PHỤ LỤC
KIẾM ĐẠO
Ðể tưởng nhớ Thiền sư Thanh Nguyên Duy Tín
Hoàng là người đất Canh Tang, làng Vô Hà Hữu. Từ thuở nhỏ đã nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ, lại có tài xuất khẩu thành thi. Gia tộc Hoàng vốn nổi tiếng về kiếm thuật. Tương truyền tổ tiên Hoàng có duyên gặp một bậc dị nhân truyền cho pho kiếm phổ thời thượng cổ. Từ đó đời đời nối tiếp nhau luyện kiếm. Ông tổ của Hoàng đã từng có lần một mình đơn kiếm ra khơi, vào tận sào huyệt của hải tặc để trả thù cho một người bạn, uy danh chấn động cả thiên hạ. Kiếm thuật đến đời Hoàng là tập đại thành. Nhiều tay kiếm khắp nơi hâm mộ danh Hoàng, tìm đến so tài nhưng tất cả đều bại dưới tay Hoàng. Nhờ tính Hoàng khoáng đạt, so kiếm chỉ để tìm chỗ tận diệu của kiếm thuật nên những kẻ bại trận không đem lòng thù hận.
Gia cảnh Hoàng rất thanh bần. Hoàng sống với một lão bộc trung thành trên sườn đồi, suốt ngày chỉ đam mê luyện kiếm, đến nỗi thiên hạ tặng cho danh hiệu là Kiếm Cuồng. Hoàng giỏi kiếm lẫn thơ nên rất hâm mộ cao phong của Lý Bạch. Hoàng sáng tác bài Hoài Trích tiên ngâm để nói lên tấm lòng hoài mộ của mình. Bài đó được truyền tụng khắp nơi, các danh sĩ đều cho là thần bút. Bạn bè có người nói:
- Tài hoa như ông, văn cũng như võ, nếu đi thi thì nắm chắc cái chức Trạng nguyên. Sao ông không thử xuôi kinh ứng thí một lần?
Hoàng cười đáp:
- Chúng ta sinh ra ở thời thiên hạ thái bình, lại có đấng minh quân trị đời. Thử hỏi có Hoàng thì thiên hạ thêm được gì, mà không có Hoàng thì thiên hạ mất điều gì? Vả lại tính tôi không ưa ràng buộc, chỉ muốn nghiên cứu tìm hiểu chỗ tận diệu của kiếm đạo thì có chết cũng cảm thấy không uổng phí bình sinh.
Một hôm, trời đổ tuyết lạnh buốt, Hoàng đang luyện kiếm đến chỗ cao hứng, kiếm quang vùng vẫy như con bạch long giữa trời, bỗng nhiên nghe có tiếng thở dài:
- Hỡi ơi! Thật đáng tiếc! Thật đáng tiếc!
Hoàng giật mình, dừng kiếm, nhìn ra cổng thấy một ông lão đội nón tơi, dáng dấp thanh kì đang đứng dưới trời tuyết nhìn mình. Hoàng vội vã mời vào nhà, hối lão bộc bày rượu. Sau khi phân ngôi chủ khách, Hoàng kính cẩn hỏi họ tên, ông lão chỉ mĩm cười không nói. Hoàng, hai tay nâng kiếm, thưa :
- Vãn sinh mê kiếm hơn cả sinh mạng, có điều tư chất ngu muội nên chỉ đáng làm trò cười cho bậc cao minh, hôm nay dun dủi có tiền bối ghé thăm, rất mong được chỉ giáo. Ông lão cười rộ đáp:
- Họ Hoàng đất Canh Tang nổi tiếng thi kiếm vô địch, thiên hạ ai lại chẳng biết, hà tất phải nói những lời khách sáo? Già này nào có biết gì về kiếm, chỉ vô tình buộc miệng nói càn mấy câu, bỗng nhiên lại mang hệ lụy vào thân.
Hoàng cứ khẩn khỏan mãi. Ông lão uống cạn chung rượu, xong nói :
-Nể lời công tử, già này đành liều phô cái dở của mình ra
Ông lão bèn đở thanh kiếm, ngưng thần trong thời gian khỏang uống cạn nửa tuần trà rồi đột nhiên vung tay một cái. Chỉ thấy kiếm quang lấp loáng trên bàn rồi tắt. Trong thâm tâm Hoàng mong đợi một điều kì diệu xảy ra, nên thấy chỉ có thế thì hơi thất vọng nhưng không dám nói ra. Ông lão đặt thanh kiếm xuống bàn, rồi ngâm :
Mỏi gót lê chân khắp đất trời
Mắt xanh dõi hết mấy trùng khơi
Nơi nơi chỉ thấy người múa kiếm
Nào biết tìm đâu kiếm múa người?
Ngâm ông xong chắp tay từ tạ, nài nĩ thế nào cũng không được. Tiễn khách xong, Hoàng vào nhà định uống rượu tiếp để luyện kiếm, tay vừa chạm vào chén rượu thì bỗng giật mình, toát cả mồ hôi. Đường kiếm tinh ảo của ông lão đã lưu lại rrên mặt bàn bốn chữ : “Hậu hội hữu kỳ”, nét như rồng bay phụng múa70! Hoàng kinh hãi chạy theo thì chỉ thấy tuyết bay mù mịt, không thấy bóng dáng ông lão đâu. Ngẫm lại bài thơ, Hoàng mới biết đó là lời chỉ giáo, bao nhiêu tráng chí hùng tâm bỗng nhiên tan biến.
Từ đó, Hoàng đóng cửa tạ khách, ngày đêm nghiền ngẫm kiếm phổ. Ba năm sau kiếm thuật tăng tiến rất nhiều nhưng Hoàng tự biết chưa đạt đến chỗ tận diệu, nên quyết tâm đi tìm ông lão ngày xưa để mong được chỉ giáo.
Trải qua năm năm trời lang bạt kì hồ, đi mòn không biết bao nhiêu đôi giày cỏ, khắp nơi từ kinh thành phố thị đến hoang mạc, non cao đều có dấu chân Hoàng nhưng ông lão vẫn biệt tích. Một hôm Hoàng đến một vùng sơn cước thì trời đã ngã bóng. Phong cảnh nơi đây vô cùng thanh tao, tiêu sái. Ði men theo con suối một lúc thì thấy thấp thoáng có một ngôi nhà trúc.
Hoàng vội đến xin trú tạm qua đêm. Vừa đến nơi, chưa kịp gõ cửa sài, đã thấy một ông lão ra đón miệng cười hỏi:
-Chẳng phải họ Hoàng đất Canh Tang đấy ư?
Nhìn lại thấy đúng là ông lão ngày trước, Hoàng mừng khấp khởi, toan quì lạy ra mắt, nhưng ông lão đã cản và mời vào nhà. Vật dụng bên trong nhà toàn bằng trúc, bày biện cực kì u nhã. Trên án thư thấy để vài cuốn sách. Trên bức vách trúc treo một cây hồ cầm. Hoàng thấy lòng lâng lâng như lạc vào cõi khác.
Ông lão chỉ lưu Hoàng ở lại chứ tuyệt nhiên không thấy nói gì về kiếm. Sáng hôm sau, Hoàng bèn đem kiếm phổ trình lên nhờ ông lão giải đáp những điều chưa hiểu. Ông lão cầm kiếm phổ, lướt nhìn qua rồi bỗng nhiên xé vụn và ném tung ra ngoài cửa trúc như một đàn bướm. Hoàng nhìn theo các mảnh giấy bay, tâm thần hỏang hốt, la lên:
- Tiền bối không biết kiếm phổ đó là di vật cực quí thời thượng cổ ư? Kiếm thuật nhà vãn bối cũng đều nhờ vào đó mà dương danh thiên hạ. Sao tiền bối lại hủy đi?
Ông lão cuời rộ, bảo:
- Ngươi đọc sách nhiều mà sao lại chậm hiểu thế. Trước đây ta cho ngươi là kẻ thông tuệ, muốn tìm cầu chỗ ảo diệu của kiếm đạo, đâu hay cũng chỉ là phường bị thịt, trích cú tầm chương. Trên đời này có hàng ngàn kiếm phổ, chả lẽ nhà người cũng ráng tìm đọc cho hết ư? Dẫu ngươi có thọ vạn tuổi cũng không làm được điều đó. Giả sử không có một kiếm phổ nào thì kiếm thuật trên đời này tự tiêu vong đi chăng? Ta hỏi ngươi cái diệu lí của kiếm thuật há có liên quan gì đến ngữ ngôn văn tự? Hoàng như người chiêm bao sực tỉnh, mình tóat mồ hôi đầm đìa, quì xuống, thưa :
- Ðệ tử ngu muội, kính nhờ tiền bối chỉ điểm.
Ông lão từ tốn bảo :
- Nhà ngươi vốn thông tuệ nhưng chỉ mới đăng đường chứ chưa nhập thất. Ngươi đọc Nam Hoa kinh, mà sao không nhớ đến chuyện Trang Tử hóa bướm? Trang Tử nằm mơ thấy mình hóa thành bướm. Tỉnh dậy không biết bướm hóa ra mình hay mình hóa ra bướm? Ngươi chỉ lo tập múa kiếm mà sao không một lần thử để cho kiếm “múa” nhà ngươi?
Hoàng hốt nhiên tỉnh ngộ, xin ở lại hầu hạ. Suốt ngày ngồi tĩnh tọa, quán tưởng về kiếm. Một đêm trăng, Hoàng đang luyện kiếm, bất giác đi vào cảnh giới vô ngã, nghe lâng lâng như siêu thóat, kiếm chiêu cứ tùy tâm niệm mà thu phát, như nưóc chảy mây bay, không có chút gì ngăn ngại. Hoàng cao hứng hát :
Nhấp nhô con sóng
Lấp lánh hạt sương
Kiếm ta làm cơn gió
Bỗng hóa thành ánh trăng
Ta nương theo ánh sáng
Vút bay theo cánh bằng
Bao năm học kiếm mà đâu hiểu
Ta là kiếm hay kiếm là ta
Hôm nay chợt tỉnh giấc
Phiêu diêu cõi bao la
Ðược một năm, ông lão gọi Hoàng lại bảo :
- Ngươi luyện kiếm đến đâu rồi?
Hoàng thưa :
- Khi đệ tử luyện kiếm quên hẳn thân mình, không còn biết kiếm múa đệ tử hay đệ tử múa kiếm nữa.
Ông lão bảo :
- Cái không biết ấy cũng còn là biết đấy. Kiếm thân hợp nhất mới chỉ là ngã rẽ tạm thời, chưa đạt đến chỗ tận diệu của kiếm đạo. Ngươi hãy trở lại trạng thái tâm khi ngươi mới đến đây mới là hay.
Hoàng cung kính lui ra, không luyện kiếm nữa mà chỉ lo các công việc vặt vãnh hằng ngày. Ngày ngày ra suối gánh nước, đốn củi, nấu cơm.
Ðựơc một năm, ông lão bỗng bỏ đi đâu mất, để lại cho Hoàng một bài thơ từ biệt, đại khái như sau :
Khi mới luyện kiếm, thấy kiếm là kiếm, thấy ta là ta
Khi được bậc cao minh chỉ điểm cho đường vào, thấy kiếm chính là ta và ta chính là kiếm
Khi đạt được chỗ diệu lí của kiếm đạo, lại thấy kiếm chính là kiếm và ta chính là ta
Thời gian sau, người ta thấy Hoàng gánh củi vô chợ bán, được tiền thì uống rượu, say rồi lại ngâm thơ chứ không nghe bàn gì đến kiếm nữa.
CÙNG BÙI GIÁNG ĐỌC TRUYỆN VÕ HIỆP
Tặng Bùi Giáng và Đỗ Long Vân
Nhan đề bài viết có thể khiến bạn đọc ngạc nhiên, vì nói đến Bùi Giáng, người ta thường nghĩ đến các trước tác đồ sộ của ông về thơ ca và triết học. Ông nổi tiếng ở nhiều lĩnh vực, nhưng lại không có một tác phẩm hoặc một bài viết hoàn chỉnh nào về Kim Dung hoặc các tác giả võ hiệp nào cả. Song có lẽ ít ai biết vị “Hồng Thất Công trong thi ca tư tưởng” này lại rất mực mê sách kiếm hiệp (mà ông thường gọi là vũ hiệp), và đã để lại cho đời những tản văn bình phẩm tuyệt vời.
Những nhận định của Bùi Giáng về Kim Dung, về Ngọa Long Sinh … thường rất ngắn, chỉ khoảng nửa trang, thậm chí chỉ vài dòng, và nằm rải rác, tản mạn đâu đó ở những phần phụ lục của các cuốn sách biên khảo của ông về thi ca và tư tưởng. Nhưng chính các nhận định ngẫu hứng đó đã âm thầm giúp cho người đọc nhận ra một thông đạo từ sách võ hiệp tìm về cõi đạo đông phương và những cội nguồn tư tưởng khác. Các bậc chân nhân phương đông thường không nói nhiều về những điều tâm đắc, giống như thể cách Hồng Thất Công truyền thụ võ công. Khi ngẫu hứng thì truyền chơi một vài chiêu của Hàng long thập bát chưởng, nhưng chỉ vài chiêu đó cũng đủ để người nhận tung hoành thiên hạ, hơn là một đống tạp nham của đám Giang Nam thất quái. Các bậc chân nhân chỉ đơn giản nói dăm ba câu theo thể điệu “cử nhất phản tam” của Khổng Tử (vật có bốn góc thì chỉ nêu ra một góc để người học tự suy ra ba góc còn lại). Và dăm ba câu đó có khi trở thành nền tảng cho các học thuyết của hậu duệ đời sau. Một vài câu rơi rớt của Cửu dương chân kinh từ miệng Giác Viễn đại sư trước giờ viên tịch cũng đủ để Trương Tam Phong và Quách Tường đưa Võ Đương cùng Nga Mi lên đến đỉnh cao võ học. Mạnh Tử, Vương Dương Minh... có viết hàng vạn lời cũng chỉ nhằm để khoáng diễn thêm một vài câu nói cực kì đơn sơ của Khổng Tử!
Khi nghiên cứu sách triết học hoặc sách võ hiệp, thì những cách “tổng hợp” theo kiểu xã hội học hoặc thư tịch học... không thể giúp ta đi vào chiều sâu tư tưởng của một tác gia. Tưởng tổng hợp nhưng thực ra lại gây chia lìa, tưởng làm băng nhân nhưng lại khiến chia ương rẽ thúy! Cánh hoa được phân tích dưới kính hiển vi đâu còn là cánh hoa thoảng hương theo gió ngoài đồng nội? Miền vô ngôn thăm thẳm của tư tưởng không bao giờ lộ ra trên trang giấy để các học giả chộp lấy và tổng hợp, phân tích một cách hồ đồ theo thể lệ biên-khảo-giáo-khoa; mà đôi khi nó hiện ra trong những câu nói lửng lơ, trong những câu thơ tả cảnh, trong những mệnh-đề-phụ. Ðọc sách thì điều quan trọng là phải lắng nghe ra những gì nằm đằng sau trang giấy, để liễu đạt được cái “huyền ngoại chi âm” hay “ý tại ngôn ngoại”. Như gặm xương thì phải đập vỡ được xương và ăn được tủy. Chính cái tuỷ đó mới là dưỡng chất nuôi dưỡng cho các nhận định thâm viễn hoằng đại. Mà không phải nhà nghiên cứu nào cũng có thể làm được việc này, nếu họ không mang một tâm hồn thông tuệ, ứng hợp cơ duyên và có những đôi mắt “soi thủng cả tấm da trâu” của thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm71, hoặc những “cặp mắt trong nghìn thu”72 của Tô Ðông Pha, hay hồn thơ mênh mông như Bùi Giáng. Những pho sách võ hiệp đồ sộ và hàng vạn trang cổ lục, dù có đề cập đến vô biên vô lượng vấn đề bằng muôn ngàn thể cách, thì vẫn không nói gì khác ngoài Cái Lẽ Một Như Nhiên. Chỉ khi nào thấu hiểu điều đó, ta mới nhìn ra được dòng ẩn lưu chảy ngầm dưới tác phẩm của mọi thiên tài suốt dưới vòm trời kim cổ, mới thu nhiếp mọi vấn đề về một mối theo lẽ “Nhất dĩ quán chi“.
Dòng ẩn lưu đó vẫn trôi chảy trong mọi cuốn cổ lục đông tây, và có thể nối liền những bờ bến xa xôi, nhưng thường rất khó nhận ra bởi phần tinh hoa lắm phen bị che lấp dưới những ngôn ngữ xô bồ. Ẩn tàng trong mở phơi, và hiển lộ trong khuất lấp, đó là thể điệu của tinh hoa phát tiết và cũng là chỗ u mật mà thơ Bùi Giáng đã nói một cách bóng bẩy:
Có hàng cây đứng ngóng thu
Em đi mất hút như mù sương bay
Chỉ còn hàng cây đứng lẻ loi cô độc đứng ngóng thu, nhưng cái hình ảnh huyền ảo của người em đi dưới hàng cây để mang linh hồn lại cho hàng cây và cho cả mùa thu thì không còn nữa. Em đi mất hút như mù sương bay. Tinh hoa của những tư tưởng võ hiệp không phát tiết trong tác phẩm mà tự thân ẩn tàng trong hiển lộ, qua những mệnh-đề-phụ mênh mông. Phong Thanh Dương bất ngờ xuất hiện trên đỉnh Hoa Sơn, truyền thụ “Ðộc cô kiếm pháp” cho Lệnh Hồ Xung, rồi biến mất như con thần long phiêu hốt trong sương mù của huyền thoại, một loại mệnh-đề-phụ còn mang theo những ẩn ngữ nào giữa cõi nhân gian? Thạch Phá Thiên hồn nhiên liễu ngộ thần công trên vách đá chẳng phải là lời chú giải cho Pháp bảo đàn kinh?
Bùi Giáng đã từng dịch một phần nhỏ cuốn Kim kiếm điêu linh của Ngoạ Long Sinh, (NXB Quế Sơn Võ Tánh, 1967) bằng thể điệu ngôn ngữ rất mực tài hoa phiêu dật (dĩ nhiên là chỉ đối với những ai quen với văn phong Bùi Giáng), với những lời chú giải thâm hậu nhằm triển khai phần ẩn mật trong tư tưởng Ngọa Long Sinh. Nếu có điều kiện, các bạn thử chịu khó tìm đọc bản dịch của Bùi Giáng một cách kỹ lưỡng và chậm rãi đối chiếu với nguyên tác, các bạn sẽ tìm thấy trong những lời bình của ông, những lời bình mà không thiếu người cho là bốc đồng nhảm nhí, thì ngay tại những chỗ “nhảm nhí” đó bạn có thể nghe ra những dư hưởng mênh mang từ nhiều kiệt tác cổ kim. Đó là điều kỳ diệu trong ngôn ngữ dịch của “trung niên thi sĩ”. Bùi Giáng có một cái nhìn rất lạ về tác phẩm sách võ hiệp (“lạ” ở đây có nghĩa là “lạ” đối với những ai chưa “quen” với ngôn ngữ của Mưa Nguồn!).
Tôi xin trích ra đây một vài nhận định lai rai của ông về sách võ hiệp :
“Ðọc truyện vũ hiệp là một trong những phép tu dưỡng kí ức và khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Ðọc theo lối hồn nhiên, hoặc vừa đọc vừa suy gẫm. Chưởng lực, kiếm thế, nội kình phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện.
Riêng đối với bạn thi sĩ, sách vũ hiệp có thể giúp bạn làm thơ lai láng một cách không ngờ. Ðiều đó không có chi lạ : ban sơ vũ học,văn học, thi nhạc cùng phát khởi tại một cỗi nguồn : uyên nguyên của tinh thần xuất phóng “. (Kim kiếm điêu linh, NXB Quế sơn Võ tánh, 1973).
Võ học, thi ca, hội họa … đều bắt nguồn từ một cõi uyên nguyên sâu thẳm, chỉ khác nhau trong thể điệu trình bày. Nói một cách khệnh khang theo ngôn ngữ bác học của những học giả sính thuật ngữ, thì những thứ đó: “Thể” vốn là Một, nhưng “Dụng” và “Tướng” lại khác nhau. Do đó, thấu hiểu Dịch học cũng là nâng cao y thuật, tập viết thư pháp cũng là rèn luyện võ công. Tiếng đàn, nét bút đều có thể hàm chứa tinh hoa của võ học. Cho nên đôi khi đọc sách võ hiệp cũng là nguồn cảm hứng để làm thơ, hoặc để đọc lại kinh Hoa Nghiêm, kinh Duy Ma dưới cái nhìn thăm thẳm khác.
“Những kiệt tác của Ngọa Long Sinh (gồm mười mấy tác phẩm đồ sộ trong mười mấy năm nay) đi song song với Kim Dung và Gia Cát Thanh Vân - thực hiện một cuộc chuyển biến dị thường trong lịch sử văn học tư tưởng Trung Hoa –những kiệt tác ấy không gặp được nhiều cơ hội thuận tiện để thị hiện chon von trong cuộc phiêu bồng của dâu biển sử xanh Holzwege, Leaves Of Grass, Caligula vân vân.“ (Sương bình nguyên, tr.498-499).
Nhận định về Thiên Long Bát Bộ, ông nói :
“Ðể ba người73 kết nghĩa anh em, Kim Dung đã xây dựng tác phẩm trong mối tư lường sâu xa về Tồn thể uyên nguyên“ (Thúy Vân, tr.94)
Những câu nói đơn sơ đó đã đi một vòng bao trùm những chân trời tư tưởng và mở ra những thông đạo thênh thang để người đọc, từ trung tâm thông đạo, đón nhận được vô số âm thanh ảo huyền vọng về từ các trang cổ lục đông tây. Tinh hoa của sách võ hiệp, hay đúng hơn là tinh hoa của tất cả tư tưởng đông tây, vẫn cứ luôn thấp thoáng đằng sau mọi trang giấy não nùng, và chờ đợi một đôi tai biết “nghe” theo thể điệu nghiêm mật phiêu bồng của “như thị ngã văn”. Bùi Giáng đã “nghe” ra tất cả điều đó, từ những trang cổ lục mông lung cho đến những trang sách võ hiệp hiện đại. Một cung bậc vang lên và tâm hồn kẻ tài hoa mở ra đón nhận rất nhanh những dư vang đồng điệu.
Lâu nay, trong tất cả bài viết của mình, đặc biệt là trong những bài viết về Kim Dung, tôi vẫn cố gắng đưa vào vài câu thơ Bùi Giáng làm lời nhiếp dẫn, như sợi chỉ Ariane, để mong giúp bạn đọc -nhất là các bạn trẻ- nương theo mà tìm về cõi đạo phương đông. Đó cũng là cách để chúng ta thể hội những mạch ngầm trong tác phẩm võ hiệp, như ông nói :
“Nhưng cái mệnh phụ đồ sộ Nam Hải Ngạc Thần74, cái mệnh đề phụ lai láng Bách Lý Băng75, cái mệnh đề phụ khôn hàn của những niềm riêng tỳ tử trong vũ hiệp, thảy thảy có đồng quy về một mối nhất quán nào trong thơ tả cảnh Nguyễn Du, trong Les Chimères Nerval, trong thi ca Trung Quốc, trong mười chương của Dostoievski, trong những vần tối hậu của Wilde, bốc tia từ huyền nhiệm thâm u Bà La Mật…, có hay không, đồng quy từ mọi nẻo thù đồ? Đó là điều xin để bạn thong dong tự suy gẫm”. (Sương bình nguyên tr.9)
Đã có bao nhiêu bạn đã chịu khó “thong dong tự suy gẫm” về điều đó, trước khi cầm bút bàn tới Kim Dung hay sách võ hiệp? Thiên kiếm Tuyệt đao, Kim kiếm điêu linh, Tiếu ngạo giang hồ, Thiên long bát bộ … vẫn chứa chan hằng sa ẩn ngữ để đón nhận những làn gió tương giao thổi qua suốt “cõi người ta” từ vô thủy đến vô chung. Những mệnh-đề-phụ của tình yêu có giúp các bạn nghe ra được linh hồn của từng trang cổ lục? Những mệnh-đề-phụ thăm thẳm Du Thản Chi và A Tử đã đạt đến cõi đoạn trường nào mà ngay những trang thơ thảm khốc nhất của Hàn Mặc Tử cũng chưa tả nỗi, và đồng thời hé mở được câu nói đơn sơ nào của kinh Hoa Nghiêm? Những mệnh-đề-phụ Không Kiến thần tăng, Định Nhàn sư thái đã nói gì về cảnh giới “niêm hoa vi tiếu” của Phật môn? Mệnh-đề-phụ Đào cốc lục tiên hé lộ những điều gì đã được Lão Tử nhắc tới trong Đạo đức kinh? Thấp thoáng trong Adrienne của Nerval, bạn có nhận ra hình bóng não nùng của tiểu ni Nghi Lâm? Lưỡng nghi đao pháp, Thái cực kiếm pháp có giúp các bạn thể hội thêm huyền nghĩa của Dịch kinh? Liên Tuyết Kiều còn mang ẩn ngữ nào của truyện Kiều? Vô vàn câu hỏi còn bỏ lững để chờ những đôi tai biết lắng nghe.
Chỉ khi nào ta đã “nghe” ra được những điều đó bằng tất cả tâm nguyện “tín giải thọ trì”, để “thấy” được mối đồng quy của mọi nẻo thù đồ, thì những “nhận định” của ta về sách võ hiệp mới không bị lệch lạc từ cơ bản. Đỗ Long Vân là một trong số hiếm hoi những người “nghe”ra điều đó bằng những suy niệm chân thành, để viết nên tác phẩm tuyệt hảo “Vô Kỵ giữa chúng ta”. Ðỗ Long Vân là nhà nghiên cứu Kim Dung nghiêm túc bằng văn phong rất mực tài hoa, khác với phong cách hý ngữ lộng ngôn ỡm ờ của Bùi Giáng. Những trang viết trầm ổn túc mục của ông về Kim Dung đã được Bùi Giáng nhiếp dẫn về giữa ngã ba Tam Giáo của Ðông Phương, để mở ra cuộc hội thoại Đông Tây. Và chỉ Bùi Giáng mới là người có thừa thãi công lực và thông tuệ để đẩy những suy tư của Đỗ Long Vân vào những đường bay huyền ảo :
“Cuốn sách ông76 bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng thâm viễn như cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim, Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Ðông Phương, Tây Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng.
Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác ông ở đôi chi tiết. Nhưng không cần. Ðiều cốt yếu ông đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Ðông Phương hay Tây Phương.
Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn Vô Kị giữa chúng ta để đọc lại“ (Đi vào cõi thơ, tr.79).
Lời trích dẫn dài dòng trên được dùng để khép lại bài viết này, và hy vọng rằng nó cũng sẽ mở ra, đồng thời, những chân trời bao la hơn cho những nhận định, trong tương lai, về sách võ hiệp.
ẨN NGỮ LIÊN TUYẾT KIỀU
Một cô gái dung nhan tuyệt đại, tài năng và trí thông minh đáng được liệt vào hàng cực phẩm của nhân gian, mà đành phải bịt tai trước tiếng lòng thổn thức để gán duyên cùng một nhân vật nửa người nửa vượn. Một thanh niên thông tuệ tuấn tú phải chối bỏ tình yêu để người em kết nghĩa được tựu thành ước nguyện. Một kẻ nửa người nửa vượn,- kết quả của một tấn thảm kịch não nùng giữa một con vượn và một cô gái đang tuổi thanh xuân - lại cứ hồn hồn ngạc ngạc giữa nhân gian, yêu say đắm người yêu của nghĩa huynh, mà không biết được rằng mình đã làm hai trái tim tan nát, cứ cuồng điên chiếm hữu cho được người ngọc theo sự sắp đặt của một nhân vật đa mưu túc trí. Tất cả bi kịch đó xảy ra cũng chỉ vì cái gọi là “đại cục của võ lâm”. Ngọa Long Sinh đã bài thiết một tình huống não nùng làm người đọc phải cháy bỏng cả tim gan. Nhưng chính sự tan nát lòng người đó lại là điều kiện để anh hoa phát tiết! Ðó có thể xem như là “chủ đề tư tưởng” trong tác phẩm Vô danh tiêu của Ngọa Long Sinh77.
Tôi không muốn tóm lược lại cốt truyện khi viết bài, vì điều đó chỉ thêm rườm rà vô ích đối với người đã đọc sách. Nhưng riêng đối với tác phẩm Ngọa Long Sinh, thì tôi xin độc giả cho phép tôi được “lung khởi” dài dòng đôi chút, vì các tác phẩm của ông ít được phổ biến ở Việt Nam. Phần tóm lược có thêm vài lời nhiếp dẫn, rất mong có thể giúp ích được chút gì đó đối với người chưa từng đọc qua Ngọa Long Sinh.
Nhân vật chính trong bộ Vô danh tiêu là Thượng Quan Kỳ - một thanh niên tuấn tú thông tuệ- sau một biến cố của sư môn, phải lưu lạc giang hồ với thương thế trầm trọng do trúng độc. Y lưu lạc đến một ngôi cổ tự hoang phế và gặp một dị nhân là Tiêu Tiên - người chấp nhận giam mình trong gác vắng gần hai mươi năm trời để luyện võ công thượng thừa thù thắng, muốn đem nội kình gởi vào tiếng tiêu để sát thương địch nhân ở xa hàng dặm, trong chỗ vô hình tích. Tiêu Tiên tâm tính hỷ nộ bất thường vì ông có một tâm sự bi thương khôn tả : người nghĩa đệ mà ông yêu thương đã đầu độc ông để cướp cả vợ lẫn con. Do phát hiện căn cơ cốt cách của Thượng Quan Kỳ, ông chấp thuận truyền toàn bộ tuyệt nghệ cho Thượng Quan Kỳ mà không cần danh nghĩa thầy trò, chỉ với một yêu cầu là Thượng Quan Kỳ sẽ giúp ông tầm thù rửa hận, vì hai chân ông đã bị tàn phế do trúng độc, nên dù võ công tuyệt cao, ông không muốn rong ruỗi giữa giang hồ. Vốn bản chất quật cường, Thượng Quan Kỳ vẫn khăng khăng từ chối. Sau đó, Thượng Quan Kỳ gặp nạn và rơi vào một tuyệt cốc. Chính ở nơi đây, y đã biết được một thảm kịch nhân gian. Người cứu nạn cho y là một con vượn khổng lồ, và là “chồng” của một thiếu phụ đáng thương! Thiếu phụ ấy, thuở còn là con gái, sống trong một ngôi làng bình dị ở vùng sơn cước với tất cả các ước mơ bình dị của một thôn nữ hiền lành. Một ngày kia tai họa bỗng đổ ập xuống làng khi một con báo từ đâu đến gieo họa cho gia súc lẫn người. Dân làng hiền lành mộc mạc đang đau khổ vì không có cách đối phó, thì bỗng nhiên xuất hiện một con vượn khổng lồ đánh chết con báo tai ác kia. Dân làng vô cùng mừng rỡ và hân hoan cảm tạ vị cứu tinh bất ngờ đó, đã đổ xô ra chứng kiến trận đánh kỳ lạ kia. Sổ đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên : cô gái ra đứng xem đã bị con vượn bắt mang đi. Kết quả cuộc hôn phối đầy oan nghiệt ấy là Viên Hiếu - đứa con trai nửa vượn nửa người.
Dưới sự sắp đặt bí mật của người mẹ bất hạnh, Viên Hiếu theo Thượng Quan Kỳ về lại “cõi người ta”, với tâm hồn ngẩn ngơ của một người sơ thủy vừa thoát khỏi cuộc sống vượn người. Sau khi học được võ công kỳ đặc của Tiêu Tiên, hai anh em dấn thân vào giang hồ và gặp Liên Tuyết Kiều, trong bối cảnh cô này, dưới vai một cô gái có tang, đang tìm cách chi phối quần hùng. Cô gái cực kỳ diễm lệ và võ công cao cường đó là con nuôi của một kẻ gian hùng tuyệt đại võ lâm đang nuôi mộng bá chủ giang hồ : Cổn Long Vương. Tài trí, dã tâm và thủ đoạn lẫn võ công của Cổn Long Vương còn cao gấp nhiều lần so với Tả Lãnh Thiền trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung. Y hiện thân như là Caesar giữa chốn giang hồ, và chỉ có một người đủ mưu lược và tài trí để chống đối lại y là Ðường Toàn - sư đệ của chính y. Ðường Toàn chỉ là một thư sinh trói gà không chặt, nhưng làm quân sư cho Cùng Gia Bang để đối đầu với vị sư huynh gian hùng đó, bằng trí thông minh kiệt xuất của mình.
Liên Tuyết Kiều dùng mê dược của Cổn Long Vương để thu phục Thượng Quan Kỳ làm vệ sĩ. Một lòng trung thành với nghĩa huynh, Viên Hiếu cùng đi theo Thượng Quan Kỳ để bảo vệ. Cõi giang hồ đầy biến động dưới mắt y chẳng có gì đáng bận tâm, ngoài người nghĩa huynh và cô nàng Liên Tuyết Kiều diễm lệ. Viên Hiếu đối với Liên Tuyết Kiều như Du Thản Chi đối với A Tử. Trong tâm hồn yêu đương man dại đó, chân dung Liên Tuyết Kiều hiện ra như Bồ Tát Quan Âm! Còn Liên Tuyết Kiều càng ngày càng khám phá ra một điều : chàng vệ sĩ võ công cao cường, dưới lớp hoá trang bệnh hoạn và đang bị mất thần trí vì mê dược, không biết tự bao giờ đã chiếm trọn trái tim nàng. Về sau, do khiếp sợ trước dã tâm và thủ đoạn của Cổn Long Vương, Liên Tuyết Kiều gia nhập Cùng Gia Bang để chống lại nghĩa phụ mình. Mê dược được giải, Thượng Quan Kỳ khôi phục thần trí và hỡi ơi, nghiệt oan cũng khởi đầu từ đó, khi chàng thanh niên tuấn tú thông tuệ kia tự hỏi lòng mình, và thấy rằng mình đã cùng Liên Tuyết Kiều “hẹn nhau từ muôn kiếp trước”. Một bên nghĩa đệ, một bên người yêu. Làm thế nào để đôi đường đều trọn vẹn? Ở đây không khởi đầu cho một mối tình tay ba rẽ tiền, mà vấn đề tư tưởng được đẩy lên đỉnh cao chót vót. Và truyện Kiều của Nguyễn Du bỗng hiện ra như một lời giải đáp tuyệt kỳ!
Ðường Toàn, với thân hoài tuyệt học nhưng thể trạng lại bạc nhược, đang muốn tìm người để kế thừa y bát. Chính thời điểm đó, Liên Tuyết Kiều hiện ra trước mắt ông như một môn đồ lý tưởng. Giống như Khổng Minh tìm được Khương Duy. Vị quân sư thông minh trác tuyệt đó biết rõ tình cảm của Liên Tuyết Kiều với Thượng Quan Kỳ, nhưng ông cũng đã vô cùng sâu sắc để hiểu rằng một khi gái quốc sắc tìm được trai thiên tài thì mọi sự xem như chấm dứt. Nàng sẽ tự an phận với cuộc sống bình yên của một người vợ hiền, sẽ lo vá may nội trợ để chăm sóc hạnh phúc cho tổ ấm gia đình. Một thằng cu hay con bé ra đời nữa là xem như xong! Cuộc sống gia đình êm ấm luôn là ước mơ của con người, nhưng oái ăm thay, đối với khách tài hoa, thì nó cũng là nguyên nhân làm lụi tàn đi tinh thể. “Ta biết ngày mai em cưới vợ. Ngày làm hai buổi tối về thăm. Cơm xong chén nước chờ bên cạnh. Em bế thằng con được mấy năm. Mới mấy năm thôi đủ phận chồng. Chàng trai ngày trước đã thành công. Không còn mộng ước thời trai trẻ. Mắt sáng phai rồi, má hóp không (Xuân Diệu). Xuân Diệu đã từng chua xót cho bè bạn hào hoa thuở cũ, khi cay đắng nhận ra rằng cuộc sống êm ả đơn điệu của gia đình đã nhận chìm mất nơi họ bao hoài bão thuở thanh xuân. “Ta bước lên đường kêu gọi mãi. Những người bạn cũ thuở anh niên” (X.D). Và lời kêu gọi đó của Xuân Diệu đã tìm được lời đồng vọng từ Ngọa Long Sinh.
Thôi thì từ đây, bao võ công bao tài trí từng làm khiếp đảm quần hùng, em xin gởi trả hết cho đời. Dầu gì đi nữa em cũng chỉ là phận nữ nhi “nghìn tầm gởi bóng tùng quân, nắng mưa che chở cho thân cát đằng”, rong ruỗi làm gì nữa, đem tài hoa ra ganh đua xông xáo với đời làm gì nữa, khi Thượng Ðế đã ban cho em một đấng lang quân như ý ? Chàng cứ tha hồ tung hoành đi nhé. Em sẽ lo toan mọi chuyện nhà, để mỗi khi quay về là chàng sẽ thấy một tổ ấm dịu êm. Ðôi mắt từng áp đảo quần hùng từ nay sẽ mất hết thần quang để chỉ nhìn con nhìn chồng. Ðôi tay từng chỉ huy nhiều trận huyết chiến từ đây sẽ tìm bình yên bên mâm cơm cái chén!
Trong khi đó ? Cục diện võ lâm đang cần một con người tài trí nhiều cơ biến như Liên Tuyết Kiều. Cái bản lĩnh ấy không thể để mất chìm trong tiếng ru con, và cái thông tuệ ấy không thể vùi mất nơi góc bếp. Nàng phải thay cho vị quân sư yểu mệnh kia để tiếp tục cưú vãn sát kiếp cho võ lâm. Và Ðường Toàn bố trí để gá duyên nàng cùng Viên Hiếu. Mộng hoài thanh xuân đành đổ vỡ theo hình bóng ngậm ngùi. Thế thì từ nay ta sẽ đem hết tài hoa bạt tụy ra thi thố với đời để phát tiết cho hết mối hận lòng cay đắng. Trí tuệ bị ma chiết sẽ càng thêm sắc bén, khổ lụy đoạn trường sẽ càng làm thêm rõ nét tài hoa.
Tố Như Tử viết truyện Kiều và Ngọa Long Sinh viết Vô Danh Tiêu đều giúp ta thể hội thêm một điểm : để cho hai cái tài hoa tuyệt đại gặp nhau ắt tinh thể sẽ tan hoang. Rồng gặp mây đâu chắc sẽ thi thố được hết tài năng, mà lắm khi sự êm ấm lâu ngày sẽ biến nó thành con giun đất! Con người chỉ khám phá được mình khi phải đương đầu với khổ đau và trở ngại. Cảnh đoạn trường sẽ đưa con người qua muôn vạn cảnh đời dâu bể để con người triệt ngộ và có điều kiện phát tiết anh hoa. Tấm vải của mộng đời chân chính sẽ không được dệt bằng tơ lụa trưởng giả của gác tía lầu son, của ngọc đường kim mã, mà phải được dệt bằng nước mắt và cát bụi của trần gian. Cho nên Nguyễn Du không để Thuý Kiều đến với Kim Trọng, mà ông phải dắt nàng trôi nổi lênh đênh qua muôn ngàn sinh ly tử biệt, để cuối cùng con người đó mới tìm thấy lại “bản lai diện mục” của mình sau cuộc Lữ mười lăm năm lưu lạc. Cô nàng Thúy Vân vô tâm hồn nhiên hiện ra là điều cần yếu để điều hòa hai khối Thi - Nhạc Kim Kiều.
Ngọa Long Sinh cũng để Thượng Quan Kỳ và Liên Tuyết Kiều phải chia tay vĩnh viễn. Con người vô tâm Viên Hiếu phải kết duyên cùng Liên Tuyết Kiều để làm sáng tỏ thêm ẩn ngữ của nàng trong “cõi người ta”.
LỤC BÁT KIM DUNG
(Cảm ứng Nguyễn Tôn Nhan)
Nghi Lâm
Chuông khuya dẫn mối sầu về
Giọt buồn ai để rơi nhòe trang kinh
Chao ơi! Sư nữ đa tình
Lệnh Hồ Xung
Giang hồ đen trắng thị phi
Chính tà, chìm lắng trong ly rượu nồng
Bước chân lãng tử phiêu bồng
A Châu
Linh hồn thục nữ bao dung
Nhạn môn quan hẹn mộng trùng lai xưa
Lệ thương biết mấy cho vừa
Mạc Đại tiên sinh
Bắc nam xuôi ngược âm thầm
Kiếm chiêu tinh ảo, hồ cầm diệu thanh
Có ai hiểu nỗi u tình?
Đoàn Dự
Hồn anh một khối tình si
Ngai vàng đổi cõi nhu mì của em
Phất phơ tà áo Ngữ Yên
Du Thản Chi
Cuồng điên máu lệ tình câm
Bước chân A Tử xa xăm muôn trùng
Bóng chiều quan ải mông lung
Hoàng Đông Tà
Chính tà nguồn cội là đâu?
Ðộc tôn duy ngã, chốn Ðào Hoa chơi
Mênh mông tiếng sáo trùng khơi
Bất Giới hòa thượng
Sá gì thân náu cửa Không
Cạo đầu bởi chút má hồng ni cô Tam quy Ngũ giới? Nam mô!
Tiêu Phong
Hán Liêu nào biết về đâu?
Ngậm ngùi tiếng hát A Châu thuở nào
Rượu chìm trong cõi chiêm bao
Phong Thanh Dương
Thần long rất mực phiêu bồng
Ngẫu nhiên về cõi trần hồng dạo chơi
Linh quang còn tỏa sáng ngời
Thạch Phá Thiên
Tâm không một chữ cũng không
Hồn nhiên liễu đắc thần công tuyệt trần
Cơ duyên vẫn thắng cơ tâm
Nhâm Doanh Doanh
Ðem thân bỏ chốn ngục tù
Mộng hồn vương vấn tình đầu thiết tha
Thánh Cô hiện giữa Ta Bà
Đông Phương Bất Bại
Hùng tâm trùm khắp càn khôn
Té ra là mảnh xiêm hồng vô duyên
Cuộc đời qúa đỗi đảo điên
Nhạc Linh San
Sơn ca Phúc Kiến lời ru
Còn say đắm gọi cõi u tình nào
Băng tâm vùi giữa rừng sâu
Tạ Tốn
Ðồ long đao, lệ anh hùng
Bước chân vào chốn Mê Cung, để rồi
Óan ân thăm thẳm trùng khơi
A Tử
Trái tim tàn nhẫn vô tình
Chỉ chôn chặt mỗi bóng hình tỷ phu
Hận lòng máu nhỏ thiên thu
Hân Tố Tố
Tóc tơ chưa vẹn hương nguyền
Thì xin hẹn chốn hoàng tuyền gặp nhau
Ðêm Băng hỏa đảo nhiệm màu
Đào cốc lục tiên
Tưởng rằng ăn nói quàng xiêng
Ngẫm ra lắm lúc thâm huyền tuyệt luân
Hay là Lão Tử vô tâm?
Đoàn Nam Đế
Bỗng dưng ngộ được chữ danh
Phiêu nhiên thành vị chân tăng giữa đời
Nhất Ðăng - Nam Ðế mấy người?
Tô Tinh Hà
Thông minh vốn dĩ hơn người
Nên dang dở cả một đời tài hoa
Bước chân lạc nẻo Ðông Pha 78
Long Mộc đảo chủ
Tâm cơ phí uổng một đời
Thần công vách đá chờ người hữu duyên
Dễ gì nhân định thắng thiên
Tặng Dương Ngọc Dũng để nhớ “Kim Dung mỹ nhân đồ”!
NGHI LÂM
Bối diệp khả lân câu hữu lệ
Trúc lâm tâm sự ký chung thanh
貝 葉 可 憐 俱 有 戾
竹 林 心 事 寄 鐘 聲
NHÂM DOANH DOANH
Chư tử nhãn trung đô thảo mộc
Bình sinh đê thủ Lệnh Hồ Xung
諸 子 眼 中 都 草 木
平 生 低 首 令 狐 沖
VƯƠNG NGỮ YÊN
Từ tòng nhất kiến khanh khanh hậu
Trần thế giai nhân tổng thị không
自 從 一 見 卿 卿 後
陳 世 佳 人 總 是 空
HÂN TỐ TỐ
Tâm sự dĩ thành Băng hỏa đảo
Trùng lai Trung Thổ mộng hồn tiêu
心 事 已 成 冰 火 島
重 來 中 土 夢 魂 消
LÝ MẠC SẦU
Nhân gian một hữu vô tình xứ
Thiên hạ ưng lân Lý Mạc Sầu
人 間 沒 有 無 情 處
天 下 應 憐 李 莫 愁
A CHÂU
Tự cổ hiếu tình nan lưỡng báo
Mộng hồn thùy lệ Nhạn môn quan
自 古 孝 情 難 兩 報
夢 魂 垂 淚 雁 門 關
TIỂU LONG NỮ
Phiêu nhiên ngọc nữ thừa phong khứ
Lưu thủ giang hồ nhất phiến tâm
飄 然 玉 女 乘 風 去
留 守 江 湖 一 片 心
MỘC UYỂN THANH
Già diện tung hoành phi tự ngạo
Kiều thân đản khủng bá phương hinh
遮 面 縱 橫 非 自 傲
嬌 身 旦 恐 百 方 馨
VIÊN TÍNH
Ái tự bản lai nan tỵ miễn
Không môn hà xứ thác sầu tâm?
愛 字 本 來 難 避 免
空 門 何 處 托 愁 心 ?
TRÌNH LINH TỐ
Độc thủ Phật tâm chân khả ái
Tuẫn tình túc sử thế gian bi
毒 手 佛 心 真 可 愛
殉 情 足 使 世 間 悲
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét