DIỆT TUYỆT SƯ THÁI: QUÁI TƯỢNG CHỐN THIỀN MÔN
Đạo Phật chủ trương thập loại chúng sinh đều bình đẳng trước Phật pháp, nên luôn luôn mở rộng cửa cho mọi người. Chúng sinh vô lượng, căn cơ vô lượng nên phải có vô vàn con đường dẫn đến cửa thiền. Chư pháp, do đó, không thể có hình tướng nhất định mà chư Phật cứ tùy theo căn cơ để hóa độ chúng sinh.
Không ít người, do không hiểu được những yếu tố sơ đẳng trong Phật học, cho rằng đạo Phật chỉ đưa con người đến chỗ bế tắc (!). Họ quên rằng có quá nhiều kẻ trốn vào thiền môn chỉ vì một lý do đơn giản là bị bế tắc khi đối diện với cõi thế. Bế tắc trong tư tưởng, trong tình cảm, thậm chí trong cơm áo. Thuở đức Phật còn tại thế, ngài đã từng cảnh báo có những kẻ quy y theo Phật chỉ để kiếm cơm! Thuở đó còn vậy, huống gì đến thời mạt pháp. Đối với những kẻ bế tắc đó thì Phật pháp, dù có quãng đại và nhiệm mầu đến mấy, cũng chỉ là một loại “cần câu cơm” giúp họ tạm thời làm ổn định những cơn quậy phá của cái bao tử rỗng, hoặc một loại “si rô an thần” giúp họ làm dịu đi những cơn khủng hoảng thần kinh!
Hàng mấy ngàn năm qua, tinh thần bao dung của Phật giáo luôn mở rộng vòng tay để đón nhận bao nhiêu bậc lợi căn pháp khí, xả thân cầu pháp thì đồng thời cũng đón nhận không ít rác bẩn bay theo làm ô uế chốn thiền môn.
Trong tác phẩm Kim Dung, bên cạnh môn phái Thiếu Lâm được xem như biểu tượng cho cái nôi võ học Trung nguyên và võ học Phật môn, còn có các môn phái của ni cô như Nga Mi, Hằng Sơn; hay phái Lạt Ma Tây Tạng hoặc Huyết Đao môn. Và trong những môn phái thờ Phật đó cũng có đủ dạng chúng sinh, đủ loại môn đồ. Bên cạnh những cao tăng đắc đạo, cũng không thiếu những người muốn chạy trốn cõi nhân sinh hay những kẻ lưu manh thủ đoạn, vào cửa chùa để lợi dụng tấm áo cà sa. Có người đến với cửa Thiền vì khát khao tìm cầu diệu pháp trong cõi thanh tĩnh Như Lai, cho nên ta có những bậc giác ngộ như Độ Nạn, Độ Kiếp, Độ Ách, hay những vị cao tăng xả thân vì đời như Không Kiến, bao dung như Phương Sinh, Phương Chứng, khoáng đạt như Vô Sắc, từ hòa như Định Nhàn, thần thông như vị vô danh tăng trong Tàng kinh các. Có kẻ đại trí đại dũng do “buông đao mà thành Phật” vì cơ duyên chín mùi để họ ngộ ra điều nhiệm mầu trong hai chữ “sắc không” mà quy y của Phật, như Tiêu Viễn Sơn, Mộ Dung Bác, Tạ Tốn.
Có kẻ tìm đến cửa chùa chỉ vì muốn lợi dụng cửa Thiền để thực hiện những thủ đoạn thâm độc như Viên Chân. Có kẻ gian hùng tìm đến cửa chùa để tạm trốn lánh qua những ngày đói rét, và theo đuổi giấc mơ trục lộc như Chu Nguyên Chương. Có kẻ tìm đến chùa để chạy trốn quá khứ như Mục Niệm Từ. Có kẻ tìm đến cửa chùa chỉ vì muốn cưới ni cô (!) như Bất Giới hòa thượng. Có kẻ “bị đi tu” như Điền Bá Quang. Có người từ tấm bé do hoàn cảnh đưa đến với cửa Phật, nên đành phải âm thầm chấp nhận tấm áo nâu sòng mà gạt lệ làm ngơ trước cõi đời xuân sắc, như Nghi Lâm và Viên Tính.
Do có hàng ngàn lý do đưa đẩy con người đi tu, cho nên chốn cửa Phật cũng có vô vàn nhân cách. Có kẻ làm bậc quốc sư của một nước, hằng năm vào Đại tuyết sơn để đăng đàn thuyết pháp, nhưng tâm lại đắm chìm trong cõi tham sân si một cách bệnh hoạn như Cưu Ma Trí. Bên cạnh những bậc đại trí đại bi cũng có những đại sư gàn dỡ như Giác Viễn, ngớ ngẩn như Hối Thông, hậu đậu như Hư Trúc, hồ đồ như Viên Âm, ác độc như Hỏa Công đầu đà, dâm đãng như đám thầy trò Huyết đao môn, cố chấp như các đại sư Đạt ma đường. Nhưng có lẽ chỉ có một con người quái dị đến với của thiền bằng cả tấm lòng thành nhưng sát tâm còn nặng hơn cả những ma đầu ngoài đời : đó là Diệt Tuyệt sư thái.
Tôi không rõ Kim Dung, khi xây dựng nhân vật Diệt Tuyệt sư thái, có dựa vào một nguyên mẫu nào ngoài đời hay không. Nếu có thì đó quả là thảm họa cho Phật giáo.
Diệt Tuyệt sư thái là chưởng môn đời thứ ba của phái Nga My. Chỉ vì người yêu là Cô Hồng Tử chết về tay Dương Tiêu mà bà đem cả lòng phẫn hận đổ hết lên giáo đồ Minh giáo. Đối với giáo đồ Minh giáo, bà chỉ có một lập trường duy nhất là phải giết sạch. Diệt Tuyệt. Bà sáng tạo hai pho kiếm pháp “Diệt kiếm” và “Tuyệt kiếm” để thực hiện ý đồ của mình. Cái sát tâm kinh dị đó hoàn toàn đi ngược lại nền đạo lý thông thường, chứ chưa nói đến việc làm tổn thương một tôn giáo lấy từ bi làm gốc như Phật giáo. Nếu kinh điển chép rằng đức Phật, qua vô số những tiền thân, từng hân hoan xả thân để cứu độ con người hay cứu những sinh vật bé nhỏ theo tinh thần Bố thí Ba la mật, thì môn đồ ngài là Diệt Tuyệt sư thái lại có thể ung dung giết sạch những người mà bà tự xem là phe đối nghịch. Cảnh tượng một ni cô cầm Ỷ Thiên kiếm lạnh lùng chém những giáo đồ Minh giáo giữa sa mạc mà không một chút băn khoăn, khi những người này không còn khả năng chống cự và thản nhiên ngồi tụng kinh siêu độ nói về cõi thế vô thường, cảnh tượng đó nói lên được toàn bộ sự bất lực của bạo lực trước đức tin. Là môn đồ cửa Phật, lẽ ra chính Diệt Tuyệt sư thái phải hiểu được điều đó hơn ai hết. Nhưng bà vẫn làm điều đó có lẽ vì tự trong thâm tâm bà hiểu rằng bà chỉ tiêu diệt “tà ma ngoại đạo” trên danh nghĩa, nhưng thực ra là để báo thù riêng. Thậm chí bà còn biến mối tư thù của mình thành tôn chỉ cho môn đệ. Thân nương nhờ cửa Phật mà tâm chỉ toan tính chuyện báo thù, đó quả là điều gây kinh hãi suốt cổ kim.
Khi bà biết Kỷ Hiểu Phù đã có con với Dương Tiêu, bà vẫn không ngần ngại bỏ qua tất cả để truyền chức chưởng môn cho Kỷ Hiểu Phù, và chỉ yêu cầu một điều là nàng phải tìm cách giết Dương Tiêu. Buộc đồ đệ giết chồng để được truyền y bát, vị sư thái kia đã hành xử bá đạo hơn cả những kẻ đại ma đầu, nhưng bà vẫn ngang nhiên giương cao lá cờ “tiêu diệt tà ma”. Khi tâm con người đã bám sâu vào định kiến thì họ vẫn thường có những sự cố chấp kỳ lạ đến mức ngu xuẩn. Khi Kỷ Hiểu Phù, vì tiếng nói chân chính của con tim, lắc đầu từ chối thì bà thản nhiên vung chưởng đập vỡ sọ môn đồ. Bà vì muốn Nga My hiển danh trên chốn giang hồ mà không từ bỏ bất kỳ một thủ đoạn nào. Khi bị giam cầm tại chùa Vạn An, bà truyền chức chưởng môn đời thứ tư cho Chu Chỉ Nhược chỉ để Chu Chỉ Nhược sẽ tiếp tục ý định của mình. Ngôi chưởng môn tôn quý từ khi sư tổ Quách Tường sáng lập, đến tay Diệt Tuyệt sư thái đã biến thành miếng mối đem ra để nhử môn đồ. Bà là người duy nhất biết được bí ẩn trong thanh đao Đố long và thanh kiếm Ỷ thiên, nên căn dặn Chu Chỉ Nhược bằng mọi cách phải chiếm đoạt cho được. Bà biết giữa Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược có mối tình thanh mai trúc mã nên đề nghị Chu Chỉ Nhược nếu cần thì dùng “mỹ nhân kế” dụ dỗ Trương Vô Kỵ để chiếm được đao Đồ long. Bà mong muốn Chu Chỉ Nhược, sau khi học được hai bí cấp võ công trong đao lẫn kiếm, sẽ trở nên nhân vật vô địch trong thiên hạ, và do đó Nga My sẽ là Thái sơn Bắc đẩu của võ lâm.
Dùng thủ đoạn “mỹ nhân kế” đã là hạ sách, mà đối với môn đệ Nga My thì việc đó lại càng hạ lưu thô bỉ, nhưng người đọc cũng có thể tạm cảm thông với bà, xem như đó là chuyện quyền biến tạm thời để thực hiện tâm nguyện muốn hoằng dương môn phái của một vị chưởng môn. Điều kinh khủng nhất là bà bắt Chu Chỉ Nhược phải thế độc với bà là nếu nàng lấy Trương Vô Kỵ thì cha mẹ chết dưới mồ sẽ không được yên, bà sẽ biến thành quỷ ám ảnh suốt đời, nếu nàng sinh con trai thì con trai sẽ làm tôi tớ, sinh con gái thì con gái sẽ làm đĩ chốn thanh lâu. Lòng thù hận thâm độc một cách quái dị và tàn nhẫn một cách bệnh hoạn đến vậy, có lẽ cả đức Phật cũng phải không rét mà run!
Khi Trương Vô Kỵ dùng thần công Càn khôn đại na di cứu mọi người nhảy ra khỏi tháp lửa thì bà là người duy nhất chịu chết để khỏi mang ơn tên “tiểu dâm tặc ma giáo“ đó. Sự căm thù vô lý của bà khiến người đọc cũng khó lòng hiểu được bà nhận ra điểm xấu gì ở Trương Vô Kỵ. Có lẽ bà căm thù Trương Vô Kỵ chỉ vì anh ta là giáo chủ Minh giáo. Dưới mắt bà, giáo đồ phe Minh giáo đã toàn một loại xấu xa dâm đãng, huống gì giáo chủ còn sa đọa ghê tởm đến độ nào? Kết cục của chúng chỉ đáng kết thúc dưới thanh kiếm Ỷ Thiên của bà mà thôi. Đó có thể là lý do, nhưng chắc trong gì trong thâm tâm bà lại không ganh tỵ với thân phận của Trương Vô Kỵ và phe Minh giáo, mà theo bà lẽ ra là của Chu Chỉ Nhược với phái Nga My?
Là kẻ tu hành đứng đầu một môn phái lớn như Nga My, lẽ ra Diệt Tuyệt sư thái phải có được những sở đắc nhất định về Phật pháp để hiểu rằng chữ “ma” trong đạo Phật chỉ là khái niệm “ma chướng” che mờ Phật tính và ngăn cản con đường tu đạo, chứ nào phải là con người hay giáo phái cụ thể bị gán cho cái nhãn hiệu “tà ma”! Chính cái sát tâm bệnh hoạn của Diệt Tuyệt sư thái mới thực là cái “tà ma” cần diệt tuyệt. Kinh Niết Bàn chủ trương đến cả hạng người chuyên phỉ báng Phật pháp như Nhất xiển đề vẫn có thể thành Phật, thì những người phe Minh giáo bị cho là “tà ma ngoại đạo” đó há chẳng phải là những hạt giống của Như Lai? Với một tôn giáo lấy từ bi làm gốc như Phật giáo thì làm gì có khái niệm “tà ma ngoại đạo”, theo cách hiểu của Diệt Tuyệt sư thái, ở một CON NGƯỜI? Tiêu diệt “tà ma ngoại đạo“ thường bị lẫn lộn với việc tiêu diệt những con người cụ thể bị dán nhãn hiệu “tà ma ngoại đạo“. Chúng ta luôn bị lẫn lộn trong khái niệm và sự ngộ nhận đó đã gây ra biết bao thảm kịch trong suốt dòng lịch sử của nhân loại.
Chư Phật dùng vô lượng phương tiện thiện xảo để hiện ra vô lượng hóa thân, tùy căn cơ mà hóa độ vô lượng chúng sinh trong khắp tam thiên đại thiên thế giới. Phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, bảo:
”Người đáng dùng thân Duyên giác để độ giải thoát, liền hiện thân Duyên giác vì người đó mà thuyết pháp….
”Người đáng dùng thân cư sĩ để độ giải thoát, liền hiện thân cư sĩ vì người đó mà thuyết pháp….
”Người đáng dùng thân tỳ khưu ni để độ giải thoát, liền hiện thân tỳ khưu ni vì người đó mà thuyết pháp. …”
Nếu đức Phật xâm nhập vào chốn giang hồ thì, để hóa độ các nhân vật võ lâm, ắt hẳn ngài cũng sẽ có vô lượng hiện thân mà tùy nghi thuyết pháp. Với Lệnh Hồ Xung sẽ hiện thân lãng tử, với Tã Lãnh Thiền sẽ hiện thân Đại lực sĩ, với Hoàng Dược Sư sẽ hiện thân trưởng giả, với Nghi Lâm sẽ hiện thân đồng nữ, với Cưu Ma Trí sẽ hiện thân Năng đoạn kim cương Bồ Tát, với Tạ Tốn, Tiêu Viễn Sơn hay Mộ Dung Bác sẽ hiện thân Đại Tuệ Bồ Tát … Nhưng không hiểu đối với loại ni cô quái dị như Diệt Tuyệt sư thái, muốn thuyết pháp hóa độ thì đức Phật sẽ hiện thân gì?
LĂNG SƯƠNG HOA: CÁI CHẾT CỦA NHÀNH LỤC CÚC
Khi sáng tạo nên cái trần gian điên dại và đầy hương sắc này, thì vẻ hùng vĩ của biển rộng núi cao, nét xinh tươi của oanh ca liễu rũ, sự thơ mộng của trăng hoa sương tuyết, tiếng róc rách của sông lạch suối khe … dường như chưa làm hài lòng đấng Hóa công, nên ngài phải sáng tạo thêm người phụ nữ. Dường như mọi phụ nữ trên cõi đời này hiểu rằng Thượng Đế tạo ra họ là để điểm tô thêm cho cái trần gian vốn đã đầy hương sắc, cho nên tự ngàn xưa, đối với họ, giữ gìn sắc đẹp vẫn luôn là điều cực kỳ trọng đại.
Với phụ nữ, nhan sắc lắm khi còn quan trọng hơn cả mạng sống. Nhậm Doanh Doanh, khi bị Nhạc Bất Quần dùng lưới bắt tại Hoa Sơn thì nàng hiểu rằng cái chết là điều tất yếu, vậy mà khi Nhạc Bất Quần muốn hủy hoại nhan sắc nàng thì nàng lại hoảng kinh. Chu Chỉ Nhược khi bị giam tại chùa Vạn An cùng bao nhân vật của Lục đại môn phái, thì chuyện sống chết đã sớm bỏ ngoài lòng, nhưng khi Triệu Mẫn dọa dùng dao rạch mặt thì cô lại xiêu hồn lạc phách. Cả cô nàng Triệu Mẫn bướng bỉnh tinh quái là thế cũng không khỏi đứng tim, khi Thanh dực bức vương Vi Nhất Tiếu cảnh báo sẽ hủy hoại khuôn mặt kiều diễm của cô, nếu như cô đụng tới Chu Chỉ Nhược. Khang Mẫn bị A Tử hành hạ dã man nhưng vẫn còn tỉnh táo để tỏ tình với Tiêu Phong, cô nàng không chết vì các vết thương trí mạng mà chết vì đau khổ và kinh hãi khi soi thấy khuôn mặt bị tàn phá của mình trong tấm gương đồng. Chúng ta không thể cay đắng như Hamlet của Shakespeare : “God hath given you a face, and you make yourselves another” (Thượng Đế đã ban cho ngươi một gương mặt, và ngươi đã tự biến mình thành một gương mặt khác – Hamlet- Act II, Scene 1, 153-154), bởi lẽ phụ nữ vẫn còn muốn làm đẹp ngay cả khi đi đối diện với Diêm Vương! Chả trách nền công nghiệp mỹ phẩm trên thế giới lại thu được những món tiền khổng lồ từ thói đỏm dáng đáng yêu của phụ nữ.
Giai thoại thiền tông Nhật Bản kể rằng ni cô Ryonen, sinh năm 1797, là một người có nhan sắc quyến rũ và thiên tài về thi ca. Năm mười bảy tuổi, bà phục vụ cho hoàng hậu; tương lai rực rỡ đang chờ đón bà như một công nương của triều đình. Bỗng nhiên hoàng hậu qua đời, bà chợt ngộ ra lẽ vô thường của cõi thế, nên xuống tóc đi tu. Bà đến thành phố Endo xin làm đệ tử của thiền sư Tetsugyu, nhưng vị thiền sư này từ chối vì bà quá đẹp. Vị thiền sư đó hiểu rằng cái nhan sắc lộng lẫy đó tuy là báu vật của trần gian, nhưng lại không thể phù hợp với chốn thiền môn vốn luôn đạm bạc với cuộc sống nâu sòng. Ắt hẵn nó sẽ gây nên ba đào nơi của Phật. Tâm bà tuy không động nhưng sẽ làm lụy đến tâm người. Bà bèn tìm đến thiền sư Hakuo, nhưng vị thiền sư này cũng từ chối với lý do trên. Ryonen hiểu rằng chính nhan sắc đẹp đẽ của bà là vật chướng ngại ngăn cản không cho mình đạt được điều tâm nguyện, nên bà bèn dùng lửa nóng hủy hoại hết khuôn mặt xinh đẹp; nhờ đó bà mới được thiền sư Hakuo nhận làm đệ tử. Và cũng nhờ thế mà bà mới chuyên chú vào việc tu thiền và trở thành một thiền sư nổi tiếng.
Hủy hoại dung mạo để cầu đạo, ni cô Ryonen đã làm một việc còn kỳ diệu hơn cả việc nhị tổ Huệ Khả quỳ giữa trời tuyết, cắt một cánh tay dâng lên sơ tổ Đạt Ma để xin truyền tâm ấn. Ni cô Ryonen có lẽ là một hiện tượng hiếm hoi và kỳ lạ của thiền môn, bởi lẽ đâu phải người con gái nào đem thân bỏ chốn am mây cũng đều ngộ ra lẽ vô thường của hai chữ “sắc không”. Nhan sắc đó cũng là hư không đấy. Chỉ có những tâm hồn thiết tha cầu đạo như Ryonen khi ngộ được lẽ “bất trụ sắc sinh tâm, ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”65 và “nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai 66” của kinh Kim Cương thì mới có thể thực hiện được điều kỳ diệu đó. Cái tìm được sẽ lớn hơn hắng vạn lần cái nhan sắc mất đi : đó là thành toàn được điều tâm nguyện. Việc xả thân cầu đạo đó dù kỳ lạ nhưng vẫn có thể xảy ra, vì khi tuệ kiếm vung lên là trần duyên đứt đoạn. Cái thân xác này, khi được quán tưởng đến chỗ rốt ráo, cũng chỉ là cái túi da đựng bao điều nhơ bẩn, thì nào sá gì một chút dung nhan? Nhưng đó là chuyện chốn thiền môn, còn ở trần gian đầy sai biệt nay thì con người vẫn cứ vĩnh viễn đội mũ triều thiên lên nhan sắc. Vì nếu không thế thì cuộc đời ắt sẽ u ám và buồn tẻ lắm biết ngần nào!
Vậy mà vẫn có một người con gái dám hủy hoại dung nhan kiều diễm của mình để giữ trọn sự thủy chung với người chỉ một lần gặp gỡ: đó là Lăng Sương Hoa trong Liên Thành Quyết.
Đinh Điển là người mê hoa. Tình cờ trong một buổi dạo chơi hội hoa cúc, Đinh Điển gặp được đệ nhất mỹ nhân vùng Vũ Hán là Lăng Sương Hoa, tiểu thư của quan tri phủ Lăng Thoái Tư. Sự đồng cảm trong những giò lục cúc đã đem hai người lại gần nhau. Tình yêu âm thầm nảy nở giữa một kẻ lang bạt giang hồ với một tiểu thư khuê các. Những cành hoa tươi thắm và ngáthương đã chứng kiến cho mối tình của họ và làm băng nhân cho những lần gặp gỡ. “Tôi cùng em mơ những chốn nào. Ước nguyền chung giấc mộng trăng sao. Sánh vai một mái lầu phong nguyệt. Hoa bướm vì em nghiêng cánh trao” (Đinh Hùng- Phạm Đình Chương).
Lăng Thoái Tư là một người văn võ song toàn, y là một long đầu trong Long sa bang lại thi đỗ tiến sĩ, làm Hàn Lâm học sĩ. Y nuôi tham vọng tìm được kho tàng của Lương Nguyên đế và luyện được Thần Chiếu công. Biết được Đinh Điển đang cất giữ Liên thành quyết - bộ giải mã những bí ẩn về chỗ cất giấu kho tàng- và bí cấp Thần Chiếu công, nên Lăng Thoái Tư lập mưu chiếm đoạt. Y vờ cho Lăng Sương Hoa mời Đinh Điển đến để bàn chuyện tác hợp lương duyên, ròi dùng hoa độc tẫm thuốc mê để bắt Đinh Điển. Sống trong cảnh tra tấn dã man chốn lao tù, với xương tỳ bà đã bị xuyên thủng, nhưng Đinh Điển vãn tìm thấy được nguồn an ủi. Hằng ngày, anh ta từ cửa sổ nhà lao nhìn lên mái lầu xa, vẫn luôn thấy được những chậu hoa đặt nơi cửa sổ của phòng Lăng Sương Hoa, như một biểu tượng của tình yêu. Cảnh đưa tin của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa giống như anh chàng Hời trong truỵên Tô Hoài. Một người ngồi dệt vải, khi nghe mùi hương thoang thoảng lan trong cảnh đêm thanh tĩnh của cánh hoa lài ném qua của sổ, là biết đã đến giờ hẹn với người yêu.
Sương Hoa sợ cha ép duyên nên nàng quyết định hủy hoại dung nhan để không còn ai muốn cưới mình nữa. Chỉ có vậy nàng mới có thể giữ trọn tình yêu son sắt với Đinh Điển. Một quyết định làm người đọc tê buốt tâm can, vì điều đó ngẫm ra còn kinh khủng hơn tự vẫn. Chỉ có một sự hòa điệu của cung bậc tri âm trong tình yêu chân chính mới có thể giúp người con gái xinh đẹp làm một điều mà cả Thượng Đế cũng phải bàng hoàng. Nàng không muốn xuất hiện với khuôn mặt xấu xí, mà để những chậu hoa thay mặt cho mình ngõ những lời yêu. Hoa thay dáng người. Hoa còn là người còn, và tình yêu vẫn còn ngát xanh màu lục cúc. Gặp nhau và yêu nhau nhờ những cành hoa, truyền tin cho nhau cũng nhờ những cành hoa. Mối tình thơ mộng đó phải vĩnh viễn bị cách ngăn bởi lòng tham ngu xuẫn của người cha. Mà tự cổ chí kim, có kẻ nào bị lòng tham chi phối mà lại không trở nên ngu xuẫn, và do đó dễ trở nên tàn bạo?
Khi Lăng Sương Hoa qua đời trong u sầu đau khổ, Lăng Thoái Tư còn âm hiểm rắc thuốc độc lên quan tài để đánh lừa Đinh Điển. Kẻ si tình đến ôm quan tài và trúng ngay chất độc của hoa Kim Ba Tuần. Nhưng Lăng Thoái Tư đã làm một điều thừa. Làm sao Đinh Điển có thể sống được nữa khi Lăng Sương Hoa đã vì mình mà qua đời trong sầu hận? Địch Vân hợp táng nắm tro tàn của Đinh Điển vào nấm mộ Lăng Sương Hoa, và trồng hoa thật nhiều quanh mộ để đôi tình nhân được yên nghĩ giữa ngàn hoa. Trong vở kịch Hamlet, khi hoàng hậu Gertrude rắc hoa lên nấm mộ của Ophelia đã nói những lời tha thiết, mà ta muốn dùng để khắc lên nấm mộ Lăng Sương Hoa “Sweets to the sweet! Farewell!” (Những nhánh hoa dịu dàng xin gởi đến một cành hoa đằm thắm. Xin vĩnh việt) (Shakespeare- Hamlet, Act V, Scene I, 239)
Chinh phục được trái tim của người mình yêu, chịu chấp nhận thiệt thòi để tìm thấy hạnh phúc. Điều đó dễ. Khi biết rằng trái tim người mình yêu đã vĩnh viễn thuộc về kẻ khác nên biến sự thất vọng thành hận thù, đem tang tóc gieo rắc khắp thiên hạ để trút nỗi hờn căm, như Lý Mạc Sầu hoặc Mai Phương Cô, điều đó tuy có quá quắt nhưng vẫn là chuyện thường tình. Biết rằng người mình yêu đã tìm thấy hạnh phúc nơi người khác, nên chấp nhận hy sinh tình yêu và, trong nỗi cô đơn đau đớn, cứ mãi âm thầm cầu nguyện cho họ được hạnh phúc bằng tất cả trái tim, như Nghi Lâm, điều đó khó. Nhưng trong tình yêu đam mê vô vọng lại dám chấp nhận chết thay cho người mình yêu để họ được hạnh phúc với người khác, như Trình Linh Tố và Công Tôn Lục Ngạc, điều đó cực khó. Nhưng càng khó hơn nữa khi một người con gái xinh đẹp dám hủy hoại dung nhan để giữ trọn chữ thủy chung. Sự hy sinh kỳ diệu đó chỉ xảy ra với những người người phụ nữ dịu hiền có trái tim nhân hậu bao dung.
Tình yêu thuần khiết đó được nâng lên tầm một tôn giáo, và kẻ si tình sẽ như kẻ hành hương đi tìm về tuyệt đích, trong hình ảnh của người thương. Du Thản Chi là kẻ si tình vĩ đại nhưng mối tình cuồng si dữ dội đó vẫn cứ quằn quại đớn đau trong nỗ lực chiếm hữu đầy tuyệt vọng. Nó thiếu đi một chút thanh thản của một tín đồ đã “giác ngộ”. Tình yêu của Lăng Sương Hoa sẽ mãi thắp sáng lên trong tâm thức nhân gian những ánh lửa nhiệm màu, mà chúng ta đôi lần thấy thấp thoáng trong Gitanjali của Tagore. Và trong ánh lửa đó vẫn hoài ánh lên màu thắm tươi của một nhành lục cúc.
ĐOÀN NAM ĐẾ: LỤY PHÙ DANH
Thố tủy vị hoàn tân đại dược
Báo bì nhưng lụy cựu phù danh
(Tủy thỏ chưa xong liều thuốc mới
Da beo còn lụy chút danh hờ)
(Nguyễn Du)
Tương truyền khi vi hành vùng Giang Nam, có lần vua Càn Long cùng với viên cận thần đứng ngắm cảnh trên một bến sống tấp nập, ông bảo :”Nhà ngươi thấy có bao nhiêu thuyền bè qua lại trên sông?”. Viên cận thần tâu :”Tâu bệ hạ, thuyền bè qua lại nhiều quá, vi thần làm sao đếm cho xuể”. Ông cười bảo : ”Trong mắt ta, ta chỉ thấy có hai chiếc mà thôi!”. Viên cận thần ngơ ngác hỏi :”Vi thần ngu dốt không hiểu”. Nhà vua bèn giải thích : “Cả trăm ngàn con thuyền xuôi ngược nhưng thật ra chỉ có hai chiếc, một chiếc tên Danh, đó là thuyền của các quan lại và bọn danh sĩ, một chiếc tên Lợi, đó là thuyền của các con buôn!”. Nếu giai thoại đó đúng thì ông vua nhà Thanh kia quả là người cực kỳ minh triết. Có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các con thuyền đó đều vì Danh hoặc vì Lợi mà ngược xuôi trên sông nước. Thậm chí những kẻ thả thuyền trôi nổi trên sông để ngâm phong vịnh nguyệt, khinh thường quan chức biết đâu trong thâm tâm cũng vì chữ danh: muốn mua được tiếng “cuồng sĩ” hoặc chữ “thanh cao”. Câu nói không chỉ đúng cho bến sông lúc đó mà chắc chắn mãi mãi còn đúng cho khắp “cõi người ta”! Con người ta xuôi ngược lao lướt cả đời cũng chỉ vì hai chữ lợi danh. Lợi, nếu thực tình muốn tránh, còn có thể tránh được nhưng muốn tránh được chữ danh thì quả thực đó là vấn đề vô cùng vi tế.
Tên gọi (danh) là cái phù hiệu để gọi và xác minh sự tồn tại của một đối tượng. Chữ danh 名 trong tiếng Hán được cấu tạo bởi hai chữ “tịch” 夕 (buổi chiều) và chữ “khẩu”口 (cái miệng), nghĩa đen là “cái được gọi khi chiều tối”. Theo Thuyết văn giải tự của Hứa Thận thì “Tên để tự xác định mình, từ miệng mà gọi. Gọi khi chiều tối, chiều tối thì không thấy nhau, nên mới phải dùng miệng để gọi tên”. Người ta khi chiều tối gặp nhau nhưng không thể thấy rõ mặt nhau, thì cần phải “dùng miệng để xưng tên”. Như vậy, xưng tên có nghĩa là xác định sự tồn tại, bằng thanh sắc hoặc bằng ý niệm, của một đối tượng.
Lợi được dùng để đảm bảo và xác định sự tồn tại đã đành, mà Danh cũng vậy. Nhà cao cửa rộng, của cải đầy kho hiển nhiên là những yếu tố cơ bản để đem lại cảm giác bình yên cho sự tồn tại. Nhưng bên cạnh đó, con người ta muốn được nhiều người biết đến, nghĩa là muốn được “gọi nhiều”; sự ham muốn đó ngẫm ra từ căn để chỉ là muốn tìm thêm cảm giác bình yên để xác định sự tồn tại của mình. Không hiểu sao chữ Danh trong một vài ngôn ngữ đông tây lại có điểm trùng hợp khi vừa có nghĩa là tên gọi lại (name) lại vừa được chuyển dần thành danh tiếng (fame; reputation). Nổi tiếng, có nghĩa là được nhiều người nhắc đến, điều đó củng cố ý thức bình yên về sự tồn tại của bản thân, từ đó con người tự cảm thấy một sự thỏa mãn và ổn định tâm lý. Con người vẫn luôn sợ hãi cái trống rỗng hư vô vì sợ phải đối diện với sự đớn hèn, nhỏ nhoi, vô nghĩa của chính mình. Muốn nổi tiếng, suy cho cùng, chỉ là cảm thức đớn hèn muốn chạy trốn sự thực trần trụi và sự cô đơn. Càng muốn nổi tiếng là càng cảm nhận được sự đớn hèn của mình một cách vô thức, nên phải tìm cách khỏa lấp.
Xứ châu Phi có câu truyện cổ rất đơn giản nhưng ý nghĩa lại vô cùng sâu sắc. Có một người thợ săn vào rừng rối mất tích, để lại người vợ và ba đứa con trai còn nhỏ dại. Dân làng cho rằng anh ta đã bị sư tử ăn thịt, câu chuyện rồi cũng bị lãng quên. Đứa con đầu lớn lên và học thành nghề nặn tượng sinh động như thật; người con thứ hai học nghề phù thủy và có phép biến một vật chết thành một vật sống; người con út chỉ ở nhà làm lụng chăm lo cho người mẹ. Một hôm cả nhà đang ăn cơm, người con út bỗng hỏi : “Bố mất tích đã lâu, sao anh em ta không đi tìm bố?”. Ba anh em bèn vào rừng. Người con út tìm thấy một bộ xương và biết đó là xương của bố mình; người con cả bèn lấy đất sét nặn lại thành người bố trông giống như thật; cuối cùng người con thứ hai làm phép cho người bố sống lại. Bốn cha con ôm nhau mừng rỡ và cùng về nhà. Cả nhà đoàn tụ, hai người con đầu tranh công với nhau về việc đã cứu người bố sống lại; nhưng người bố ôn tồn bảo : ”Chính con út mới có công lớn nhất vì đã nhắc đến bố. Khi ta còn nhớ đến ai thì người đó vẫn còn sống!”.
Câu kết luận quả đầy minh triết và đẹp như một bài thơ. Chỉ có trí tuệ dân gian mới có thể đúc kết được ý nghĩa sâu sắc như thế trong một câu nói cùng cực giản đơn. Cỏ cây, sỏi đá … đều có thể tồn tại độc lập với ý thức con người, trừ chính con người, có lẽ bởi chỉ có con người mới có cảm thức về cô đơn, và xao xuyến trước cõi hư vô! Con người chỉ cảm nhận một cách thỏa mãn về sự tồn tại của mình khi con-người-tồn-tại-trong-thân-xác tồn tại đồng thời với con-người-tồn- tại-trong-sự-nhớ-tưởng-của-người-khác. Bị lãng quên có nghĩa là không còn tồn tại trong ý thức của người khác, điều đó quả là nỗi kinh hoàng, nhất là đối với những người đã “lỡ” nổi tiếng. Tránh được hệ lụy vì cái danh là vấn đề vô cùng vi tế, và chỉ có các bậc chân nhân mới có thể cảm nhận được sự tĩnh lặng mênh mông trong cõi vô danh, nghĩa là trong sự quên lãng của người đời.
Cụ Nguyễn Du nhà ta viết về ngôi chùa của sư Giác Duyên bằng hai câu bí hiểm, mà ngoài nhà thơ Bùi Giáng ra, tôi chưa thấy ai quan tâm đến :
Chùa đâu trông thấy nẻo xa
Rành rành Chiêu Ẩn am ba chữ bài.
Nghĩ cũng lạ, đã một mực “Chiêu ẩn” rồi, nghĩa là đã muốn gọi con người lánh xa cõi hồng trần rồi nhưng lại vẫn cứ phải mang cái sự “Chiêu ẩn” để “rành rành” bày ra đấy, cho cả bàn dân thiên hạ, dù ở thật xa, cũng đều trông cho rõ! Tại sao cụ không viết là “Lờ mờ Chiêu Ẩn am ba chữ bài” hoặc ”Chiêu Ẩn am thấp thoáng ba chữ bài” v.v…hoặc những câu đại loại như thế để phù hợp với ý nghĩa của hai chữ Chiêu ẩn? Câu thơ đó dĩ nhiên mang nhiều ý nghĩa mênh mông trên bình diện ontologique, mà chỉ có những tâm hồn thượng đạt không bị vướng víu vào cái trò tranh luận rối rắm và vô ích về ngôn ngữ truyện Kiều, như Bùi Giáng, mới cảm nhận ra. Ở đây tôi chỉ mạn phép thiên tài Tố Như xin dời hai câu thơ lục bát kỳ diệu đó xuống bình diện ngữ ngôn. Cõi người ta có biết bao nhiêu kẻ muốn sống bất cần đời, nhưng trong thâm tâm lại muốn đời cần đến mình. Rất cần nữa là khác. Lại có không ít những kẻ luôn luôn muốn đám đông kia phải biết rằng mình là kẻ đang sống cô đơn, xa lánh đám đông để đắm chìm trong những nỗi cô liêu trầm mặc! Những kẻ đó thường phải “triển lãm” sự cô đơn vì e ngại rằng không có ai biết rằng mình đang cần cô đơn! Đó cũng là loại “Rành rành Chiêu Ẩn am ba chữ bài” vì ba chữ “lụy phù danh”.
Truyền thuyết Trung Quốc kể rằng vua Nghiêu nghe tiếng Hứa Do là người hiền nên cho người mời đến bàn chuyện truyền ngôi. Hứa Do nghe xong bèn đi xuống suối rửa tai vì cho rằng những lời đó làm bẩn tai mình. Sào Phủ đang cho trâu uống nước, thấy vậy bèn hỏi. Sau khi nghe chuyện, Sào Phủ lặng lẽ dẫn trâu lên vùng nước cao hơn để uống vì cho rằng nước rửa tai đó làm “ô nhiễm” cho cả trâu mình! Hứa Do, ngay cả ngôi vua cũng không màng, có lẽ tự cho rằng mình đã thoát khỏi danh lợi, nhưng thực ra vẫn còn vướng víu ở chữ danh một cách vô cùng vi tế. Không màng danh lợi nhưng vẫn để cho vua Nghiêu biết được rằng mình là người thanh cao không màng danh lợi, (mà một ông vị vua biết có nghĩa là phải qua rất nhiều người trung gian!), há chẳng phải trong thâm tâm vẫn còn lụy vì danh hay sao? Sào Phù còn “chơi” cao hơn một bậc theo kiểu người nông dân chân chính bằng cách dắt trâu đi chơi chỗ khác.
Đoàn Nam đế trong Xạ điêu anh hùng truyện lại là một điển hình cho ba chữ lụy phù danh. Trước kỳ Hoa sơn luận kiếm giữa các đại cao thủ võ lâm để chọn ra vị Thiên hạ đệ nhất nhân, bang chủ Thiết chưởng bang là Cừu Thiên Nhận đã lén dùng thiết chưởng đánh tử thương đứa con tư sinh của Châu Bá Thông và Anh Cô- một ái phi của Đoàn nam đế-, với ý đồ buộc Anh Cô đem đứa bé đến nhờ Đoàn nam đế cứu chữa. Như thế y sẽ loại bỏ được một tay kình địch, vì vị vương gia kia sẽ phải tổn hao nội lực và không thể tham gia kỳ luận kiếm. Vị vương gia kia, do còn chút ghen và hận nhưng chính là vì lòng háo danh còn quá bồng bột, nên đã kiên quyết khước từ khi người mẹ khốn khổ kia ôm đứa con sơ sinh đến khóc lóc cầu xin ông cứu chữa. Kết quả là Anh Cô, như người điên loạn, rút kiếm đâm chết đứa bé với lời nguyền khủng khiếp sẽ trả thù.
Nếu tiếng khóc của hài nhi giữa đêm khuya thanh vắng trên Băng hỏa đảo đã đánh thức lương tri của con hùng sư Tạ Tốn trong cơn túy sát, thì cái chết của một hài nhi vô tội khác đã “khai ngộ” cho vị vương gia họ Đoàn nhận chân ra thực tướng của chút hư danh mà xuống tóc quy y thành Nhất Đăng đại sư! Một kẻ cố sát hài nhi, một kẻ ngộ sát hài nhi cũng chỉ vì chữ Danh. Than ôi, lụy phù danh gây nên tội nghiệt cho con người đâu khác gươm đao. Biết đâu số người chết vì chữ Danh còn nhiều hơn cả số người chết vì gươm đao trên chốn giang hồ! Cái chết của một hài nhi để trả giá cho cơn mê muội chữ Danh chắc chắn có giá trị “khai ngộ” gấp ngàn lần những lời thuyết giảng của các bậc chân sư đông tây kim cổ.
Hoát nhiên ngộ được chữ danh
Phiêu nhiên thành vị chân tăng giữa đời
Nhất Ðăng - Nam Ðế mấy người?
Đâu là đại sư Nhất Đăng, đâu là đấng vương gia Đoàn Nam đế? Hay tất cả cũng chỉ là cái hư ảo của phù danh? Hãy thử tĩnh tâm ngồi yên lặng mà ngẫm chữ Danh đến chỗ rốt ráo, ta sẽ thấy nó cũng chỉ cái hư không phù phiếm. Danh dùng để xác định cái thực, nhưng nếu cái thực đã thực-sự-là-thực rồi thì đâu cần gì đến cái Danh nữa? Cừu Thiên Nhận cũng được Nhất Đăng đại sư điểm hóa để quy y thành Từ Ân đại sư, nhưng vì nghiệp chướng quá nặng nên con đường đi đến giác ngộ còn tiệm tiến. Chỉ đến khi sắp chết thì vị đại sư đó mới tìm đến được những gì mà vị Nhất Đăng đại sư đã cảm thấy ngay sau cái chết cả một hài nhi vô tội.
Trong tác phẩm Kim kiếm điêu linh của Ngọa Long Sinh67, ba vị cao nhân võ lâm là Trang Sơn Bối, Nam Dật Công và Liễu Tiên Tử tự ẩn mình tuyệt tích trong núi hoang, tu tập võ công để hằng năm lại tỷ thí tranh nhau chức vô địch. Họ là những bậc cao nhân thực sự không muốn bỉết đến đời và cũng không thèm ai biết đến mình, nhưng vẫn cùng nhau tranh giành ngôi thứ chốn hoang sơn, bởi vì họ cũng còn bị hệ lụy bởi chữ Danh, dù đó là cái danh không được một ai nhắc đến và không có kẻ tung hô. Cái danh đã bủa một cái lưới vô hình vây chặt bọn họ từ thuở tráng niên, cho đến khi tro tàn thời gian bay bạc trắng cả mái đầu. Chính cơ duyên đã đưa cậu bé Tiêu Linh68 đến chốn hoang sơn để “khai ngộ” cho ba vị cao nhân tuyệt tục. Tiếng thở dài của Nam Dật Công chốn hoang sơn khi giật mình ngẫm lại, nghe thê lương như cơn gió lạnh thổi suốt cõi biển dâu.
Con báo vì lớp da mà bị chết, con người vì cái danh mà bị lụy. Những bậc tài hoa như Nguyễn Du muốn tĩnh tâm ẩn dật phải luôn hối tiếc vì đã lỡ bị đời khoác lên người “tấm da báo”, để phải than thở “Báo bì nhưng lụy cựu phù danh”; nhưng lại có những kẻ bản chất là giun dế vẫn cố khoác lên người “tấm da báo”, ngẫm cũng đáng thương. Chỉ khi nào con người có cơ duyên thấu triệt được thực tướng của chữ danh như Đoàn Nam đế thì có lẽ ngày đó cõi người ta mới thực sự là chốn lạc phúc trong cõi vô danh!
LAI RAI CHÉN RƯỢU GIANG HỒ-HUỲNH NGỌC CHIẾN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét