Thứ Hai, 12 tháng 9, 2011

Kỳ tích đê sông Hồng

Công trình kỳ vĩ nhất, tồn tại lâu bền nhất của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội chính là hệ thống đê viền quanh sông Cái - dòng sông đã kiến tạo nên nền văn minh lúa nước rực rỡ của người Việt cổ. Những bí ẩn nào liên quan đến đê sông Hồng chưa được kể ra?

Kỳ tích đê sông Hồng - Kỳ 1: Dời đô và đắp đê

TT - Ngay từ thời vua Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long, nhà Lý (và cả các triều đại sau này) đều cho ban hành nhiều sắc lệnh, chủ trương trị thủy sông Hồng, thôi thúc việc đắp đê bảo vệ nội thành Hà Nội.

Đê Yên Phụ những năm 1971 - Ảnh: TTXVN

Đắp đê trị thủy

Lịch sử hình thành đê bao quanh Hà Nội và cả hệ thống đê điều đồng bằng Bắc bộ chỉ bắt đầu khi vua Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long. Nhà Lý coi trọng nông nghiệp, nên ngay sau khi đóng đô đã ban hành nhiều sắc lệnh khuyến nông, cấm giết trâu bò, trị tội trộm trâu bò rất nặng, giữ lệ cày ruộng tịch điền có từ thời vua Lê Đại Hành... Vì vậy, việc trị thủy sông Hồng và các hệ thống sông nhánh được coi là căn cốt để duy trì nền kinh tế nông nghiệp.

Ông Nguyễn Gia Quang, nguyên phó cục trưởng Cục Đê điều, cho biết khởi thủy đê chỉ là những dải đất do phù sa lắng đọng và tôn cao sau các trận lụt được nối lại với nhau để ngăn nước lũ. Ban đầu chỉ là những dải đê quai không liền mạch, mang tính làng xã, địa phương. Nhưng với sự phát triển của một nhà nước phong kiến tập quyền trung ương mạnh, bắt đầu từ nhà Lý đắp đê phòng lụt đã vươn ra ngoài khuôn khổ nhằm bảo vệ quyền lợi cục bộ cho làng xã họ hàng. Dù dời đô về Thăng Long từ năm 1010, do còn bận bịu với quá nhiều công việc về ổn định chính trị và quốc phòng nên mãi đến năm 1077, triều đình mới đứng ra chủ trương đắp những con đê quy mô to lớn.

Theo Việt sử lược: năm 1077, nhà Lý cho đắp đê sông Như Nguyệt - sông Cầu dài 67.380 bộ (khoảng 30km). Năm Quý Mùi (1103), triều Lý Nhân Tông năm thứ 32, mùa xuân tháng giêng, vua xuống chiếu cho trong và ngoài kinh thành đều phải đắp đê ngăn nước lụt.

Tháng 3 năm Mậu Tý (1108), con đê đầu tiên của sông Hồng được đắp ở phường Cơ Xá có nhiệm vụ bảo vệ kinh thành Thăng Long.

Dưới đời nhà Trần, những con đê được đắp chỉ cốt giữ nước không tràn vào đồng ruộng để kịp làm vụ chiêm. Dưới triều Lê sơ, những con đê lớn hơn được đắp mới và tôn tạo trên hai bờ sông Nhị Hà được xem là sự can thiệp vào tự nhiên quá giới hạn cho phép, kết quả là sông Hồng trở nên hung dữ, đã bùng vỡ và gây ngập lụt triền miên.

Yên dân để giữ nước

Các chuyên gia thủy lợi, đê điều giải thích đê có từ thời vua Hùng, xuất hiện ở Phong Châu (Phú Thọ). Khi đó lũ lên ngập đồng ruộng thì người dân đã đổ đất, tôn ruộng lên cao, cứ mỗi năm tôn thêm một chút. Đó gọi là “thổ nhô”. Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh cũng từ đó mà ra.

Nhà Nguyễn hiểu rằng muốn tranh thủ lòng dân không có gì khác hơn là tạo an cư lạc nghiệp. Năm Quý Hợi (1803) vừa mới lên ngôi vua Gia Long đã hỏi han về lụt lội. Sau khi nghe quan lại Bắc thành tâu: “Thế nước sông Nhị Hà lên tất mạnh. Đê tả hữu thuộc Tây Sơn, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, hạ nhiều chỗ vỡ lở. Xin cho dân đắp ngay để chống lụt mùa thu. Thủy đạo các trấn nhiều nơi úng tắc, xin hạ lệnh cho trấn thần (quan các trấn) tùy thế khơi vét”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền.

Năm ấy nhà vua còn hạ lệnh cho quan lại sĩ thứ Bắc thành điều trần lợi hại: “Làm lợi, bỏ hại là việc trước tiên của chính trị. Những huyện ở ven sông trong địa phương các người từ trước đã đắp đê phòng lụt. Song nhân tuần đã lâu, hễ đến mùa lụt thì đê vỡ lở, lúa ruộng bị ngập, người và vật đều bị hại. Bọn người, kẻ thì sinh ở đó, người thì làm ăn ở đó. Thế đất tình người đã từng am thuộc. Vậy đắp đê hay bỏ đê, cách nào hại, cho được bày tỏ. Lời bàn mà có thể thực hành sẽ được nêu thưởng”.

Suốt thời gian trị vì, vua Gia Long vẫn kiên trì cho đắp đê. Năm Giáp Tý (1804), vua sai quan lại Bắc thành lấy dân đi sửa - đắp đê, sau lại sai quan trong triều là Võ Trinh đi trông coi. Vua dụ rằng: “Việc phòng luật rất quan hệ, lợi hại đến đời sống của dân, trẫm rất chú ý, người (tức Võ Trinh) phải cẩn thận”.

Năm Bính Dần (1806), nhà nước bỏ ra 95.200 quan tiền để đắp 12 đoạn đê mới ở Bắc bộ. Năm Mậu Thìn (1808), vua Gia Long cho đắp thêm 10 đoạn đê mới tại các nơi như Sơn Nam thượng tại các huyện Thanh Trì, Gia Lâm, Văn Giang, tổng cộng 1.500 trượng (1 trượng bằng 0,4m dài).

Năm 1809, theo lời tấu của đô chính Bắc thành, vua cho đắp thêm hai đoạn đê mới và tôn cao hai đoạn đê cũ, chi phí hết 87.000 quan tiền.

Cũng năm này nhà vua đặt chức quan đê chính Bắc thành (coi về đê điều Bắc bộ), cử binh bộ thượng thư Đặng Trần Thường làm tổng lý và quan tham chính bộ Công Nguyễn Khắc Thiệu làm tham lý và dụ rằng: “Sông có đê, đời sống của dân quan hệ ở đó. Bọn người đi phải nên kính cẩn”.

Bắt đầu từ năm 1809, triều Nguyễn quy định cứ tháng 10 âm lịch hằng năm các quan phủ, huyện, trấn phải lần lượt đến khám, quan đê chính khám lại. Đê nào nên sửa đắp thì xét định công trình lớn hay nhỏ. Nếu là công trình lớn thì sai người hợp cùng trấn (thuở ấy toàn Bắc bộ gọi là Bắc thành gồm có bốn thị trấn là tỉnh) thuê dân làm. Đều khởi công vào tháng giêng hoặc tháng 2, đến tháng 4 phải xong. Tháng 9 cùng năm ban hành điều lệ về đê điều ở Bắc bộ, trong đó quy định chi tiết về quy mô, nguồn nhân lực từng loại đê và chi tiết đến cả giá thành từng trượng, thước đất đắp đê.

Vua Minh Mạng cực kỳ nghiêm khắc, chẳng những duy trì luật lệ thưởng phạt về đê điều từ triều Gia Long để lại mà còn bổ sung chặt chẽ và thực hiện gắt gao hơn. Năm 1827, vua cách chức hiệp trấn Sơn Nam của Ngô Huy Viện. Nguyên trước đó trấn thủ cũ là Lê Công Lý và tham hiệp trấn Vũ Tiến Huân thuê dân đắp đê ở huyện Duy Tiên đã dời đống nọ, đổi đoạn kia không đúng thức. Ngô Huy Viện bị cách chức, Vũ Tiến Huân bị đánh 100 trượng và phát đi làm lính cơ. Lê Công Lý tuy đã chết vẫn bị thu lại bằng sắc.

Vua cho rằng: “Việc đê quan hệ tới việc làm ruộng không nhỏ. Công việc sửa đắp, triều đình vốn không tiếc phí, làm không đúng cách thức là lỗi Hữu Ty”. Vua Minh Mạng còn dụ thêm rằng: “Đắp đê là chống nước lụt cho dân yên ở, quan hệ lợi hại không nhỏ”.

Dưới triều Minh Mạng từ năm 1820-1840, hầu như năm nào cũng có các công cuộc trị thủy ở Bắc kỳ. Có những công trình đại quy mô huy động đến hàng vạn người, cả dân phu và binh lính.

30 năm đầu triều Nguyễn đã đắp 580km đê mới.

Kỳ tích đê sông Hồng - Kỳ 2: Những trận vỡ đê lịch sử

TT - Từ cuối thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19, thống kê chưa đầy đủ cũng đã có 188 năm chính sử chép có thủy tai, kèm theo thảm họa lớn: vỡ đê. Đến thời Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên ghi nhận 82 năm đầu của triều Nguyễn đã có 52 năm lụt lội, vỡ đê.

Trong trận lũ năm 1971, ngành giao thông đã điều hẳn một đoàn tàu chở đầy đá hộc để ém trên cầu Long Biên vì sợ trôi cầu - Ảnh tư liệu TTXVN

Kỳ 1: Dời đô và đắp đê

Vỡ đê trong sử sách

Theo các chuyên gia về đê điều thì sử sách đã ghi lại hàng trăm vụ vỡ đê lớn nhỏ. Bắt đầu từ triều Lý (trở đi), quốc sử mới có những ghi chép liên tục về chuyện vỡ đê, nhưng cũng chỉ ghi lại những năm lụt lớn.

Đầu tiên, triều Lý Nhân Tông năm thứ 7, Mậu Ngọ, 1078, nước lụt tràn ngập trong thành. Cũng triều Lý Nhân Tông năm thứ 50, Tân Sửu 1121, mùa hạ tháng 5, nước to tràn vào đến ngoài cửa Đại Hưng. Hẳn đã vỡ thì nước mới tràn như vậy, dù đê Cơ Xá được đắp để bảo vệ kinh thành từ năm 1108.

Triều Trần, lụt lội hoành hành không kém. Năm Bính Thân 1236, triều Trần Thái Tông năm thứ 12, tháng 6, vỡ đê, nước ngập cung Lệ Thiên. Hai năm sau, năm Mậu Tuất 1238, mùa thu tháng 7, nước to, đê vỡ, ngập cung Thưởng Xuân. Đến năm Quý Mão 1243, nước lụt còn phá vỡ cả thành Đại La.

Năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám đang diễn ra thì lũ trên các sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình lên rất cao. Khi lũ sông Hồng chưa lên đến đỉnh, chính quyền cách mạng đã cho mở đập Đáy (Đan Phượng-Hà Tây, nay là Hà Nội) để tiêu bớt lũ cho sông Hồng.

Bảy cửa đập Đáy (mở) được hạ thấp từ từ trong bảy giờ liền, đỉnh cửa đã từ 12,5m xuống 11,5m.

Dự định mở hết cỡ đưa mặt cửa đập nằm ngang ở 7m như thiết kế. Nhưng hạ xuống đến 10,5m thì tất cả các cửa không xuống được nữa mà có biểu hiện dập dềnh như đã gặp trong lần mở năm 1940.

Sáng 19-8 cửa số 1 phía Sơn Tây thình lình sập hẳn mặc dù đã dùng mọi biện pháp ép khí vào, cửa cũng không lên được tạo thành một thác nước khủng khiếp xoáy vào khoang số 1. Kết quả là khoang số 1 bị phá hủy hoàn toàn, phải lấp bỏ vĩnh viễn.

Đập Đáy vỡ, kéo theo 52 đoạn đê thuộc sông Hồng, sông Thái Bình và các con sông khác (trừ đoạn thuộc Hà Nội) bị vỡ. Tổng diện tích bị ngập lụt lên tới 321ha.

Cách mạng Tháng Tám diễn ra đúng vào những ngày lũ lịch sử và việc hàn đê chống lụt trở thành công việc đầu tiên của nhà nước cách mạng. Tấm bằng khen đầu tiên được trao cho việc này.

Bác Hồ khi đó đi xuống tận Hưng Yên, Thái Bình để đôn đốc. Chính Hồ Chủ tịch là người ủng hộ sáng kiến đổi mới cho việc hộ đê bằng việc kêu gọi tư nhân “đầu tư” và chấp nhận “đấu thầu” trong các công trình củng cố đê điều...

Năm Canh Ngọ 1270, triều Trần Thánh Tông, mùa thu tháng 7 nước lũ to. Các đường phố và kinh thành đều phải đi lại bằng thuyền. Như vậy cũng có nghĩa là đê sông Hồng và hệ thống đê quanh kinh thành đã bị vỡ nhiều nơi.

Đến triều Lê, mặc dù đê điều đã được củng cố và có tổ chức hộ đê hẳn hoi, nhưng lụt lội vẫn là nỗi kinh hoàng. Năm 1445, triều Lê Nhân Tông, nước sông lên to, ngập vào trong thành sâu đến 3 thước, lúa mạ tổn hại đến 1/3 cả nước. Năm Đinh Hợi 1467, Lê Thánh Tông năm thứ 7, nước biển dâng cao, gió bão rất lớn, đê điều bị vỡ, thóc lúa bị ngập, nhiều người chết đói. Năm Tân Hợi 1491, tháng 8 mùa thu mưa rất to suốt ngày đêm không ngớt. Nước lũ lên dữ dội. Điện Kính Thiên nước ngập sâu 2 thước 2 tấc.

Năm Canh Ngọ 1630, triều Lê Thần Tông, mùa thu tháng 8 nước sông Nhị tràn vào, nước chảy trên đường phố Cửa Nam như thác, phố phường nhiều người chết đuối. Liên tiếp các năm Tân Mùi 1521, Nhâm Thân 1632, cung điện nhà vua đều bị ngập lụt.

Đến thời Gia Long, năm 1802, Bắc thành nước lớn, đê vỡ. Năm 1809, Bắc thành bão lụt tràn ngập. Năm Giáp Thìn 1844, nước sông Nhị lên đến hơn 10 thước, đồng ruộng Hưng Yên, Hà Nội, Nam Định, Quảng Yên đều bị ngập.

Trong các triều vua Nguyễn thì triều Tự Đức có nhiều lũ lụt nhất, đồng bằng Bắc bộ vỡ đê liên miên vì đê điều ít được tu sửa. Đê Văn Giang (Hưng Yên giáp Hà Nội) vỡ 18 năm liền, từ 1863-1886 dân cư phiêu bạt, xóm làng trở thành đầm lầy.

Thời Pháp, cứ ba năm thì có một năm đê vỡ. Các trận lụt năm 1893, năm 1915 làm bốn tỉnh hữu ngạn sông Hồng ngập chìm trên ba tháng trời, tác động mạnh đến dư luận nước Pháp, buộc thực dân Pháp phải thực hiện một số kế hoạch củng cố đê điều.

Gần nữa, trận lũ năm 1969 và 1971 được các chuyên gia ghi vào “lịch sử” bởi vỡ đê hàng loạt, gần 100.000 dân đồng bằng sông Hồng đã chết vì trận lũ này...

Vỡ đê trong trận lũ lịch sử 1971

Cuốn sổ tay khá dày, cũ kỹ, sờn hết gáy của kỹ sư Nguyễn Gia Quang, nguyên cục phó Cục Đê điều (Bộ Thủy lợi), ghi lại chính xác đến từng giờ, từng phút về cơn lũ kinh hoàng và thảm họa vỡ đê năm 1971.

Vừa lật giở những trang giấy cũ nát tìm số liệu, ông Quang vừa kể: năm đó, từ nửa cuối tháng 8 mưa to, đều trên diện rộng khiến lũ sông Đà, sông Thao, sông Lô (ba nhánh chính của sông Hồng) đều lên. Gần chục ngày trời ngày nào cũng mưa, mưa lúc mau lúc thưa không ngớt, mây đen phủ kín cả bầu trời.

Dòng sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội nước chảy cuồn cuộn, những xoáy nước to bằng cái nong quay tít, xoáy hun hút xuống tận đáy, không một bóng con tàu, chiếc thuyền nào dám lai vãng. Vùng ngoài đê chìm trong biển nước, nhà cửa ở chỗ cao chỉ nhú lên cái nóc, các lùm cây thoi thóp trong nước lũ...

2 giờ đêm 21-8, lưu lượng nước sông Đà tại Hòa Bình đạt 16.100m3/giây, tại sông Thao (ở Yên Bái) là 10.500m3/giây, sông Lô (tại Phù Ninh, Phú Thọ) là 13.900m3/ giây. Sau khi hợp lưu, lưu lượng sông Hồng tại Sơn Tây là 34.250m3/giây làm cho nước các triền sông lên cao.

Ông Quang kể tiếp, Hà Nội lúc đó nước lên xấp xỉ mặt cầu Long Biên và ngành giao thông đã phải điều cả một đoàn tàu chở đá lên nằm yên trấn giữ mặt cầu, với hi vọng giảm thiểu tác động của nước xiết có thể cuốn phăng cả cây cầu huyết mạch này.

Sau khi lũ làm ngập vỡ hết các đê bối (đê nằm ngoài đê), lần lượt vỡ đê Lâm Thao, đê Lai Vu (Hải Dương), đê Nhất Trai (Thái Bình), đê Khê Thượng (Ba Vì-Hà Tây cũ). Riêng đê Cống Thôn thuộc Hà Nội vỡ lúc 20g30 tối 22-8. Đê phao Tấn Tả (Thái Bình) được phá để phân lũ lúc 9 giờ sáng 23-8. 11 giờ cùng ngày thì đê Thượng Vũ sông Kim Môn vỡ, đến 27-8 vỡ cả cống Chuốc do nước Khê Thượng dồn về...

“Mặc dù dùng cả xe tăng chặn lũ ở cống Khê Thượng nhưng lũ cuốn phăng cả xe tăng xuống phía hạ lưu hàng trăm mét” - ông Quang nhớ lại.

Theo ông Quang, mực nước đo được tại Hà Nội sau khi đã vỡ đê là 14,13m - theo nhiều chuyên gia là tương đương với mặt đồng hồ ở ga Hàng Cỏ.

Việc hàn khẩu các chỗ vỡ được thực hiện ngay nhưng do mưa to tiếp tục kéo dài, lũ lớn nên công việc kéo dài, chỉ kết thúc sau khi lũ rút, mặc dù đã sử dụng đến 10.000m3 đá hộc, 1,4 triệu bao tải đay, 34.000 rọ thép và đặc biệt đã phải đánh đắm 19 sà lan (riêng cho đê Nhất Trai)

Kỳ tích đê sông Hồng - Kỳ 3: Vụ án đê Yên Phụ

TT - Đê càng vững thì dân dồn về đê càng nhiều, vi phạm hành lang đê càng tăng. Đê không vỡ, lũ không tràn nhưng đã có những lãnh đạo “trôi mất ghế”, tiêu biểu là “vụ án đê Yên Phụ” năm 1995.

Đê Yên Phụ trong trận lũ lịch sử năm 1971 - Ảnh: TTXVN

Và đê Yên Phụ ngày nay - Ảnh. V.Dũng


Thách thức ngoài đê

Đê Yên Phụ là đoạn đê sông Hồng chạy từ chân cầu Thăng Long đến Nhà máy nước Yên Phụ, ngang qua một vùng “bờ xôi ruộng mật” của Hà Nội - Nghi Tàm - Quảng Bá - Hồ Tây.

Người dân thủ đô cũng như cán bộ, chuyên gia làm công tác đê điều, thủy lợi khi nói về các vụ vi phạm đê điều không ai không nhắc đến “vụ án đê Yên Phụ” năm 1995. Khi đó Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ đạo quyết liệt phá bỏ hơn 200 ngôi nhà xây dựng trái phép trên đê Yên Phụ, Tứ Liên. Vụ án này còn khiến ông thứ trưởng thường trực Bộ Thủy lợi bị kỷ luật, không được cất nhắc, cán bộ dưới quyền là cục trưởng đê điều và ông giám đốc Sở Thủy lợi Hà Nội đều mất chức và bị bắt giam hơn 70 ngày...

15 năm không phải là dài, nhiều người liên quan và nhiều cán bộ, kỹ sư cùng thời đến giờ nhiều người còn nhớ vụ bê bối ầm ĩ này.

Ngồi bán nước ngay đầu ngõ nhà mình (nhà 13, ngách 17, ngõ 292 Nghi Tàm), ông Đỗ Như Luân, tổ trưởng tổ dân phố 29, cụm 5A, phường Yên Phụ từ năm 1994 đến nay, kể: “Hồi đó, những năm đầu 1990, cả một đoạn đê dài chỉ khoảng hơn kilômet qua địa phận phường Yên Phụ hai bên thân đê người ta đua nhau làm nhà, xây bậc lên xuống, lối ngõ vào nhà ngay lên thân đê.

Thời đó cũng chủ yếu những nhà có tiền, có lực mới đủ sức xây nhà kiên cố, bấu bám vào đê. Thậm chí họ còn thuê xe chạy ngày đêm đổ đất cạp đê để xây dựng nhà cửa, hàng quán. Những gia đình không có điều kiện cũng chớp cơ hội bạt mái đê cuốc, xới trồng rau. Chỉ một thời gian ngắn trên đoạn đê này đã có cả vài trăm nhà lấn đê, vi phạm hành lang đê”.

Chẳng cần nói xa xôi, thời đấy ngay bản thân ông tổ trưởng Luân cũng leo lên mặt đê dựng lều bán quán nước. Đến em trai ông là đảng viên nhưng cũng xây nhà ngay sát chân đê... Ông Luân lý giải: “Khi đó đã có mốc giới gì đâu, đã được tuyên truyền thế nào là hành lang bảo vệ đê đâu, cứ thấy người khác xây được, ở được thì mình cũng bon chen!”.

Ngày 13-7-1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ đạo UBND TP Hà Nội kiểm tra tại chỗ và xử lý kịp thời các đối tượng vi phạm hành lang bảo vệ đê từ Yên Phụ đến Nhật Tân. Ngày 29-3-1995, đích thân Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm việc với Bộ Thủy lợi và Hà Nội về việc di chuyển các hộ dân, các công trình trong phạm vi cần giải tỏa.

Suốt ba tháng, sau những giằng co, 202 nhà nằm trong chỉ giới đã tự nguyện tháo dỡ hoàn toàn hoặc một phần. Thành phố lúc ấy tạm ứng 6,5 tỉ đồng cho UBND quận Ba Đình và 6,5 tỉ đồng cho UBND huyện Từ Liêm để chi cho việc hỗ trợ dân di dời...

“Gia cố kỷ cương”

Ông Luân bảo nhiều lúc các đoàn trung ương đi kiểm tra là dân lại xúm đông xúm đỏ để bày tỏ bức xúc, thắc mắc này nọ, kỳ kèo mức hỗ trợ, đền bù. “Tôi nhớ những lần ông Phan Văn Khải khi đó là phó thủ tướng xuống kiểm tra là dân xúm vào, rất nhiều người cố chen vào để đưa đơn thư kiện cáo”.

Thậm chí nhiều nhà chẳng biết quen biết cỡ nào, nhưng mỗi khi ông Luân đến vận động thì họ “cười khẩy như thách đố”, đến khi cưỡng chế thì năm lần bảy lượt cứ động vào lại phải dừng mà chẳng biết lý do.

Theo ông Luân, sau khi dẹp loạn đê xong, Nhà nước cắm mốc, vạch rõ các chỉ giới, làm đường rộng 5m lưu thông ngay sát chân đê thì chẳng còn mấy ai vi phạm cái mốc đó nữa. Những nhà xây sau chỉ giới 5m tính từ chân đê đến 25m thì được giữ nguyên hiện trạng, nhưng bị phạt rất nặng. Với sự kiên quyết của Chính phủ khi đó, sau mấy tháng “vụ án” cũng khép lại, toàn bộ nhà cửa lấn chiếm đã bị dỡ bỏ...

Chứng kiến vụ “dẹp loạn” đê Yên Phụ, một nhà báo lão thành từng 40 năm theo dõi ngành nông nghiệp quả quyết: Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi đó làm mạnh tay không chỉ để giải phóng thân đê, gia cố lại đê cho vững chắc mà sâu xa hơn, Thủ tướng muốn “gia cố lại kỷ cương phép nước”.

Nhiều người dân Yên Phụ còn nhớ thời đó, mỗi lần cưỡng chế là trên lại huy động biết bao công an, bộ đội, dân phòng rồi các loại xe máy xúc, máy ủi rầm rầm tiến lên đê Yên Phụ, đường Nghi Tàm. Lúc đầu thì chặn đường, tìm những hố xủi, tổ mối đào bới lên, cho quay phim, chụp ảnh để tuyên truyền cho dân biết sự nguy hại của làm nhà lấn đê. Các vết nứt, tổ mối, mạch xủi đó nếu gặp lũ thì nguy cơ vỡ đê là rất lớn.

Nguy hại trước hết là chính người dân sống gần đê, trong đó có bản thân những người lấn đê. Tuyên truyền là thế, thậm chí cán bộ phường, tổ dân phố thay nhau đi vận động, nhưng nhiều nhà cũng chống đối, dây dưa.

“Nếu là dân thường, tuyên truyền vận động rồi đền bù hỗ trợ thỏa đáng là dân nghe ngay. Tuy nhiên hồi đó không hiểu sao nhiều nhà thuộc diện “con cháu” vẫn ngang bướng, chống đối, chây ì khiến công tác giải tỏa dây dưa. Rồi dân thường cũng nhìn vào đó mà so bì” - ông Luân nhớ lại cái thuở đi vận động giải tỏa năm 1994 đầu 1995. May thay, cuối cùng ý chí lập lại kỷ cương đã chiến thắng!


Kỳ tích đê sông Hồng - Kỳ cuối:

Hành trình của con đê lịch sử

TT - Nỗi ác mộng của các cán bộ bảo vệ đê điều và người dân sống hai bên bờ đê chính là những ổ mối âm thầm khoét sâu vào thân đê. Trăm phương ngàn kế đã được áp dụng để diệt mối tận gốc nhưng vẫn chỉ là đánh rắn đằng đuôi, diệt mối khi tổ nó đã ăn ruỗng thân đê.

Khúc đê nào phát hiện có vài con mối là chỉ vài ngày sau đã có hàng chục tổ mối, mối đào đất làm tổ, thân đê cứ ruỗng từ bên trong, mưa xuống nước lên, kiểu gì cũng sụp.

Một góc của “con đường gốm sứ” - đê sông Hồng ngày nay - Ảnh: V. Dũng

Con mối và cuộc “đổi đời” của đê

Ngành thủy lợi đã tổ chức rất nhiều đợt phát huy sáng kiến diệt mối, từ tìm bắt thủ công đến đổ hóa chất bảo vệ hàng ngàn kilômet đê Bắc bộ. Có những cá nhân đã được tuyên dương chiến sĩ thi đua toàn quốc vì thành tích diệt mối như ông Nguyễn Văn Chấp ở xã Gia Lương, Thuận Thành (Bắc Ninh)... Nhưng mối vẫn hoành hành, có những ổ mối to như ổ voi, sụp xuống nuốt gọn cả một chiếc xe commăngca.

Ông Nguyễn Gia Quang, nguyên phó cục trưởng Cục đê điều, kể lại: “Có lần chúng tôi đi kiểm tra đê phải dừng vì xe hỏng, cậu lái xe cuống quít: “Mau lên anh ơi, xe dừng lâu là mối ra nhiều lắm”. Quả nhiên, một lúc sau mối bay ra từng đàn. Tôi mới để ý quan sát khắp các tuyến đê miền Bắc: ở đâu có xe cộ chạy nhiều thì ở đó không có mối. Chưa có nghiên cứu khoa học nào chính xác, nhưng theo ghi nhận trực quan hàng chục năm của tôi, rõ ràng mối không chịu được tần số rung do ôtô đi trên đê gây ra.

Trong khi đó, suốt hàng chục năm chúng ta vẫn nghiêm cấm các phương tiện cơ giới đi lại trên mặt đê vì sợ ảnh hưởng đến hành lang bảo vệ đê. Chính vì vậy, tôi đã kiên trì đề nghị Bộ Thủy lợi và Bộ GTVT cho phép ôtô đi trên đê để đuổi mối, nhưng với điều kiện phải cứng hóa mặt đê, tức phải trải bêtông hay đổ nhựa”.

Mới thập niên 1990, khi phong trào lô đề ở Hà Nội bùng phát lan rộng, nhiều gia đình khuynh gia bại sản vì có người thân ham hố món cờ bạc này thì lúc đó câu cửa miệng để người ta răn dạy nhau: “Đánh đề ra đê mà ở”.

Ông Đặng Quang Tính, nguyên cục trưởng Cục Đê điều, kể rằng thời đó và xa hơn nữa, hệ thống đê điều Hà Nội vẫn toàn bộ là đê đất, nhiều đoạn chỉ thấp ngang ngực người đi đường, cỏ mọc lúp xúp, hoang vắng. Phía ngoài đê chỉ là các bãi sậy, dân cư thưa thớt mà chủ yếu là dân ngoại tỉnh buôn bán dọc sông cắm lều ở tạm. Thậm chí những đối tượng trốn lính, trộm cắp... không chốn dung thân mới tìm đến vệ đê dựng lều tá túc. Vì thế đê là nơi mà chẳng đặng đừng người ta mới tìm đến.

Việc cứng hóa thân đê theo các chuyên gia Cục Đê điều là quy luật tất yếu, chứ chẳng phải lý do nào. Không phải đắp đê cao hơn, cứng hơn để mời gọi người ta đến lập làng, lập xóm, mà lý do chính là để bảo vệ Hà Nội, bảo vệ người dân nội thành sống trong đê.

Theo ông Nguyễn Ty Niên, nguyên vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Bộ Thủy lợi những năm 1985-1990, kế hoạch cứng hóa đê Hà Nội có từ năm 1985. Nhưng khi đó để gia cố đê cho chắc, biến đê mềm (đất) thành đê cứng thì cần rất nhiều tiền để triển khai nhiều hạng mục. Đất nước khi đó khó khăn, Bộ Thủy lợi lúc đó chủ trương vay tiền từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nhưng khổ nỗi lúc đó VN vẫn bị cấm vận nên việc vay tiền quốc tế là không thể.

Vậy nên muốn lũ không phá đê, tràn đê thì VN cần phá vỡ “đê cấm vận”- là cách duy nhất khi đó. Đích thân ông Niên phải xây dựng kế hoạch, tham gia đàm phán, thuyết phục ADB suốt năm năm trời, với lý do vay tiền để ổn định thân đê, và cuối cùng đến năm 1990 ADB đồng ý cho vay hơn 11 triệu USD để chủ yếu xây dựng hệ thống kè dọc đê sông Hồng từ Hà Tây về Hà Nội, xử lý các đùn, xủi thân đê và xây tường bêtông trên mặt đê (thay thế các con trạch xấu xí mà mỗi khi lũ lên người dân hay đắp trên mặt đê để chống sóng và ngăn lũ tràn).

Có tiền nhưng phải đến năm 1993 các dự án này mới được triển khai xây dựng. Phải mất năm năm, đến 1998 các hạng mục dự án cơ bản hoàn thành. Câu chuyện về các tổ mối trên thân đê đã hầu như lùi vào dĩ vãng. Bây giờ các tuyến đê xung yếu hầu như cũng đồng thời trở thành những con đường huyết mạch, phục vụ dân sinh.

Đi vào... gốm sứ

“Nhớ những con đê thành lối xe, bước chân năm tháng đi về...” là lời bài hát quá đỗi thân quen của nhạc sĩ Hoàng Hiệp Nhớ về Hà Nội mà người Hà Nội và bất kỳ ai chỉ một lần qua thành phố này cũng thuộc nằm lòng. Nhưng những con đê thành lối xe ấy cũng vẫn chỉ là những con đường bêtông xám xịt, cỏ may leo kín triền đê. Thành phố vốn đã quay lưng ra sông, bờ đê lại xấu và bẩn, sông Hồng vì thế càng xa.

Trong rất nhiều dự án chào mừng đại lễ 1.000 năm Thăng Long, một dự án đầu tiên rất đơn lẻ, khởi phát từ một nữ họa sĩ trẻ nhằm làm đẹp những bức tường trên đê Yên Phụ, Trần Quang Khải đã được đông đảo các giới, các thế hệ người Hà Nội cả trong và ngoài nước hưởng ứng vì tính thiết thực và khả thi của nó.

Ý tưởng của Nguyễn Thu Thủy, họa sĩ trình bày báo Hà Nội Mới, là “Toàn bộ bức tường ngăn sóng trên mặt đê được trang trí bằng những bức tranh gốm tái hiện lịch sử văn hóa dân tộc từ Đông Sơn đến Đinh, Lê, Lý, Trần... Nguyễn. Chất liệu là gốm sứ Bát Tràng của làng gốm nổi tiếng ngay bên kia bờ sông Hồng”. 21 trường đoạn kéo dài từ cửa khẩu An Dương đến cửa khẩu Vạn Kiếp, chạy suốt từ dải bờ sông phía nội thành Hà Nội quả thật đã mang lại một bộ mặt mới trẻ trung, rực rỡ và quan trọng nhất là rất sáng sủa, sạch sẽ cho thành phố.

Trong quá trình thi công, bắt đầu từ tháng 2-2007, con đường gốm sứ đã gặp phải rất nhiều ý kiến phản biện, thậm chí chống đối quyết liệt. Nhiều họa sĩ coi đó là một thứ “rác văn hóa”, tương đương với thứ nghệ thuật “vẽ bậy, bôi bẩn” kiểu phương Tây. Ở một cực khác, những nhà sử học như giáo sư Lê Văn Lan, họa sĩ như chủ tịch Hội Mỹ thuật VN Trần Khánh Chương lại rất nhiệt tình ủng hộ. Quan trọng hơn nữa là sự đóng góp tự nguyện của các bạn sinh viên mỹ thuật trẻ, của các doanh nghiệp...

Giữa tháng 9-2010, con đường gốm sứ chào mừng 1.000 năm Thăng Long được xây dựng chủ yếu bằng tiền xã hội hóa đã chính thức hoàn thành với 3.950m chiều dài và diện tích 7.000m2 tranh gốm, lập kỷ lục Guinness cho bức tranh gốm dài nhất thế giới.

Cái mới không phải lúc nào cũng được chấp nhận ngay và văn hóa thì phải được gìn giữ hằng ngày, vì con đường gốm sứ hoàn thành ngày 15-9, đến 18-9 đã phát hiện một vài vết nứt trên mặt các tranh gốm đã làm xong 1-2 năm trước đó.

Công cuộc giữ đê đã trải qua ngàn năm, từ nay thêm một phần việc quan trọng: giữ gìn “con đường gốm sứ”.

THU HÀ - ĐỨC BÌNH

Nguồn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét