Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

TIỂU CHIÊU: NÀNG IPHIGENIA CỦA KIM DUNG

TIỂU CHIÊU: NÀNG IPHIGENIA CỦA KIM DUNG

Tặng con gái Liêu An

Phái mày râu thưng chê phụ nữ là hẹp hòi, nông cạn : Đàn ông nông nổi giếng khơi, đànbà sâu sắc n cơi đựng trầu”. Nhưng lch sử nhân loại, ngay trong cuộc sống đời tng, cho chúng ta thy những khi đại cuộc gặp cơn khốn quẫn hay gia đình gặp cảnh ba đào cần đến sự hy sinh để cứu vãn tình thế bế tắc, thì chính phụ nữ mới tng người tiên phong tự nguyện. ng như Thưng Đế đã ban cho họ lòng vị tha nhẫn nhục để ng đến hy sinh, nếu điều đó đem lại bình yên cho ngưi mà họ yêu thương. Phái nam chúng ta cứ quen thói bốc phét huênh hoang về phận mày râu, mà không bao gi ng hết đưc tầm mênh mông trong những sự hy sinh thầm lặng đó.

Nguyễn Du đã vì Thúy Kiều mà đem hết tài hoa để dựng lên một tòa tân thanh lặng lẽ giữa bể dâu. mưi lăm năm luân lạc của nàng đã đem lại cho đời hằng sa ẩn ngữ. Hơn hai ngàn năm tc, nàng Chiêu Quân Trung Quốc ôm tâm sự hận sầu ngưc về phương Bắc để nghĩa với Hung Nô, hơn một ngàn năm sau, công chúa Huyền Trân c Việt lại âm thầm giọt lệ để xuôi về phương Nam ngàn dặm. Hai phương trời, hai tâm sự cách bit nhau hơn c ngàn m, nhưng cái thê ơng đau xót chỉ một. Đâu phương cố ơng? Nào tri cố quận? Quay đầu nhìn lại ch thấy mênh mông mây trắng, chốn xa xôi kia quê hương vĩnh viễn không th quay về. Mây c mt mùng, ngàn dặm tha ơng, kẻ anh hùng còn chết điếng cả ruột gan, huống gì phận đào liễu yếu? u thể tạm đốt cháy đi nỗi sầu lữ, nhưng lấy để an ủi khách má hồng?

Thần thoại Hy Lạp kể rằng vua Agamemnon đem đại binh tham gia cuộc viễn chinh đánh thành Troie, đoàn chiến thuyền bị gió bắc đánh dạt vào một bến cảng. Nghe lời một nhà tiên tri, nhà vua buộc lòng phải hiến đứa con gái yêu của mình Iphigenia cho n thần Artemis làm ngưi hầu đ cứu vãn tình thế. Thn li cho gió nổi lên, đoàn quân lại hân hoan giương buồm thẳng tiến, nàng Iphigenia kiều dim đành một mình lại vùng Aulis xa lạ để làm trinh n thờ phụng thần linh. đại cuộc, vâng li đi cuộc (!), phận nữ nhi li phi hy sinh. Chiến binh các ngưi hay c huyên hoang cùng máu lửa nơi chiến trận, không bao gi nghĩ đến nỗi se st lnh của lòng ta. Từ đây, ngày ngày ta sẽ nữ tế để chăm sóc đền thờ của N Thần bất tử. Đưc bao ngưi kính trọng, đưc gần gũi với cõi bất tử, nhưng đó cõi bất tử không tình yêu đôi lứa s cc hình cho ngưi con gái đang sống với những reo ái tình trong nhịp máu phân n” (X.Diệu). Cho nên Nguyễn Triệu, Lưu Thần phải bỏ cảnh thần tiên để quay về trần giới. Cõi trn gian bụi bm không thể sánh bằng chốn Bồng Lai nhưng, giữa cõi tam thiên đại thiên thế gii, đây là nơi duy nhất ta đưc sống trọn vn với bi hoan ly hợp của tình yêu, trong tủi nhục ta m thy vinh quang và trong đau khổ ta tìm ra hạnh phúc.

Cái tâm sự hận sầu đau đớn đó của một trinh n của trời xưa Hy Lạp lại hiện ra một lần nữa trong tâm s của Tiểu Chiêu. Hồn Hy Lạp xưa lại về vây phủ Thiên Đ Long Ký! Nếu ai hỏi trong tất cả các tác phẩm của Kim Dung, ngưi con gái nào xuất hin ít nhất nhưng mang tâm sự thê ơng nhiều nhất, thì chúng ta th trả lời không ngần ngại rằng đó Tiểu Chiêu. Mẹ nàng Kim Hoa Bà- trinh nữ đưc Minh giáo Ba cử sang Trung Quốc để tìm cho ra bí cấp trấn giáo Càn Khôn Đại Di Tâm Pháp. Ngưi đàn đưc giang hồ tôn xưng đệ nhất mỹ nhân đó đã nửa đưng vưng lụy, nhiệm vụ ln chưa thành thì đứa con gái là Tiểu Chiêu đã ra đời. như thế phạm tội chết đối với lut lệ nghiêm khc của Minh giáo Ba Tư. Đứa con gái xinh đẹp kia vừa lớn lên đã phi thay m nối tiếp nhiệm vụ thiêng liêng, để mong chuộc lỗi lm (?) cho mẹ; chỉ thế mới mong tìm đưc một con đưng quay về cố quốc. Nàng phải hóa trang gương mặt xấu vờ lạc giữa vùng hoang mc để cho vị Quang Minh Tả Sứ của Minh Giáo là DươngTiêu đem về làm ngưi hầu cho cha con ông. Ch thế nàng mới đặt chân vào đưc Quang Minh đnh -vùng thánh đa ca Minh Giáo - để âm thầm xét chỗ dấu cấp. Một gái xinh đẹp dòng dõi quyền quý mà phải đóng vai một con hầu để ngưi ta sai khiến mắng chửi nghĩ cũng não lòng lắm thay. Cơ duyên dun dủi cho nàng Trương K tìm đưc cấp Càn Khôn Đai Di viết trên mt tấm da dê, trong một đưng hm. Nàng phải dùng máu mình thm o tấm da cho chữ hiện ra dch bản tâm pháp đó sang tiếng Trung Quốc để giúp Kỵ, phối hợp với Cửu ơng thn công, luyn thành bản lĩnh đch. Ngưi con trai chân chất tâm về từ Băng hỏa đảo đó đã gieo trong lòng nàng bao ưc mơ thầm kín, sau những tháng ngày chỉ biết chu ti nhc trách nhiệm bổn phận. Mang tâm pháp về cố quốc Ba Tư để đưc tôn vinh là nữ thần gìn gi Lửa Thiêng, hay để tâm pháp lại nơi Trung Thổ? Xưa kia, m đã na đưng đứt gánh, thì giờ đây con cũng xin đứt gánh nửa đưng cho trn nghiệp ca chữ yêu. Ngưi con gái đã cúi đầu quy phục tiếng nói của trái tim, dĩ vãng lại bt đầu! Quê ơng Ba Tư đành xem như đã ngàn trùng sương khói. Thôi thì ta xin chọn quê hương đây, nơi ngưi mà ta yêu đang sống. Làm thê thiếp không đưc thì làm ngưi hầu cũng tốt, làm tôi t cũng xong, miễn sao đưc trọn đời gần gũi chàng để sửa túi nâng khăn. Cho nưc chảy tình, nhưng hoa rơi lại hữu ý, cho nên hoa cứ hân hoan đợi chờ đến ngày nưc cảm nhận đưc lòng hoa.

Thần tiên gãy cánh đêm xuân, bước lạc sa xuống trần, làm tình nhân đứng gia trời không khóc mộng không thành… Đưng về quê xa lắc thê trót nghe theo lời u mê” (Tình khúc thứ nhất-Nguyễn Đình Toàn). Đúng đưng về quê xa lắc thê, nhưng không lời nào khiến ta u mê cả, mà ta chỉ u mê bởi tiếng lòng đang say đắm thôi. Làm thần tiên mà chi nếu như ngưi yêu còn nơi hạ giới? Tấm lòng đó trong thiên hạ đưc bao ngưi, đã tô diểm thêm cho cõi đi biết bao là hương sắc?

Minh giáo Ba lại đi phái sứ gi tìm ngưi trinh nữ ngày xưa, gi đây đã T sam Long ơng, một trong Tứ đại hộ pháp của Minh giáo Trung Quốc. Ngưi con gái phải thay mẹ để chuộc li lỗi lầm (?) xưa với bản giáo, với quê hương chính đ giải cứu nhóm Trương Vô Kỵ đang bị đoàn tàu của sứ giả Ba Tư vây khốn giữa đại ơng. Nàng quyết tâm hy sinh mối tình đầu vừa chớm nở để theo đoàn sứ giả quay về quê làm thánh nữ của Bái hỏa giáo Ba Tư. Nếu đưc chết đ giải cứu chàng ư? Điu đó quá dễ hạnh phúc biết ngần nào. Ngưi sẽ ngưi yêu mà hân hoan chu chết, để mng đầu thành tựu trong kiếp lai sinh. Nếu như chút ích kỷ thì nàng sẽ ng Trương K chống cự quyết lit đến cùng đ đại ơng sẽ là nấm m cho tất cả. N vậy thành toàn tâm nguyện : đưc chết chung bên cạnh ngưi yêu. Nhưng không, tình chân chính đầu đời luôn khiến con ngưi ớng tng. sao Thùy Kiều lại sẵn sàng hy sinh trong khi Thúy Vân vẫn hồn nhiên đến mức ù cảm? Đt ra câu hỏi đã tự m đưc lời gii đáp. Cho nên nàng Iphigenia của Kim Dung đã quyết đnh hy sinh phải sống đ giải cứu bạn tình chung. Sống, nhưng còn thê lương hơn chết. Bưc lên ngôi thánh n c vào cõi đa ngục của thanh xuân. V lại chính q ơng nhưng lại mang nặng nỗi sầu viễn xứ! Quay về cố quốc lại chính cuộc ra đi biền bit trong đời. Biển sóng mênh mông chứng giám đưc tấm lòng kiều n?

Đi là đi mãi phải không em?

Ưc nguyện mai sau có vẹn tuyền?

c có ngân lời hoài vọng cũ?

Gởi về cây bóng lá sơ nguyên?

(Bùi Giáng)

Vâng, kể từ đây đi là đi mãi. Nàng không đưc hạnh phúc như A Châu gục chết trong tay ngưi yêu để hình nh trở thành bất tử. Kể t đây, nơi phưong trời Ba Tư xa xôi ấy, suốt đời nàng, lửa s bừng reo trong nghi lễ trang nghiêm, sẽ vạn ngàn tín đồ cúi đầu trưc nàng để tôn vinh vị nữ thần của Lửa. Thần Lửa cần đến trinh nữ để giữ gìn cho ngọn lửa đưc thanh khiết đến thiên thu. Lửa muôn kiếp bừng reo, Lửa ngàn đời bùng cháy. Nàng phải đốt cháy c tuổi xuân say đắm bên ngọn lửa thiêng, trong khi ch muốn làm một nữ t thấp hèn để đưc trọn đời sống một đời bình d. Ngọn lửa thiêng thanh khiết kia làm m nỗi hình ảnh ngm ngùi của buổi chia ly trên sông ớc? Nưc ngân lời hoài vọng cũ? Hỏi phương nào còn xanh mãi bóng sơ nguyên? Thôi thì xin gởi li ca vào trong mây c để âm còn đồng vọng ngàn đời trên ng gió trùng khơi. Gió sẽ mang li ca lên Quang Minh đnh để gởi về cây bóng nguyên”. Dẫu nơi đó không màu nguyên ca bóng lá, thì nơi đó màu xanh của thời gian đã ngưng kết trong tâm ng. ng như tiếng hát lời kinh siêu độ cho những ngưi phụ nữ chết trong sầu hận, cho nên trưc khi chết i ơm tàn nhẫn của Lâm Bình Chi, Nhạc Linh San vẫn hát bài Phúc Kiến sơn ca; trưc khi dưi đôi tay oan nghiệt của Othello, Desdemona của Shakespeare vẫn cất tiếng hát bài ca thùy liễu. Li ca thay cho tiếng lòng nên quá đỗi thiết tha:

The poor soul sat sighing by a sycamore tree,

Sing all a green willow;

Her hand on her bossom, her head on her knee.

Sing willow, willow, willow;

The fresh streams ran by her, and murmur’d her moans,

Sing willow, willow, willow;

Her salt tears fell from her and softn’ed the stones;

Sing willow, willow, willow

(Shakespeare, Othello, Act 4, Scene 3)

(Mảnh linh hồn đau khổ ngồi thở than bên gốc tiêu huyền. Liễu rủ ơi,liu rủ ơi, ngàn liu rủ xanh reo. Tay ôm ngực, nàng gc đầu trên gối. Liễu rủ ơi, liễu rủ ơi, liễu rủ xanh reo; Những dòng suối mát chảy bên cạnh nàng, thì thầm lời than vãn. Liễu rủ ơi, liễu rủ ơi, liễu rủ xanh reo; giòng nưc mắt mặn đắng kia đã làm mềm sỏi đá. Liễu rủ ơi, liễu rủ ơi, liễu rủ xanh reo)

Đó chẳng phải ni lòng Tiểu Chiêu đấy ư? Không liễu xanh reo lửa hồng reo rực cháy; không tử biệt nhưng phải sinh ly. Chia tay để vĩnh viễn đi vào cõi đơn giá but. Những giọt c mắt nàng rơi giữa đại ơng làm mm sỏi đá? thử hỏi cái nào mặn hơn : c đại dương hay nưc mắt Tiểu Chiêu?

THỂ ĐIỆU TRÔNG TRỜI

Trời rt cao, đất rất sâu. Trời che đất chở con ngưi. Đt gần gũi con ngưi kể, đất nuôi sống con ngưi m rộng vòng tay để đón nhận con ngưi cuối chu k sinh t trong “một cõi đi về”. Nhưng tâm con ngưi tng thích cái mình nghe hơn cái mình thấy, do đó con ngưi thưng coi trọng cái xa hơn cái gần. Cho nên sống trong đời, hễ ai điều oan ức, khổ đau, bế tắc đều nc nhìn tri cao để tra hỏi hoặc để thở than. Như đứa con lạc lõng muốn tìm đến với vòng tay của m cha để m một nơi ơng tựa. Nhưng trời cao, hay đúng n bầu trời, thì thay đổi luôn luôn, khi thì mênh mông mây trắng, khi thì cuồn cuộn mây đen, lúc thì trong xanh bát ngát. Cho nên nhìn tri cũng nhiều thể cách. Đối với ngưi xưa, hoặc với những ngưi nay chưa mất đi cái tâm hồn trẻ t của xích tử chi m”, thì cái thế giới ẩn khuất sau ngàn mây mênh mông đó vẫn luôn cái thế giới ảo huyn rất mực. Đó nơi ca thần tiên tụ hội, của vĩnh phúc rưi chan, là chn của sấm sét ra oai, của mưa cuồng gió dữ.

Ni xưa nhìn tri để nghiệm ra lẽ biến hóa của vũ trụ. Sáu mươi tư quẻ của kinh Dch ra đời từ đó. Trời là nguyên lý Dương, rât cương mãnh, biến hóa theo con rng huyền ảo của phương Đông. Đó cũng là nguyên lý của Hàng Long Thập Bát Chưng.

“Trông trời, trông đt trông mây, trông mưa trông gió trông ngày trong đêm, trông cho chân cứng đá mm, trời êm biển lặng mới yên tm lòng”. Đó cách trông tri với tâm trạng n khoăn lo lng của ngưi nông dân khi sản xuất. Đt nuôi ng con ngưi thật đấy, nhưng còn tùy trời, tùy những cơn hỷ nộ không thể lưng trưc của trời. Nên phải nhìn trời để …. tùy trời!

Đức Phật Thích Ca ngồi thiền đnh i gốc bồ đề, ngưc nhìn trời, thấy sao mai hoát nhiên đi ngộ, thành tựu thần thông du hý, vưt qua cõi sinh t luân hồi, m đầu cho 49 năm thuyết pháp hóa độ chúng sinh. Đó là cách nhìn trời của bc Toàn Giác.

Đức Chúa Jésus Christ, khi bị đóng đinh lên cây thập giá, đã ngưc lên trời mà kêu Chúa ơi, sao Ngài lại bỏ con? (Mon Dieu, mon Dieu, pourquoi tu m’abandonné?). Chính cái ngước nhìn li kêu ấy si dây thần thánh nối kết Thiên Đưng với trần thế, để con ngưi tin vào ngày Phán Xét Cuối Cùng. Đó là nhìn trời của một đấng Cứu Thế muốn cứu chuộc trn gian.

Đức Khổng Tử nhìn tri để thấu đạt lẽ biến hóa của trụ, rồi li ỡm với đệ tử Thiên ngôn tai! Thiên ngôn tai! (Trời nói đâu! Trời nói đâu!). Thực ra ý ngài muốn nói : Tri nói nhiều đấy, nhưng đâu đôi tai để nghe ra?”. Từ đó, ngài bt đầu cuộc chu du khắp đất Trung Hoa. Đó là cuộc chu du k bí nht trong lịch sử tư tưng Trung Quốc, phát xuất từ cách nhìn trời của bc thưng trí vô sư tự ngộ.

Khuất Nguyên nhìn trời để hỏi cho ra những điu ẩn của tự nhiên, bng bài thơ Thiên vấn (Hỏi trời). Đó là cách nhìn trời của mộtm hồn đăm chiêu tư niệm.

Nhà thơ Nguyễn Du lúc tuổi chưa tới ba mươi mà đầu đã bạc trắng, nhiều phen ngửa mt nhìn tri than thở : Tráng bạch đầu bi ng thiên, hùng tâm sinh kế ng mang nhiên”. (Tráng bạc đầu buồn nhìn trời, hùng tâm cuộc sống cả hai đều m mt). Cổ kim hận sự thiên nan vấn, phong vận kỳ oan ngã t (Những nỗi hận xưa nay khó lòng hi trời, những mối oan khiên k l do nết phong nhã gây ra, ta tự mang cả vào mình - Độc Tiểu thanh ký). Đó là cách nhìn trời của một Nghệ Bồ Tát đem khi Bi Tâm lch hành hết cõi dâu bể tang thương, để ngậm ngùi với Hồi thiên uổng bảo phục m (Hoài công ôm tấc lòng trung mun khôi phục triều Lê), đúng như lời vnh của ông Trương Cam Vũ.

Nng Tng, khi dch Nam Hoa kinh của Trang Tử, bảo : “Tôi sinh ra con nhà nghèo, mắt vẫn thưng nhìn xuống đất…Nhưng nhìn xuống như thế mãi, nhiều lúc chợt thy mỏi cổ cho nên bt chợt ng đòi phen nga mặt trông trời….Trông trời thì tri rộng cùng mà xa ng cùng.. cảm thấy tấm thân mình cùng nhỏ bé, cùng tạm bợ Chừng ấy, tôi phi mưn sách vở để làm khuây”59. Nhìn trời đ thấy hết đưc cái bao của trụ, rồi nương vào Nam Hoa kinh để đi vào tận ngọn nguồn của tâm linh khám phá cho ra cái ẩn của cùng. Đó là cách nhìn trời của một tâm hồn thông tuệ.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử nhìn trời đ kêu gào : Trời hi bao gi tôi chết đi, bao gi tôi hết đưc yêu vì? Bao gi mặt nhật tan thành máu, và khối lòng tôi cứng tợ si? . Đó cách trông trời của ngưi đã sống tận cùng trong ni khổ đau và cô độc

Thi trung niên Bùi Giáng thì rỡn khi đặt trời trng ngồi bên cạnh ông trời xanh”. Sau những cuộc đối thoi tht vọng lẫn ngậm ngùi trong cõi thi ca ng, ông đã mở ra cuộc rong chơi thù thắng bất tn trong ngôn ngữ với tác phẩm Ngày Tháng Ngao Du và không chu ngó trời, nhưng đến Ngày Thứ Hai ơi Lăm trong tác phm thì lại muốn Tôi sẽ ra đi bỏ lại đi. Mỹ Tho Mỹ Thọ Sóc Trăng ơi, Mỹ Thỏ muôn đời Sóc Trắng, Gái mặc quần ra đứng ngó trời 60! Đ i mặc quần ra đứng ngó trời”, đó cách nhìn trời cắc cớ ca một tâm hồn tài hoa thưng đạt, muốn xỏa lộng ngữ ngôn.

Trong tác phẩm của Kim Dung, Tạ Tốn người nhìn tri nhiều nhất, khi cùng vợ chồng Thúy Sơn - Tố Tố lênh đênh trên biển cả; nhưng không phải để trầm mà để nguyền rủa, chửi bới không chu chìu theo ý mình. Cái lão tc thiên đó đã bao phen bị Tạ Tốn vùi xuống tn đất đen, giá như ông ta gần trong cõi ngưi ta thì ắt hẵn đã bị Kim Mao Sư ơng dùng cây đao Đ Long phân thây thành muôn đon. Đó cách nhìn trời đ trút hết cơn thnh nộ giữa cảnh ba đào, của con hùng chọc trời khuấy c. Trời Đt đã cùng nhau dậy cơn thnh nộ thì ta ng nổi trận cung điên để hòa theo tiết điệu Tam Tài : Thiên Địa Nhân!

Quách Tnh nhìn chòm sao Bắc Đu mà lĩnh hội thêm yếu quyết về võ học. nhân vật của Kim Dung không thể không nhìn trời, nhưng lại cách nhìn cắc cớ, đó Âu Dương Phong phải lộn ngưc đầu để đi, kết quả của việc luyện công sai lầm dẫn tới tẩu hỏa nhập ma.

Khi nhóm Nhm Ngã Hành, Nhậm Doanh Doanh ng Vấn Thiên bị vây trên chùa Thiếu m, thì trận đấu thứ ba giữa Lệnh Hồ Xung Xung trận quyết định để cả bn ngưi đưc tự do xuống núi. V đạo trưng chưng môn phái Đang phải đăm chiêu nhìn trời rất lâu để tìm cách phá giải kiếm thuật của Lệnh Hồ Xung, cuối ng lắc đầu chu thua. Ông tri cũng đành bất lực trưc tuyệt chiêu của Độc cửu kiếm! Chính điều đó đã khiến Nhm Ngã Hành tăng thêm nửa phần bội phục đối với vị cng môn kiếm thuật trùm đời, đưa ông vào cùng danh sách với Phương Chứng đại sư, Phong Thanh Dương và Đông Phương Bất Bại.

vàn th cách nhìn trời, nhưng ngưi lại ương ng không chịu nhìn trời, ngay lúc sinh t cận kề, cái tên nghĩa ngưc hỏi tri : đó ng Vấn Thiên, vị Tả sứ của Nhật Nguyệt Thần Giáo. Cũng đúng thôi, bit hiệu của ông ta đã Thiên Vương Lão Tử, cũng giống như Tề Thiên, ng tri ngang cấp thì c phải nhìn trời? Hình ảnh của vị Tả sứ mặc áo bào trắng với đôi tay bị trói vẫn trầm tĩnh uống u tại ơng đình giữa vòng vây của hai phe Hắc Bạch đã dự báo đưc tính tình cao ngạo cổ quái tâm siêu tuyệt của ông ta. Khác vi Quang Minh t sứ ơng Tiêu quý phái hơi màu mè, khi nhận ra con gái Dương Bất Hối, đã ngữa mặt lên tri vang động cả rừng thu, khiến vàng ào ào rơi rụng, vị ng hữu sứ hành sử đúng theo thể điệu thô hào của giới giang h : buồn buồn thể xơi tái một k đch để gii quyết cái bng đói, ngang nhiên uống u cùng Lệnh Hồ Xung trưc khi m trận đấu sinh tử!

Ấy là cái ngang bưng của kẻ không chu “ng vấn thiên”!

Mỗi ngưi nhìn tri một kiểu theo từng thân phn từng tâm trạng. Còn chúng ta, bao giờ chúng ta “ng vấn thiên”? Và chúng ta có tìm đưc gì nơi bầu trời xanh lơ tm thẳm?

HUYỀN NGHĨA DANH TĂNG

Trong đời, lẽ không đáng ghê ngưi bằng hình ảnh ngọ nguậy của con sâu, và không đẹp bằng hình ảnh phất phới bay ca con m màu sặc sỡ. Nhưng hai con chỉ mt từ trong bản chất. Đó điều huyền mật nhất giữa trần gian. Sinh tử hoà nhập với Niết bàn, tội li trộn lẫn vi thanh cao, giác ng ẩn tàng trong minh, bóng tối chan hòa cùng ánh sáng, tất cả đều chỉ là một. Chỉ các bậc chân nhân, như vị danh tăng trong Thiên long bát bộ, mới nhận ra và âm thầm thể hiện đưc huyền nghĩa đó giữa cuộc sống bình nhật đi tng.

Nếu tác phm Kim Dung luôn đưa ngưi đọc đến chỗ bất ngờ, xem đó một yếu tố hấp dẫn trong truyện, thì l sự xuất hiện lng lẽ ca vị tăng danh trong Tàng Kinh Các là điều bất ng nhất trong tất c mọi sự bất ngờ. Một vị tăng già không tên tuổi, sut tháng quanh năm chỉ làm một công việc bình dị tm tng quét dọn Tàng Kinh Các, lại hiện thân n mt vị Bồ Tát giữa trần gian, hoá giải ân cừu giữa hai nhân vật kiêu hùng tuyệt đnh của lâm : Mộ Dung Bác Tiêu Viễn Sơn. Một kẻ lén nhập vào Tàng Kinh Các xem trm kiếp công, khổ luyện để mong khôi phc li c Đi Yên. Một kẻ ẩn náu trong Thiếu Lâm tự học trm thuật để mong chuyện báo thù. Trong Tàng Kinh Các ng chng như lặng lẽ kia đã ẩn tàng biết bao nhiêu sóng gió. Những cuốn kinh Phật từ bi đy những điu siêu huyền uẩn áo bng nhiên biến thành phương tiện cho tham vọng cừu hận. ng như chính cõi đời này đưc sai sử bi hai động cơ trên, nên mới cứ mãi chảy trôi theo một quĩ đạo vô cùng điên đảo.

Ai đã từng đọc Thiên Long Bát B của Kim Dung ắt hẵn không thể quên đưc hình ảnh vị tăng danh đó trong Tàng Kinh Các. Chỉ xuất hiện một lần duy nhất, như gái áo vàng ở Chung Nam Sơn ( Thiên Đ Long ) - nhưng để li một ấn ng không th phai nhoà : điều hoà ân oán thị phi, cứu vãn tình thế đã đi đến chỗ bất khả vãn hồi, đem Phật pháp thâm diệu cảnh tnh cho nhng tâm hồn cuồng điên trong hận cừu và tham vọng.

Kim Dung đã xây dựng nên nhiều nhân vật xuất hiện rất nh thưng, mỗi ngưi mi vẽ, nhưng lại rt bất ngờ về thân phận. Đó một Mạc Đi tiên sinh, i dạng một ông lão quê mùa, ngồi đàn ca nhận tin bố thí trong quán c. Đó một Xung Hư đạo trưng trong y phc luộm thum rách rưi của một ông lão i lừa i chân núi Đang. Đó một Phong Thanh Dương nhợt nhạt như ngưi bệnh, bất ngờ hiện ra sau câu nói của Điền Quang, trên đnh Hoa sơn. Nhưng đối vi các nhân vật đó, thì ít ra Kim Dung cũng chuẩn b một bối cảnh lót đưng, để ngưi đọc đoán ra phần nào thân phận của họ. Đưng kiếm tinh ảo của ông lão nhà quê trong quán c chém đứt miệng bảy chén trà đã để lại tấm "danh thiếp" của v chưng môn phái Hành sơn, sau khi ông bỏ ra đi. Tiếng thở dài khinh b kiếm pháp Hoa sơn, khi nhìn Lệnh Hồ Xung giao đấu với Đin Quang, đã giúp ngưi đọc khẳng đnh đưc ngay ông lão trông nht nhạt như cái thây ma trên đnh Hoa sơn đó, chính Phong Thanh Dương - một cao nhân tuyệt đnh về kíếm thuật. Đối với Xung thì Kim Dung chuẩn bị kỹ càng hơn. Trưc khi cùng Xung Hư so kiếm i chân núi Đang, Kim Dung đã bố trí cho Lệnh Hồ Xung tỉ thí với hai cao thủ của đang trong vai hai đại hán gánh củi gánh rau. Nhưng đó mới chỉ đoạn nhạc dạo, một khúc "khai tấu" cho bản "giao ng" tiếp theo với ông lão rách rưi bệnh hoạn i lừa. Chỉ với một thế kiếm m đầu trận tỉ thí, ông lão kia đã khiến Lệnh Hồ Xung phải kinh hãi, ri ông ta tiếp tục vây khốn Lệnh Hồ Xung trong làn kiếm quang dày đặc của Thái cực kiếm pháp, và gã tửu đồ lãng tử kia chỉ có thể chiến thắng nỗi trong một chiêu tối hậu bằng trí thông minh, bằng lòng quả cảm bằng tấm chân tình đối với Doanh Doanh! Tiếp theo đó, trong câu chuyện đàm đạo, ông lão li ngầm đặt mình ngang với Phương Chứng đại cao hơn cả Nhạc Bất Quần thì ngưi đọc - dầu chưa rõ đó là ai - nhưng cũng đoán đưc phần nào danh phận cực cao của nhân vật.

Tất cả những nhân vật tuyệt đnh đó đều xuất hiện một cách bình dị tầm tng, nhưng ta thấy giữa họ với đời vẫn một cái ngăn cách. Dầu dấn thân vào chốn phong trần, hoà đồng trong cõi tc, nhưng tâm s u hoài của Mạc đại tiên sinh trong cùng đàn Tiêu tương dạ vẫn ngậm ngùi xa lánh trần gian. Bức huyền nhai nơi thạch động của Phong Thanh Dương, như mt đưng kiếm cắt đôi cõi đời với cõi thanh tu ẩn tch. ngăn cản cả c chân của Lệnh Hồ Xung, y ngưi đưc vị Thái sư thúc tổ kia yêu mến coi như là bạn vong niên. Một giới tuyến tuy thơ mộng nng rạch ròi đến mức lạnh lùng. Núi đang tuy gần gũi vi bình nguyên của cõi trần tục đấy, nhưng vẫn một tháp ngà của những đạo phẩm hạnh cao siêu đi tìm cõi vi thanh tĩnh. sự xuất hiện của họ bình dị đến độ nào đi nữa, thì chung quanh thân phận họ vẫn đưc bao phủ bởi lớp sương mù của huyền thoi và lòng kính ngưng của võ lâm.

Chỉ vị tăng danh trong Tàng kinh các kia mới bình dị làm sao, không m ĩ, không huyền thoại, không tên tuổi, như tất cả những thực sự đại trên cõi đời này. Gìa yếu hom hem, đôi mắt như mất hẵn thần quang, quanh năm quét rác, lặng lẽ danh đến mức mọi người trong chùa không ai để ý ngay đến cả sự tồn ti của ông. Đó mới chính cực đim trong sự tu học theo truyền thống phương Đông. Nhưng những lời thuyết pháp mộc mạc công k diu của ông đã làm chấn đng cả đương trưng. Mộ Dung Bác Tiêu Viễn Sơn phải tạm chết đi i chưng lực của vị vô danh tăng đó, để rồi sau đó họ mới thể trùng sinh trong giác ngộ. Trí thông minh hơn ngưi của họ đã bị tham vọng lòng thù hận dẫn đi lc nẻo. Họ chỉ chăm chăm lén lút rèn luyện công trong bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm tự đ mong nhanh chóng đạt đưc bản lĩnh hơn đi, mà không biết đến các nguy hiểm chí mạng đang rình rập họ. Họ u mê không nhận ra đưc Phật pháp biên dùng để hoá giải him nguy, ẩn tàng trong các cuốn ngữ lục thâm huyền của các bậc tôn túc cùng cuốn Pháp hoa kinh uẩn áo, vị danh tăng kia đã âm thm bỏ công hoá độ. Cùng với cách chết tạm của họ là cái chết thực, cái chết vĩnh viễn ca tham vọng hận thù. Đứng trưc cái chết, mọi sự đều trở nên phù phiếm bọt bèo. Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn đều hoát nhiên đi ngộ mà qui y cửa Phật, vì nhận ra huyền nghĩa của Phật môn qua vị tăng không tên tuổi, điều mà một kẻ đại trí đại dũng như Đi luân minh ơng Cưu Ma trí chỉ nhận ra đưc, khi bị mất hết công. V tăng danh kia đã đem Phật pháp biên để hoá giải tham vọng hận cừu. Đp biết bao hình ảnh những đại đức cao tăng uyên bác của chùa Thiếu m, vốn chỉ quen thuộc với hình ảnh những pháp sư đa văn quãng kiến đăng đàn ging kinh, li kính cẩn ngi nghe v già quét rác kia thuyết pháp dưi tàng cây. Một lão tăng ốm yếu gầy không danh phận lại bỗng nhiên th hiện như một nhân vật quảng đại thần thông. Con sâu đột nhiên hoá thân thành con bưm, vì con bưm đang tàng n trong chính con sâu!

Trong Thiền tông mt giai thoại rất thú. Ba thiền trên đưng hành c, ghé vào một qúan c nhỏ bên đưng. lão bán c nói : "Trong các vị đây, ai thần thông thì mi đưc uống c". Cả ba thiền đều im lặng nhìn nhau. lão bèn nói: "Hãy xem già biểu diễn thần thông đây". Nói xong, lão bưng bình trà rót vào từng chén trà! Đó mới chính thần thông của những tâm hồn giác ngộ. Vị vô danh tăng kia cũng chính là bà lão bán nưc.

Thiền tông chia công việc điều phc cái tâm thành mưi giai đoạn, qua hình ảnh k chăn trâu- Thập mục ngưu đồ. Giai đoạn thứ 9 "quay về nguồn cội" (Phản bổn hoàn nguyên), giai đoạn đạt ngộ, nhưng đó không phải giai đan cuối cùng, mà ch để chuẩn bị c sang giai đoạn cuối cùng "thỏng tay vào chợ" (nhập triền thùy th). Điều k diệu ca kinh Dch không chấm dứt bằng quẻ "Ký tế " (việc đã xong) mà bằng quẻ Vị tế (sự chưa thành). Bậc chân nhân giác ng sống âm thầm lẫn lộn với cõi đi trong phố th để thị hiện thần thông, trong những cái rất đỗi tm thưng. V vô danh tăng kia cũng chính là ngưi đã "thỏng tay vào ch".

Con ngưi không bao giờ đủ khôn ngoan thông tu để hiểu đưc rng cái phép lạ, mà họ đang mong đợi đó, đang ngập tràn trong cuộc sống bình dị của áo m. Nhà t Mỹ Walt Whitman (1819-1892) viết một bài thơ diễn tả những điều mắt thấy tai nghe quanh đời, đặt nhan đề "Miracles" (Những phép lạ). Đó ng tâm hồn của một vị B tát phương Tây, đang sống trong cảnh giới "Bình thưng tâm thị đạo" (Tâm bình thưng đo) của Thin tông. Bàng Uẩn - một cư Thiền tông - hai câu thơ lừng danh "Thần thông kiêm diệu dụng, vận thuỷ cp ban sài" (Gánh nưc là diệu dụng, chẻ củi là thần thông!).

Tín đồ Phật giáo thưng mê muội đi tìm phép lạ mà không nhớ rằng đức Phật đã từng ngăn cấm không cho các môn đồ lấy việc tu tập thần thông làm cứu cánh, ngài cho rằng thn thông tự chỉ "sản phẩm phụ" của việc tu học theo chính đạo. ơng truyền đức Phật đi trên bờ sông Hằng, gặp một đạo đang tu khổ hạnh đó. Ông này tự hào khoe rằng sau hai mươi năm khổ luyện, giờ đây ông ta th t qua sông Hằng bàng đôi chân trần. Đức Phật mĩm i, bảo "Này anh bn, tại sao anh phải mất đến hai ơi năm để làm đưc một điều tôi cũng thể làm đưc với 5 xu tiền đò?". Trong kinh Tân ước, khi Chúa Jesus đi trên mặt ớc, hay nạt sóng biển, quở quỉ dữ thì điều đó, theo tôi, chẳng phép lạ, mà phép l thực sự đã xảy ra khi Chúa Jesus từ chối không chu hiển thị phép l theo li thách thức của quỉ biến đá thành bánh mì, và nhảy từ trên núi cao xuống.

Đnh cao ng Kim Dung trong Thiên long bát bộ nằm hình ảnh vị danh tăng đó. Hình ảnh đó nói lên được nhiều điều huyền ẩn trong cõi đạo Đông phương, mà tư ng của triết học trưng trại không bao giờ với tới đưc.Thật kỳ diệu biết mấy, khi ngưi duy nhất đứng ra giảng hoà đưc mọi tham vọng hận thù, hiện thân như một Bồ Tát giữa đời để cứu vãn đưc bao điều oan nghiệt trên chốn giang hồ lại một vị tăng quét rác tầm thường, tầm tng đến nỗi không có đưc một cái tên!


LAI RAI CHÉN RƯỢU GIANG HỒ-HUỲNH NGỌC CHIẾN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét