguyên tắc thực thi thỏa
thuận này. Có vẻ như vấn đề nhức nhối nhất là ở chỗ Bắc Kinh vẫn tiếp tục
phản đối việc các quốc gia ASEAN thảo luận vấn đề với nhau trước khi gặp
gỡ với Trung Quốc. Theo chính phủ Trung Quốc, tranh chấp trên Biển Đông
là một vấn đề song phương và do đó cần phải được thảo luận song phương.
Do vậy, cuộc họp của Nhóm Làm việc chung ASEAN về DoC vào tháng
12/2010 đã không thu được kết quả gì, còn kế hoạch gặp mặt vào tháng
3/2011 thì lại không được tiến hành. Việc không thể thực thi DoC dù chỉ ở
mức từ từ hay một phần hay tăng dần có nghĩa rằng căng thẳng ở Biển Đông
vẫn sẽ còn tiếp diễn và làm gia tăng nguy cơ về đụng độ quân sự trên biển và
các tình trạng bất ổn khác.
Quân sự hóa tranh chấp Biển Đông. Khi mà căng thẳng ngày càng trở nên
nhức nhối mà ASEAN và Trung Quốc (cũng như Nhật Bản và Trung Quốc ở
Biển Hoa Đông) lại không có được tiến triển gì trong việc thực thi một cách
www.nghiencuubiendong.vn
34
cụ thể các cơ chế quản lý và ngăn chặn xung đột, thì sự hiện đại hóa nhanh
chóng của Quân đội Nhân dân Giải phóng (PLA) lại đang làm cho cán cân
sức mạnh quân sự nghiêng về phía Trung Quốc và từ đó củng cố vị thế của
Bắc Kinh ở Biển Đông. Ngân sách quóc phòng của Trung Quốc là cao nhất
ở Châu Á, và xét ở tầm quốc tế thì nó chỉ đứng sau Mỹ. Tốc độ và phạm vi
hiện đại hóa của PLA, đặc biệt là với Hải quân PLA, đang làm thay đổi nội
dung chiến lược của tranh chấp và ngày càng đưa Trung Quốc lên một vị thế
mạnh mẽ hơn để bảo vệ các yêu sách chủ quyền của mình. Và khi cần thiết
nó có thể được sử dụng để gây áp ục cho các bên tranh chấp khác. Sự mất
cân bằng ngày càng tăng trong sức mạnh quân sự giữa Trung Quốc và các
bên yêu sách ở Đông Nam Á nhiều khả năng sẽ khiến cho tình trạng hiện tại
trở nên không bền vững.
Việc chuẩn bị cho các tình huống bất ngờ ở Biển Đông cũng là yếu tố thúc
đẩy các chương trình hiện đại hóa quân sự ở một vài quốc gia Đông Nam Á.
Đặc biệt là Việt Nam, quốc gia chịu sự đe dọa lớn nhất từ các hành vi quả
quyết và sức mạnh quân sự của Trung Quốc, đã tìm cách củng cố sức mạnh
không quân và hải quân của mình bằng việc mua các vũ khí hiện đại từ nước
ngoài. Những vũ khí này bao gồm máy bay không quân, tàu hộ tống, tàu khu
trục, và tàu hải giám tốc độ cao từ Nga. Đáng chú ý là Việt Nam đã đặt mua
sáu tàu ngầm hạng Kilo của Nga để tăng cường khả năng chống xâm nhập
cho hải quân Việt Nam để đối đầu với hải quân PLA. Malaysia đã đặt hai
chiếc tàu ngầm đầu tiên của mình ở Sabah gần vị trí các yêu sách lãnh hải
của mình ở Trường Sa. Philippin từ lâu đã bị bất lợi do tình trạng yếu kém
của lực lượng vũ trang của mình, mặc dù hiện nay đã có một số dấu hiệu cho
thấy nước này đã bắt đầu có ý chí chính trị để giải quyết vấn đề này. Tổng
thống Aquino gần đây đã công bố nguồn quỹ bổ sung cho Lực lượng Vũ
trang Philippin nhằm nâng cấp các thiết bị quân sự quốc gia ở Trường Sa và
cung cấp các thiết bị hiện đại hơn cho hải quân và không quân. Nhìn chung,
ở đây có thể thấy xu hướng hiện đại hóa quân sự ngày càng lớn ở Biển
Đông.
Tranh chấp Biển Đông trong bối cảnh quan hệ Trung – Mỹ. Biển Đông
đã trở thành một vấn đề nữa trong số hàng loạt các vấn đề bất đồng trong
quan hệ Trung – Mỹ. Trong khi mà chính sách của Mỹ đối với tranh chấp
Biển Đông đã tương đối thống nhất – Mỹ không đứng về phe yêu sách nào,
phản đối sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực, và ủng hộ giải quyết bằng
phương pháp hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế - thì các quan chức cấp cao
của Mỹ lại phải lên tiếng ngày càng nhiều về các mối quan ngại của mình
đối với tình trạng căng thẳng leo thang giữa các quốc gia yêu sách. Chẳng
www.nghiencuubiendong.vn
35
hạn, tại cuộc Đối thoạn Sharing-La vào tháng 6/2010 ở Singapore, Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã gọi Biển Đông là một “khu vực
ngày càng gây quan ngại” cho Mỹ; và tại cuộc họp của ARF vào tháng 7
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã mô tả Biển Đông là “then chốt” của an
ninh khu vực và lập luận rằng quyền tự do hàng hải là lợi ích quốc gia của
Mỹ. Những đụng độ trên biển gần đây giữa Trung Quốc và Mỹ đã làm rõ
cho thực tế là hai nước này có những cách giải thích khác nhau về tính hợp
pháp của các hoạt động tuần tra quân sự ở các vùng EEZ. Tình trạng này
đang dần trở thành một phần của tranh chấp trên Biển Đông.
Quan hệ Trung – Nhật ngày một xấu đi. Tranh chấp lãnh thổ trên đảo
Senkaku/Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông vẫn là một nguyên nhân gây bất đồng
chủ yếu trong quan hệ Trung – Nhật. Vào tháng 9/2010, một chiếc tàu đánh
cá của Trung Quốc đã đâm vào tàu Tuần duyên của Nhật gần các đảo tranh
chấp và sau đó tàu đánh cá này cùng với các thủy thủ đã bị Nhật bắt giữ.
Việc này đã đẩy quan hệ song phương giữa hai nước vào tình trạng tồi tệ
nhất kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh đến nay. Mặc dù từ sau đó quan hệ
hai nước đã được cải thiện, nhưng một khi tranh chấp còn chưa được giải
quyết thì nó vẫn có thể ảnh hưởng xấu tới quan hệ Trung – Nhật trong tương
lai, nhất là khi vấn đề này trở nên nhậy cảm với các thành phẩn chủ nghĩa
dân tộc của cả hai nước. Những lo ngại của Nhật Bản lại càng tăng thêm khi
mà Trung Quốc ngày một quyết đoán hơn với các vấn đề trên biển nhưng
đồng thời lại thiếu minh bạch trong việc hiện đại hóa nhanh chóng PLA.
Hơn nữa, những nỗ lực để thúc đẩy sự “đồng thuận trên nguyên tắc” về hợp
tác Trung – Nhật ở Biển Hoa Đông, bao gồm thỏa thuận trên nguyên tắc về
một vùng phát triển chung trên biển, trở thành một điều ước chính thức và
cơ chế phát triển chung có hiệu lực lại gần như không có chút tiến triển nào.
Cũng như với tranh chấp Biển Đông, giữa lực lượng vũ trang của Trung
Quốc và Nhật Bản không có một cơ chế nào để quản lý và phòng ngừa xung
đột. Điều này làm gia tăng rủi ro về sự đụng độ không mong muốn trên biển,
và rất có thể sẽ leo thang theo chiều hướng xấu đi.
Vấn đề quyền hạn trong vùng EEZ ngày càng thiếu rõ ràng. Một số quốc
gia yêu sách cho rằng quyền trong vùng EEZ bao gồm cả quyền kiểm soát
các hoạt động như thăm dò thủy văn và lộ trình hải quân của tàu chiến nước
ngoài. Quan điểm này đã bị nhiều nước phản đối kịch liệt, trong đó có Mỹ.
Tuy Phần II của Công ước UNCLOS, liên quan đến lãnh hải và vùng tiếp
giáp, quy định khá rõ ràng rằng các hoạt động như nghiên cứu khoa học biển
và thăm dò thủy văn là thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển trong
phạm vi lanh hải, nhưng Phần V của Công ước về vùng EEZ lại chỉ nêu rằng
www.nghiencuubiendong.vn
36
quốc gia ven biển được quyền đưa ra các quy định về nghiên cứu khoa học
biển mà không nhắc gì đến việc thăm dò thủy văn. Việc không quy định về
hoạt động thăm dò thủy văn của Phần V có ý nghĩa quan trọng, và từ đó có
thể hiểu rằng bất kỳ hoạt động nào, chẳng hạn như thăm dò thủy văn, không
được tuyên bố rõ ràng là thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển thì sẽ
vẫn là một trong các quyền tự do trên biển mà quốc gia khác được hưởng
trong vùng EEZ được yêu sách. Do đó, khó có thể giải thích Phần V của
Công ước theo hướng mở rộng như một số quốc gia đã làm. Tuy nhiên,
không có một yếu tố nào cản trở việc hình thành một quy tắc mới trong luật
tập quán quốc tế, miễn sao nó không vi phạm quy định điều ước nào (ví dụ
như UNCLOS). Tuy nhiên những xu hướng hiện tại lại gây ra sự không rõ
ràng về bản chất các quyền của quốc gia ven biển ở vùng EEZ, và do đó dẫn
đến nguy cơ xảy ra đụng độ giữa tàu thuyền của các quốc gia tuyên bố và
các quốc gia phản đối các quyền đó.
Căng thẳng Thái Lan – Campuchia. Bản chất dễ thay đổi của quan hệ Thái
Lan – Campuchia tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến những nỗ lực giải quyết
các yêu sách chồng lấn của hai nước ở Vịnh Thái Lan – một khu vực được
dự đoán là có nhiều khả năng chứa đựng các tài nguyên dầu khí quý giá.
Những dấu hiếu quan trọng cho thấy tiến triển để hướng tới giải quyết tranh
chấp đã bắt đầu từ tháng 6/2001, khi hai nước ký biên bản ghi nhớ (MOU)
về việc coi khu vực có yêu sách chồng lấn là thềm lục địa. Tuy các cuộc họp
định kỳ đã diễn ra và đã có những tiến triển nhất định, nhưng hai bên vẫn
chưa đi đến một thỏa thuận nào, dù là về vấn đề phân định biên giới trên
biển ở phần phía bắc khu vực yêu sách gần bờ biển hay vấn đề hiện thực hóa
một khu vực phát triển chung trên biển cho các khu ực chồng lấn ở vùng
vịnh trung tâm ở phía nam.
Vào tháng 11/2009, khi mà quan hệ song phương giữa hai nước đang xấu đi,
thì chính phủ Thái Lan đã có ý định bãi bỏ bản MOU sau khi Campuchia
đón tiếp Thaksin Shinawatra, cựu thủ tướng Thái Lan đã từng bị trục xuất
trong vụ lật đổ vào năm 2006, và bổ nhiệm ông làm cố vấn kinh tế. Căng
thẳng đã dịu đi sau khi Thaksin từ chức vào năm 2010, nhưng rồi lại gia tăng
trở lại khi hai nước tranh cãi về vấn đề biên giới đất liền ở gần Đền Preah
Vihear vốn đã kéo dài hàng thập kỷ nay. Năm 1962 tòa ICJ đã đưa ra phán
quyết rằng ngôi đền này thuộc về Campuchia, nhưng Thái Lan lại đưa ra yêu
sách đối với vùng đất liền kề với ngôi đền mà vẫn chưa được ICJ giải quyết.
Căng thẳng giữa các nhóm theo chủ nghĩa dân tộc về biên giới đất liền đã
bùng nổ một vài lần trong những năm gần đây và vào đầu năm 2011 đã dẫn
đến sự thiệt mạng của các phần tử giao tranh.Những tranh chấp này đã gây
www.nghiencuubiendong.vn
37
lo ngại đáng kể cho các láng giếng thuộc khối ASEAN của hai nước này.
Hai bên đã nhất trí cho phép sự hiện diện của các đơn vị thăm dò của
Indonesia và đã mở cửa biên giới, nhưng sự bất tín và hận thù, và kéo theo
đó là nguy cơ đụng độ bạo lực vẫn còn cao. Với nền tảng quan hệ song
phương tồi tệ như vậy, các vấn đề khác – mà nổi bật là các vấn đề trên biển
– khó có thể được giải quyết một cách thuận lợi. Vẫn còn phải chờ xem liệu
sự thay đổi chính phủ ở Thái Lan sau cuộc bầu cử vào tháng 7/2011 có tạo ra
được sự thay đổi nào đáng kể trong vấn đề này hay không, mặc dù thủ tướng
kế nhiệm Yingluck Shinawatra cũng đã coi việc cải thiện quan hệ quốc tế là
một trong các ưu tiên hàng đầu.
Tiến triển chậm trong việc triển khai các dàn xếp tạm thời. Như đã nói ở
trên, Điều 74 và 83 của UNCLOS quy định rằng các quốc gia cần phải xem
xét tham gia các “dàn xếp tạm thời có tính thực tiễn” trong khi chưa có một
thỏa thuận cuối cùng về việc phân định. Điển hình có các dàn xếp phát triển
chung đang tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm tại một số khu vực ở
Đông và Đông Nam Á. Trong bối cảnh hiện tại, cần chú ý tới sự “đồng
thuận trên nguyên tắc” giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Sự đồng thuận này
dường như đã tạo điều kiện cho một sự dàn xếp hợp tác, nhưng có vẻ như đã
bị đình trệ. Tuy nhiên, kinh nghiệm của Malaysia và Thái Lan ở Vịnh Thái
Lan đã cho thấy rằng mặc dù một khoảng thời gian lớn đã trôi qua (thậm chí
là hơn một thập kỷ) giữa việc ký kết hiệp định và việc thực thi nó trên thực
tiễn, nhưng các nước vẫn có thể đạt được thỏa thuận về hợp tác chung. Gần
đây Trung Quốc đã liên tục đề nghị ký kết thỏa thuận hợp tác chung với một
số quốc gia ven biển ở Biển Đông, nhưng chỉ ở tầm song phương chứ không
phải đa phương như nhiều quốc gia ASEAN vẫn mong muốn. Cũng khó có
thể xác định được chính xác về thời điểm có thể triển khai được sự phát triển
chung đó, đặc biệt là khi Trung Quốc vẫn không rõ ràng về các yêu sách của
mình đối với quyền tài phán trên Biển Đông. Kết cục là đến nay vẫn chưa
thể có được một cách hữu ích để các quốc gia hướng tới phía trước.
Hướng tới phía trước mà không có giải pháp cho tranh chấp
Mặc dù việc giải quyết tức thì các tranh chấp về quyền tài phán trên biển
phải được coi là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trong khu vực, nhưng
tính chất cố hữu của một số khía cạnh then chốt của các tranh chấp này và
tính phức tạp của chúng, cùng với các yếu tố lịch sử và địa chính trị khác,
nên trong ngắn hạn và trung hạn khó có thể kì vọng vào một giải pháp cho
các tranh chấp có tính lâu dài. Với tầm quan trọng của các khu vực này thì
việc các quốc gia thống nhất được về các cách để kiềm chế căng thẳng và
hướng tới các hoạt động hợp tác và các biện pháp củng cố niềm tin khi
www.nghiencuubiendong.vn
38
không có giải pháp cho tranh chấp là hết sức quan trọng. Tình trạng hiện tại
của tranh chấp rõ ràng là không bền vững, nó chứa đựng nguy cơ cao về các
xung đột trong tương lai, ngăn cản các cơ hội tiếp cận với những tài nguyên
quan trọng, và phá hủy sự quản lý đung đắn các tài nguyên sinh vật biển
quan trọng cũng như môi trường đại dương. Để tránh dẫn đến một kết cục
thảm khốc, các quốc gia có thể áp dụng một số cơ chế hữu ích trong khi
chưa có được một giải pháp cuối cùng cho các tranh chấp này. Mặc dù việc
thực thi tuyên bố DoC có thể không diễn ra trong thời gian gần, nhưng tuyên
bố này đã chứa đựng những biên pháp củng cố niềm tin có giá trị, và nếu có
hiệu lực có thể góp phần quản lý tranh chấp một cách tốt hơn.
Đánh giá đúng đắn các tài nguyên
Đằng sau yếu tố về dầu khi ở các không gian tranh chấp trên biển ở Đông và
Đông Nam Á là những minh chứng rõ ràng rằng sản xuất dầu khí trên toàn
thế giới đã đạt đến đỉnh điểm. Giá dầu do đó sẽ còn tăng trong tương lai –
một tiềm năng không mong đợi đối với các quốc gia phụ thuộc nặng nề vào
nhập khẩu để đáp ứng các nhu cầu về dầu của mình. Vấn đề này sẽ có tác
động tới lợi ích có thể có từ việc phát triển các tài nguyên trong khu vực
tranh chấp của Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan, nếu như
chúng thực sự tồn tại. Mặt khác, giá dầu tăng sẽ kéo theo sự gia tăng giá trị
của mọi loại trữ lượng. Nhưng mặt khác, giá trị của những trữ lượng đó về
mặt an ninh năng lượng mà nói lại bị hủy hoại bởi khoảng thời gian quá dài
để có thể thực sự khai phá và khai thác chúng. Trong bối cảnh của các vùng
nước đang được xem xét, thì việc giải quyết, hoặc ít nhất là sự tạo điều kiện
chung trong vấn đề yêu sách chồng lấn về quyền tài phán trên biển, là một
yêu cầu cần thiết – một nhiệm vụ không dễ. Hơn nữa, sẽ mất từ mười năm
trở lên để có thể đi từ chỗ phát hiện ra một mỏ dầu đến chỗ có thể sản xuất
được những lượng dầu đầu tiên. Sau đó, thường sẽ có sự phát triển mạnh mẽ
trong sản xuất đến đỉnh điểm, tiếp theo là sự suy giảm theo hàm lũy thừa
trong sản xuất khi mà áp lực trong trữ lượng giảm. Hệ quả là ngày cả khi các
tranh chấp về chủ quyền và quyền tài phán trên biển có được giải quyết hay
gạt sang một bên trong nay mai, thì việc sản xuất đỉnh điểm từ bất kì mỏ dầu
nào trong vùng biển tranh chấp cũng sẽ không thể có đóng góp nào đáng kể
cho bức tranh an ninh năng lượng của các quốc gia ven biển, ít nhất là trong
vòng mười lăm năm nữa. Điều này cho thấy rằng không nên thổi phồng vai
trò của các tài nguyên năng lượng dưới đáy biển có thể tồn tại trong vùng
biển tranh chấp. Hơn nữa, dù thế nào thì những tài nguyên đó sẽ chỉ làm
giảm đi phần nào sự phụ thuộc vào nhập khẩu khi so với mức độ kì vọng
nhập khẩu dầu khí và như cầu ngày càng tăng đối với nguồn cung cấp này.
www.nghiencuubiendong.vn
39
Do đó những tài nguyên năng lượng đáy biển tiềm năng, nhưng lại chưa
được chứng minh này không thể coi là “viên đạn bạc” để giải quyết những
mối quan ngại trước mắt của khu vực về an ninh năng lượng.
Lợi ích của sự rõ ràng về quyền tài phán
Việc thực thi các quyền quốc gia không tương thích với sự bưng bít hay sự
rời rạc, lộn xộn. Cũng như luật quốc gia, luật pháp quốc tế cho các quốc gia
và cá nhân quyền được biết vị trí của mình là ở đâu, cũng như các quyền và
nghĩa vụ mà quốc gia hay cá nhân đó có. Điều này phù hợp với quan điểm
đồng nhất về quy tắc pháp luật, vốn là một thành tố quan trọng trong khái
niệm hiện đại về quản trị tốt.
Bài báo cáo này xác định một vài lĩnh vực gây hoài nghi về bản chất và mức
độ của các quyền của quốc gia ngoài khơi. Sự mập mờ tương tự cũng tồn tại
ở những cách mà các quốc gia đang thực hiện (hoặc không thực hiện) các
nghĩa vụ của mình. Những vấn đề này không những là không hữu ích, nó
còn không cần thiết. Công ước UNCLOS là một trong những lĩnh vực được
nghiên cứu sâu rộng nhất của luật pháp quốc tế. Các khái niệm về quyền tài
phán đằng sau công ước này đã được hiểu một cách tường tận, cũng như
những lĩnh vực mà các thực tiễn quốc gia tách rời khỏi văn bản của
UNCLOS cả ở mức độ mà những thực tiễn đó đi trái lại với công ước và cả
mức độ mà chúng vẫn phù hợp với nó. Sự không rõ ràng về quyền tài phán
là không có lợi cho việc củng cố niềm tin và hợp tác, trong khi cả hai việc
này đều là cần thiết trong những khu vực đang được nghiên cứu. Do đó cần
thiết phải hình thành sự rõ ràng trong các yêu sách đối với các vùng khác
nhau trên biển.
Bổ sung Đài Loan vào các Thảo luận Giải quyết Tranh chấp
Tình trạng của Đài Loan là một vấn đề nằm xa ngoài phạm vi của bài báo
cáo này. Tuy vậy, khi xét đến các vấn đề tranh chấp trên biển được thảo luận
ở đây thì vẫn không thể bỏ qua Đài Loan, như đã làm tại các diễn đàn APEC
(Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương), Ngân hàng Phát triển Châu
Á, Tổ chức Thương mại Thế giới, hay tiến trình hội thảo Biển Đông. Nếu
Đài Bắc được tạo điều kiện trong các bối cảnh này, thì sẽ có cách thức để
Đài Loan có thể có vai trò trong việc giải quyết tranh chấp và các hoạt động
hợp tác để phát triển năng lượng và các tài nguyên thiên nhiên khác ở Đông
Á. Có vẻ phi lí và phản tác dụng khi mà việc Myanmar, một quốc gia không
phải là quốc gia ven biển ở Biển Đông, lại là thành viên của tuyên bố DoC
(và Đông Timor cũng sẽ trở thành thành viên nếu như nước này được gia
www.nghiencuubiendong.vn
40
nhập ASEAN), trong khi Đài Loan lại không được tham gia. Với mục tiêu
mà tuyên bố này đề ra, thì đây không phải tình trạng đáng mong muốn. Việc
này sẽ không phương hại tới quan điểm của bất kỳ bên nào về quy chế của
đảo. Cũng chính vì lí do này mà tiến trình hội thảo Biển Đông đã sử dụng
“Đài Bắc Trung Quốc” để gọi tên hòn đảo nhằm phù hợp với thực tiễn của
APEC và các diễn đàn hợp tác khác.
Tăng cường nguồn lực cho Tiến trình Hội thảo
Có thể nói rằng tiến trình hội thảo Biển Đông đã và đang có được những tác
động nhất định, tuy nhiên những hoạt động của nó lại diễn ra một cách chậm
chạp hơn so với khi nhận được những hỗ trợ to lớn về tài chính từ bên ngoài
khu vực, đặc biệt là từ Canada. Trong thập niên đầu tiên, tiến trình này đã
xây dựng nên một loạt các nhóm làm việc kỹ thuật đóng vai trò là diễn đàn
để các chuyên gia của khu vực về các lĩnh vực như nghiên cứu khoa học
biển, môi trường và hệ sinh thái, giao thông vận tải, đánh giá và quản lý tài
nguyên, và luật pháp gặp gỡ và xem xét các cơ hội hợp tác một cách chi tiết.
Một số “nhóm chuyên gia” đã được tạo ra từ các nhóm hoạt động này để
xem xét kỹ lưỡng hơn nữa các vấn đề đặc biệt, chẳng hạn như luật môi
trường, vùng hợp tác, và thăm dò thủy văn. Những cuộc họp này diễn ra ở
hầu hết các địa điểm trên khu vực Biển Đông, và cuộc họp thường niên luôn
diễn ra ở Indonesia. Cuộc hội thảo thường niên này nhận báo cáo và đề xuất
từ các cơ quan và xem xét kế hoạch hoạt động của các cơ quan đó trong năm
tiếp theo. Tiến trình này cũng đã có đội ngũ cán bộ không chính thức của
riêng mình. Mặc dù có thể sẽ không cần thiết phải quay lại với lịch trình cũ
và có đến tám cuộc họp trong một năm, nhưng sự ủng hộ mạnh mẽ hơn từ
trong và ngoài khu vực sẽ cho phép tiến trình quay trở lại tiến độ cần thiết để
có thể đạt được các mục tiêu đã được đề ra vào năm 1989. Vào thời điểm
hiện tại, những đóng góp cho quỹ đặc biệt để hỗ trợ việc tham dự của các
thành viên phần lớn đến từ Trung Quốc, Đài Loan, và Việt Nam. Indonesia
tiếp tục đảm nhận chi chả cho phí nội địa. Tuy nhiên, hiện cũng có những cơ
chế hiện hành để cung cấp sự hỗ trợ từ bên ngoài khu vực, như thông qua
các tổ chức, trường đại học, tổ chức nghiên cứu, và các cơ quan tương tự, và
cũng có thể qua đó giúp tránh được vấn đề về sự liên can của các chính phủ
ngoài khu vực.
Thực thi các biện pháp củng cố niềm tin trong DoC
ASEAN và Trung Quốc cần phải đặt ưu tiên cho việc tạo hiệu lực cho các
biện pháp củng cố niềm tin được chứa đựng trong tuyên bố DoC. Tiến triển
trong lĩnh vực này có thể giúp làm giảm căng thẳng, tránh xảy ra các vụ
www.nghiencuubiendong.vn
41
đụng độ hải quân, và xây dựng long tin giữa các quốc gia yêu sách. Những
biện pháp đáng giá bao gồm:
Đường dây nóng. Việc hình thành các đường dây nóng giữa các cơ
quan quốc phòng của các quốc gia yêu sách sẽ cho phép trao đổi thông tin
một cách nhanh chóng trong tình huống khủng hoảng và ngăn cho việc đụng
độ trên biển khỏi leo thang thành đụng độ vũ trang. Đáng khích lệ là vào
năm 2010 Việt Nam và Trung Quốc đã nhất trí thành lập một đường dây
nóng. Nhưng những cơ chế như vậy không nên chỉ dừng lại ở chỗ là các biểu
tượng cho sự thiện chí mà phải được thực thi một cách hiệu quả và được thử
nghiệm một cách thường xuyên. Mỹ và Trung Quốc cũng có một đường dây
nóng cho các tình huống khẩn cấp, nhưng khi xảy ra vụ USS Impeccable vào
tháng 3/2009 ở gần đảo Hải Nam thì Trung Quốc đã không trả lời khi Mỹ cố
gắng gọi.
Thông báo trước về tập trận quân sự. Các cuộc tập trận quân sự cũng
đã gây bất đồng ở Biển Đông. Trong những năm gần đây PLA đã tăng
cường phạm vi, mức độ tinh vi, và cường độ tập trận hải quân ở Biển Đông.
Khoản 5 của tuyên bố DoC khuyến khích các bên thông báo trước cho nhau
về những cuộc tập trận quân sự sắp tới trong khu vực. Tuy vậy còn quá ít
dấu hiệu cho thấy rằng việc này đã được thực hiện một cách thường xuyên
và có hệ thống. Việc thông báo trước về các cuộc tập trận quân sự - bao gồm
thời gian, tọa độ địa lý, và mục tiêu – sẽ tăng cường sự minh bạch và đóng
góp vào việc làm giảm thiểu căng thẳng.
Phòng chống các nguy cơ xuyên quốc gia và huấn luyện tìm kiếm, cứu
nạn. Khoản 6 của tuyên bố DoC kêu gọi các bên thực hiện các hoạt động tìm
kiếm và cứu nạn (SAR) và tham gia vào các hoạt động nhằm phòng chống
các nguy cơ xuyên quốc gia như buôn lậu và cướp biển. Cả hai hoạt động
này đều đòi hỏi các quốc gia ASEAN và Trung Quốc phải tăng cường huấn
luyện và tập luyện chung cho các lực lượng vũ trang của mình. Các buổi tập
huấn SAR giữa hải quân của các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc cho
đến nay vẫn chỉ là tập luyện trên bàn giấy và cần phải tiến tới tập luyện trên
biển, giống như giữa lực lượng Biên phòng Mỹ, PLA, và cảnh sát biển Hồng
Công. Hợp tác chống cướp biển cũng là một hoạt động hứa hẹn sự hợp tác,
do đây là một vấn đề gây ra tác động tiêu cực đối với dòng thương mại tự do
ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Biển Đông – nơi mà các vụ cướp biển đang
ngày càng gia tăng. Hiệp định Hợp tác Khu vực về Phòng chống Cướp biển
và Cướp Vũ trang Tàu thuyền ở Châu Á (ReCAAP) – có một trung tâm chia
sẻ thông tin ở Singapore – có thể được dùng làm phương tiện để tăng cường
www.nghiencuubiendong.vn
42
hợp tác phòng chống khủng bố giữa ASEAN và Trung Quốc ở các khu vực
tranh chấp.
Thỏa thuận về các vụ việc trên biển. Các quốc gia ASEAN và Trung
Quốc cần phải xem xét nghiêm túc về một thỏa thuận về các vụ việc trên
biển (INCSEA). Một thỏa thuận như vậy sẽ lập ra một “quy tắc đi đường”
trên biển và nghiêm cấm các hành vi khiêu khích, nguy hiểm. Trong thời kỳ
Chiến tranh Lạnh, Liên Xô đã ký kết một loạt các hiệp định INCSEA với các
nước NATO và Nhật Bản, trong đó có Hiệp định Xô-Mỹ năm 1972 về việc
Phòng chống các Vụ việc Trên và Ngoài Biển Cả, tại đó yêu cầu các tàu
chiến phải tránh nhau để đề phòng trường hợp va chạm, duy trì khoảng cách
an toàn với tàu được theo dõi, thực hiện ra hiệu rõ ràng khi chuyển hướng,
và không tấn công mô phỏng các tàu thuyền đi ngang qua, kể cả từ trên
không. Hai quốc gia ASEAN là Indonesia và Malaysia đã ký kết một hiệp
định kiểu INCSEA vào năm 2001, và trong năm 2010 hải quân hai nước này
đã thống nhất về quy tắc giao tranh để đề phòng các va chạm ở khu vực
tranh chấp thuộc vùng Ambalat ở Biển Celebes gần bờ biển đảo Borneo. Các
cuộc thảo luận giữa Mỹ và Trung Quốc thông qua Hiệp định Tham vấn
Quân sự trên Biển về một hiệp định INCSEA, tuy nhiên, đã bị ngăn cản bởi
các cách giải thích khác nhau về tính hợp pháp của các hoạt động tuần tra
quân sự ở các vùng EEZ. Việc giữa Trung Quốc và Nhật không có một hiệp
định INCSEA cũng làm tăng nguy cơ đụng độ Trung – Nhật ở Biển Hoa
Đông.
Tăng cường sự minh bạch. Đây là một phương pháp hữu hiệu để tăng
cường long tin và làm giảm căng thẳng giữa các nước có những yêu sách
chồng lấn về chủ quyền. Các bên tranh chấp ở Biển Đông – đặc biệt là
Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, và giờ là Philippin – đã củng cố các căn
cứ quân sự của mình trên các đảo chiếm đóng ở Trường Sa kể từ khi tuyên
bố DoC được ký kết, và vì thế đã vi phạm tinh thần, và thậm chí là nội dung
của thỏa thuận này – tại đó kêu gọi các bên thực hiện “kiềm chế”. Sự mở
rộng cơ sở hạ tầng quân sự ở Trường Sa dường như là phản ứng đối với
quan niệm cho rằng các phán quyết của tòa ICJ vào các năm 2002 và 2008
đã ủng hộ các bên yêu sách chứng minh sự quản lý hữu hiệu của mình đối
với vùng lãnh thổ tranh chấp. Tuy nhiên, trong bối cảnh này cần phải lưu ý
rằng một khi một tranh chấp phát sinh thì bất kỳ hành động nào của bất kỳ
bên nào nhằm củng cố cho yêu sách của mình sau thời điểm này – thông qua
những hành động như xây dựng quyền cai quản – sẽ không có tác dụng theo
góc nhìn của luật quốc tế. Tuy vậy, quan niệm cho rằng chiếm hữu có giá trị
ngang luật vẫn là quan niệm chủ đạo, và có vẻ như các quốc gia vẫn cố gắng
www.nghiencuubiendong.vn
43
củng cố cho yêu sách của mình càng nhiều càng tốt. Việc tăng cường sự
minh bạch giữa các quốc gia về các căn cứ, số lượng quân, và thiết bị quân
sự cũng sẽ góp phần làm giảm đi sự không tin tưởng.
Quy tắc ứng xử ASEAN – Trung Quốc ở Biển Đông. Khoản 10 của
tuyên bố DoC nêu rằng việc thông qua một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông
sẽ “thúc đẩy hơn nữa hòa bình và ổn định ở khu vực”. Bất kể những tiến
triển ít ỏi trong việc thực thi tuyên bố DoC, ASEAN và Trung Quốc vẫn cần
phải bắt đầu quá trình đàm phán một bộ quy tắc ứng xử để chính thức hóa
các biện pháp củng cố niềm tin như đã được vạch ra ở trên và nghiêm cấm
các hành vi phá hoại.
Vượt qua Bất trắc và Mang lại Lợi ích:
Giá trị của Giải quyết Tranh chấp trên Biển
Hướng tới sự chắc chắn về quyền tài phán. Về cơ bản thì việc hướng tới giải
quyết hoặc ít nhất là quản lý tạm thời các tranh chấp lãnh thổ và biển – vốn
là những đặc tính thường trực và quan trọng đối với khu vực này – sẽ có khả
năng biến sự rõ ràng, chắc chắn, và ổn định của vấn đề quyền tái phán thàn
hiện thực. Nó có ý nghĩa hệ trọng cho tất cả các quốc gia ven biển và các
quốc gia khác có liên quan. Một thể chế ổn định trên biển sẽ bảo đảm cho
quyền tự do hàng hải và các dòng thương mại tự do, những yếu tố vô cùng
quan trọng của nền kinh tế khu vực và thế giới. Việc này cũng sẽ tăng ường
khả năng quản lý và cai quản đại dương một cách bền vững. Từ đó cũng có
thể dẫn đến được việc bảo tồn các tài nguyên và môi trường biển, tạo điều
kiện tiếp cận các tài nguyên năng lượng biển cần thiết, và qua đó tăng cường
ăn ninh biển và kinh tế của khu vực.
Tăng cường an ninh môi trường và lương thực. Phần V của công ước
UNCLOS và các văn bản pháp lý khác của khu vực và quốc tế, cùng với các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đã tạo điều kiện cho việc khai thác
một cách bền vững các tài nguyên sinh vật trên biển, và đồng thời bảo đảm
được sự bảo tồn, bảo vệ môi trường, sinh quyển. Đây là những khía cạnh của
một chương trình nghị sự lớn hơn của việc duy trì luật pháp và trật tự trên
biển, nó đòi hỏi việc thực thi quyền năng nhà nước, dù là đơn phương hay
tập thể, cần phải cam kết đánh giá định lượng tài nguyên, đặt hạn ngạch và
cái giới hạn khác, cũng như thực hiện theo dõi, kiểm soát, và giám sát
(MCS) và các nghĩa vụ cưỡng chế khác. Tuy nhiên đây lại là một vấn đề vô
cùng nan giải ở các khu vực có những yêu sách chồng lấn về quyền tài phán
trên biển. Hậu quả là việc thực hiện các trách nhiệm này lại bị một số quốc
www.nghiencuubiendong.vn
44
gia hiểu là vi phạm các quyền tài phán của mình; do đó đã dẫn đến các hiện
tượng như xung đột liên quan đến ngành đánh cá. Hơn nữa, kịch bản này
còn bị đặt đối diện với thực tế khai thác quá mức các đàn cá trên phạm vi
toàn cầu. Sẽ có thể ưu tiên các mục tiêu tăng cường an ninh con người (nói
cách khác là quản lý bền vững các tài nguyên sinh vật biển) và bảo vệ môi
trường nếu thế bế tắc về quyền tài phán có thể được khắc phục hoặc bỏ qua.
Giảm rủi ro đụng độ trên biển. Việc hiện thực hóa các biện pháp củng cố
niềm tin như thành lập đường dây nóng, thông báo trước về tập trận quân sự,
và các hiệp định INCSEA, sẽ giảm được đáng kể tần suất các đụng độ trên
biển giữa các tàu hải quân, tàu thực hiện nhiệm vụ hành pháp, và thuyền
đánh cá để từ đó làm giảm nguy cơ về sự leo thang quân sự. Những biện
pháp này cũng sẽ cải thiện trật tự tốt trên biển và tăng cường ổn định của các
SLOC ở Biển Đông.
Cải thiện quan hệ trong khu vực. Các hoạt động hợp tác chung, tăng cường
đối thoại, và thực thi một cách rõ ràng các biện pháp củng cố niềm tin giữa
các quốc gia ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, và Mỹ, cũng như các bên liên
quan khác sẽ tăng cường một cách tích cực các mối quan hệ song phương và
đa phương ở Châu Á – Thái Bình Dương, ngăn chặn được các cuộc đụng độ
quân sự, và cho phép các chính phủ trong khu vực có thể tập trung vào việc
khai thác một cách hòa bình và bền vững các tài nguyên biển.
Kết luận
Trong tương lai gần, các quốc gia ở Châu Á đúng là khó có thể thỏa thuận
được về các vấn đề tranh chấp quyền tài phán trên biển. Điều này không thể
và không nên cản trở các cơ hội để các quốc gia yêu sách cũng như các quốc
gia khác có liên quan hiện thực hóa vô vàn các lợi ích có thể có từ biển. Mặc
dù một giải pháp cuối cùng cho những tranh chấp này vẫn cần đặt lên ưu tiên
hàng dầu, nhưng những tiến triển quan trọng và việc hợp tác vẫn có thể thực
hiện một cách tạm thời và cần phải được tất cả các bên khuyến khích. Có
nhiều cách để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và tranh chấp trên biển,
trong đó có các cơ chế sang tạo có thể được áp dụng đối với các yêu sách
chồng lấn về quyền tài phán trên biển. Một vài trong số đó đã được điểm qua
ở đây. Bài báo cáo này cũng đã cố gắng nhấn mành vào các yếu tố tích cực
và tiêu cực cũng như các xu thế hiện hành ở những vùng biển tranh chấp
thuộc khu vực Đông và Đông Nam Á. Rõ ràng là có quá nhiều rủi ro, và các
quốc gia cần phải nắm bắt cơ hội để tiến triển từ kịch bản hiện tại về những
vùng biển tranh chấp và không được cai quản sang những cơ hội lớn hơn sẵn
có ở Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan.
www.nghiencuubiendong.vn
45
Để có được tối đa các lợi ích mà những vùng biển trên mang lại và những
tiềm năng mà nó có – từ việc khai thác các tài nguyên khí hidrocacbon đến
việc bảo vệ môi trường biển và đa dạng sinh học – thì các giải pháp đa
phương là lựa chọn tốt nhất để có thể hướng về phía trước. Việc các quốc
gia mang được cho mình ý chí chính trị và sự can đảm để vượt qua những
bất đồng và tập trung vào các cơ hội này, như ở một số khu vực đã được
điểm qua ở đây, là hết sức quan trọng. Điều đó không đồng nghĩa với việc từ
bỏ các yêu sách quốc gia mà là tăng cường các quy tắc hợp tác và xây dựng
được niềm tin giữa các bên đối đầu, hình thành nền tảng để từ đó xây dựng
các giải pháp lâu dài.
Bá Việt (dịch)
Quang Hưng (hiệu đính)
Báo cáo của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á (National Bureau of
Asian Research) về hợp tác trên biển ở Đông và Đông Nam Á, bản gốc tiếng
Anh “From Disputed Waters to Seas of Opportunity: Overcoming Barriers
to Maritime Cooperation in East and Southeast Asia”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét