TÂY THI : TỪ LÝ BẠCH ĐẾN KIM DUNG
Tặng nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan
Để tả vẻ đẹp, người ta thường phải dùng đến ngôn từ. Cao hơn chút nữa thì dùng đến thi ca, hội họa. Cao hơn nữa thì dùng đến âm nhạc. Gởi cả tấm lòng say mê vào nghệ thuật để mong đem tài hoa tạc nên những đường nét vĩnh hằng lên nhan sắc, đó cũng là một trong những lý do để nghệ thuật được trường tồn. Nhưng lên cao hơn nữa, khi đối diện với dung nhan tuyệt đại mà mọi ngôn ngữ và nghệ thuật đều cảm thấy bất lực không thể miêu tả nỗi, thì người ta chỉ còn có cách chiêm ngưỡng trong yên lặng. Đó là những gì cô bé A Thanh phải làm, khi đối diện với nhan sắc của Tây Thi.
Chiêu Quân, Tây Thi, Điêu Thuyền và Dương Quý Phi là tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc, mà nhan sắc và cuộc đời đầy giai thoại đã làm hao tổn không biết bao nhiêu tâm huyết và bút mực của tài tử văn nhân. Tây Thi đau bụng nhăn mặt mà nhan sắc lại càng thêm yêu kiều, khiến cho những người con gái khác phải bắt chước nhăn mặt theo, điều đó đã trở thành giai thoại trong văn học. Thời Chiến quốc, vua Việt là Câu Tiễn bị vua Ngô là Phù Sai đánh bại ở Cối Kê. Câu Tiễn toan tự vẫn, nhờ hai cận thần là Văn Chủng và Phạm Lãi khuyên can, nên phải ẩn nhẫn chờ thời cơ, rồi được Phù Sai tha cho về nước. Câu Tiễn nằm gai nếm mật, chiêu hiền đãi sĩ, luyện tập binh sĩ để quyết chí phục thù. Một trong những kế hoạch phá hoại nước Ngô là mỹ nhân kế. Câu Tiễn dâng người đẹp Tây Thi cho vua Ngô. Quả nhiên Phù Sai say đắm Tây Thi, bỏ bê cả triều chính, rốt cuộc bị Câu Tiễn đánh bại và phải tự vẫn.
Tây Thi tên là Di Quang, con của một tiều phu nghèo nàn ở La Sơn, nhưng dung nhan tuyệt tục của cô gái giặt lụa đó đã khiến cho một đấng quân vương phải quốc phá thân vong, và bị lịch sử phong kiến kết án thành một tội đồ thiên cổ. Có thuyết nói rằng sau khi phá xong nước Ngô, Câu Tiễn cho bắt Tây Thi đến, bảo : “Đây là mầm họa mất nước, phải giết đi”, rồi sai người đem dìm xuống dòng sông! Thuyết đó phản ảnh được tính tàn nhẫn của Câu Tiễn, một vị vua thủ đoạn và nham hiểm, khi thành công liền tìm cách tàn sát các công thần. Nhưng điều đó có lẽ làm đau lòng những thi nhân đời sau, họ không muốn cái vưu vật đó của Tạo hóa chết một cách thê thảm trong tay của một bạo vương, nên mới có thêm một thuyết cho rói rằng Phạm Lãi, sau khi giúp Câu Tiễn diệt Ngô, đã chối bỏ quan tước, lén đem Tây Thi bỏ trốn để ngao du sơn thủy, theo đúng tinh thần “công thành thân thoái” của đạo gia. Cái dung nhan tuyệt tục đó dù bị biến thành nạn nhân trong những mưu đồ chính trị, nhưng nó vẫn mãi mãi là một vưu vật hiếm hoi mà Tạo hóa ban tặng con người để giúp nhân gian mở khơi nguồn sáng tạo. Các thi nhân Trung Quốc thường vịnh về Tây Thi. Nhưng dùng thơ ca để tả dung nhan như hội họa thì hãy còn hạn chế. Mọi sự miêu tả trực tiếp sắc đẹp, cho dù bí ẩn như bức tranh Mona Lisa của Leonardo da Vinci, rực rỡ như bức tượng nữ thần Venus, bóng bẫy như “làn thu thủy nét xuân sơn, hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” của Tố Như tả Thúy Kiều, hay phiếu diễu như “vân tưởng y thường hoa tưởng dung” hoặc “nhất chi nùng diễm lộ ngưng hương” của Lý Bạch tả Dương Quý Phi đi nữa, thì bản thân sự miêu tả đó đều đặt ra những giới hạn mặc nhiên cho trí tưởng tượng. Tả người đẹp mà hoàn toàn không nói gì đến người đẹp như bài Ô thê khúc của Lý Bạch mới thật là diệu bút. Bài thơ rất ngắn, xin mời các bạn thưởng thức trọn bài:
Cô Tô đài thượng ô thê thì
Ngô vương cung lý túy Tây Thi
Ngô ca Sở vũ hoan vị tất
Thanh sơn dục hàm bán biên nhật
Ngân tiễn, kim hồ lậu thủy đa
Khởi khan thu nguyệt trụy giang ba
Đông phương tiệm cao nại lạc hà?
姑 蘇 臺 上 烏 梯 時
吳王 宮 裏 醉 西 施
吳 歌 楚 舞 歡 未 畢
青 山 欲 含 半 邊 日
銀 箭 金 壺 漏 水 多
起 看 秋 月 墜 江 波
東 方 漸 高 耐 樂 何
(Lúc chim quạ bay về đậu trên đài Cô Tô,
là lúc vua Ngô đang say đắm Tây Thi
Bài hát nước Ngô, điệu múa nước Sở, cuộc vui chưa hết
Núi xanh đã muốn ngậm nửa mặt trời
Mũi tên bạc trong hồ vàng chỉ nước chảy đã nhiều
Ngồi dậy nhìn trăng thu rụng xuống giữa lòng sông
Mặt trời dần lên cao, biết vui làm sao đây?)
Lúc vua Ngô Phù Sai đang say sưa bên cạnh Tây Thi là lúc màn đêm đã bắt đầu buông xuống. Người đọc biết được thời gian nhờ hình ảnh những con quạ bay về đậu trên đài Cô Tô để tìm chỗ trú qua đêm. Đài Cô Tô là nơi Phù Sai cho xây dựng lên để vui chơi cùng Tây Thi, nay thuộc tỉnh Giang Tô. Cô Tô đài thượng ô thê thì. Ngô vương cung lý túy Tây Thi. Cuộc vui của vua Ngô cùng người đẹp trong bài hát nước Ngô và điệu múa nước Sở kéo dài thâu đêm, mãi đến chiều hôm sau, đến lúc mặt trời đã lặn hết một nửa sau ngọn núi xanh mà vẫn chưa tàn. Thanh sơn dục hàm bán biên nhật.
Và cuộc vui lại tiếp tục đến khuya. Mũi tên bạc trong hồ vàng cho biết nước trong bình đã chảy nhiều rồi 32. Ngân tiễn, kim hồ lậu thủy đa. Thời gian đã trôi qua một ngày một đêm, nhưng nhà vua nào hay biết. Bên cạnh người đẹp, dòng thời gian chắc đã lắng đọng lại trong ánh mắt hồ thu. Đêm đã về khuya, trăng thu mênh mông, sông thu bát ngát, hãy dìu người đẹp ngồi dậy nhìn vầng trăng rơi giữa lòng sông rộng. Khởi khan thu nguyệt trụy giang ba. Này giai nhân, hãy cùng ta nhìn ánh trăng lộng lẫy và hãy đàn ca múa hát nữa đi cho đẹp dạ đấng quân vương. Lại vui cùng bài hát nước Ngô và điệu múa nước Sở, chợt nhìn ra, ô hay! vầng dương đã lên cao. Đông phương tiệm cao. Thêm một đêm vui nữa đã đi qua, kìa ngày đã đến nhưng cuộc vui chưa trọn, biết làm sao đây. Nại lạc hà? Thời gian và vĩnh cửu, làm sao có thể phân biệt được, khi mắt đã chìm trong nhan sắc và tai đã ngập tràn tiếng hát của giai nhân?
Hầu hết các nhà phê bình đều cho rằng đây là bài thơ nói về cảnh hoan lạc đắm say của Phù Sai với Tây Thi nơi đài Cô Tô. Hỡi ơi, nếu thế thì còn gì là Lý Trích tiên! Tôi cho rằng đây là bài thơ tả Tây Thi. Tả tiệc vui của bậc quân vương nhưng thật ra là để tả nhan sắc của người hầu rượu, cũng như muốn tả vẻ đẹp của cô chủ thì chỉ tả nét kiều diễm của con hầu. Đó mới là chỗ cực bút của nghệ thuật tả chân. Toàn bài thơ không có một từ nào tả vẻ đẹp của Tây Thi, nhưng cứ nhìn cảnh đắm say của Phù Sai, một vị vua hùng tài từng diệt tan nước Việt để dựng đại nghiệp, thì dung nhan của Tây Thi không cần tả cũng đủ để hình dung. Tả người đẹp đến mức đó có lẽ là đã đi đến chỗ tận tuyệt của ngôn từ. Tương truyền, Lý Bạch làm bài thơ này đã khiến cho các thi nhân đương thời đều kinh hãi. Sau Ô thê khúc, trong văn học Trung Quốc dường như không còn bài thơ vịnh Tây Thi nào đáng để nhắc đến. Như Hoàng hạc lâu sau bài thơ Thôi Hiệu.
Trong Việt nữ kiếm, Kim Dung lại tìm một cách tiếp cận khác để tả Tây Thi. Việt nữ kiếm chỉ là một truyện ngắn, không được Kim Dung liệt vào 14 bộ sách chính của ông. Câu chuyện được xây dựng trên bối cảnh Ngô Việt thời Chiến quốc. Nhân vật chính là một cô bé chăn dê tên A Thanh, còn Tây Thi chỉ xuất hiện một lần duy nhất ở cuối câu truyện, nhưng hình tượng lại nổi bật lên bởi A Thanh.
Truyện kể hằng năm các kiếm sĩ của nước Ngô sang nước Việt thi đấu kiếm, và họ có thái độ rất ngông nghênh vì kiếm pháp của họ đã lấn áp hoàn toàn các tay kiếm cừ khôi của nước Việt. Điều đó khiến Phạm Lãi rất lo buồn. Trên đường đưa Tây Thi đi cống nạp, Phạm Lãi đã yêu Tây Thi, nên đó cũng là động cơ thôi thúc Phạm Lãi tiến hành kế hoạch giúp Câu Tiễn diệt Ngô. Một kẻ muốn diệt Ngô để báo thù và xưng bá thiên hạ, còn một người muốn diệt Ngô chỉ để sớm trùng ngộ giai nhân. Trong tâm trạng lo buồn đó, Phạm Lãi gặp được A Thanh.
A Thanh là một cô gái chăn dê ở nước Việt. Hằng ngày, có một con vượn trắng dùng cây đánh nhau với cô trên đồng cỏ để đùa bỡn, vô tình qua những phản xạ khi giao đấu, cô lại học được một loại kiếm pháp thượng thừa. Một lần do tình cờ Phạm Lãi chứng kiến cảnh cô dùng cây gậy trúc đánh mù mắt tất cả các tay kiếm nước Ngô, vì bọn này chọc ghẹo và giết dê của cô. Ông biết đây là vị cứu tinh của đất nước nên tìm cách làm thân và mời cô về luyện kiếm cho các kiếm sĩ nước Việt. Cô không biết dạy, mà chỉ biểu diễn kiếm pháp một vài lần cho các tay kiếm xem, sau đó lại biệt tích. Nhưng những gì cô để lại đủ giúp cho kiếm sĩ nước Việt trở nên những tay kiếm cừ khôi, và giúp nước Việt tiêu diệt nước Ngô.
Nhiều lần Phạm Lãi kể chuyện nữ thần sông Tương cho A Thanh nghe. Ông tả cho cô nghe vẻ đẹp của Tương phi nhưng trong lòng lại nhớ đến Tây Thi, nên dùng Tây Thi để tả Tương phi. Cô bé chăn dê ngây thơ A Thanh lại đem lòng yêu Phạm Lãi, nên cô rất tò mò muốn biết Tây Thi là ai. Cô không tin rằng trên đời lại có người đẹp đến thế. A Thanh cũng âm thầm theo chân đoàn quân nước Việt tiến vào kinh đô nước Ngô. Lúc kinh đô nước Ngô bị phá, Phạm Lãi hội ngộ Tây Thi cũng là lúc cô xông vào trướng phủ để giết Tây Thi. Đoạn A Thanh xông vào trướng phủ được Kim Dung mô tả thật tuyệt vời. Người đọc không thấy cảnh A Thanh tiến vào mà chỉ nghe âm thanh bất tuyệt của các thanh kiếm rơi loảng xoảng trước những chiêu kiếm thần tốc của A Thanh. Tiếng kiếm rơi ngoài hành lang mỗi lúc một to dần, như một con trường xà khổng lồ đang trườn đến rất nhanh. Cả ngàn giáp sĩ và cả ngàn kiếm sĩ đều không ngăn cản nổi cây gậy trúc trong tay cô bé chăn dê. (Giá thanh âm tòng cung ngoại trực hưởng tiến lai, tượng như nhất điều cực đại đích trường xà, phi tốc đích du lai, trường lang thượng dã hưởng khởi liễu binh nhẫn lạc địa đích thanh âm. Nhất thiên danh giáp sĩ hòa nhất thiên danh kiếm sĩ đương bất liễu A Thanh). Hình tượng đó tưởng như là dùng để tả kiếm thuật siêu tuyệt và thần tốc của A Thanh nhưng thật ra là để tả sự nôn nóng vì ghen tuông của cô bé, khi muốn được sớm đối diện với tình địch của mình mà dung nhan đã được sánh ngang thần nữ!
Khi thanh âm của cây kiếm trong tay người giáp sĩ cuối cùng rơi xuống, cũng là lúc cây gậy trúc trong tay A Thanh điểm đến tâm khẩu của Tây Thi. Nhưng cô liền dừng tay, trên mặt cô sát khí dần dần dịu đi, rồi biến thành nỗi thất vọng buồn rầu, rồi chợt biến thành kinh dị kỳ quái, rồi thành ra vẻ sùng kính, cô lẩm bẩm nói : “Thiên … thiên hạ lại có được người đẹp đến thế này ư! Phạm Lãi, nàng so với những gì tướng công đã tả còn đẹp hơn nhiều ”. (A Thanh kiểm thượng đích sát khí tiệm tiệm tiêu thất, biến thành liễu thất vọng hòa thư táng, tái biến thành liễu kinh kỳ, tiễn mộ, biến thành liễu sùng kính, nam nam đích thuyết : “Thiên … thiên hạ cánh hữu giá … dạng đích mỹ nhân! Phạm Lãi... tha tỷ nễ thuyết đích hoàn … hoàn yếu mỹ.”).
Đoạn văn mô tả diễn biến tâm lý từ ghen tương đến buồn rầu thất vọng, rồi chuyển thành kinh dị, sùng kính, đọc lên nghe như một bài Ô thê khúc bằng văn xuôi. Tây Thi bất tử không nhờ những giai thoại hay văn thơ ca ngợi, mà chính là nhờ nỗi sững sờ thất vọng của một cô bé chăn dê.
Không một chữ nào nói đến vẻ đẹp của Tây Thi, nhưng cái dung nhan tuyệt diễm đó được phản chiều toàn bộ trên gương mặt của A Thanh. Nhan sắc Tây Thi đã khiến cô không còn dám nghĩ đến chuyện ghen tương nữa. Cô không dám đẩy mạnh cây gậy trúc đã đặt nơi tâm khẩu Tây Thi, có lẽ vì sợ mang tội phá hủy một tuyệt tác của hóa công. Cô bèn hú lên một tiếng thật dài rồi nhảy qua cửa sổ mà đi mất, để lại sau lưng hình ảnh Tây Thi ôm ngực vì dư kình của cây gậy trúc. “Tây Tử phủng tâm” (Tây Thi ôm ngực) hơn mấy ngàn năm qua vẫn là hình ảnh đẹp nhất giữa cõi nhân gian, nối tiếp cung bậc thượng thừa của Ô thê khúc!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét