Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

CHIÊU “BÀNG XAO TRẮC KÍCH” VÀ VĂN HÓA TRONG TRANH LUẬN

CHIÊU “BÀNG XAO TRẮC KÍCH” VÀ VĂN HÓA TRONG TRANH LUẬN

Trải qua mấy ngàn m, lch sử nhân loại luôn đầy dẫy những cuộc chiến tranh. Ngưi ta đánh nhau bằng ơm đao, văn minh hơn thì đánh nhau bằng súng đạn. Điều đó đã đành. Nhưng dưng như súng đạn, ơm đao chưa làm thỏa mãn đưc thói ưa tranh đấu ca con người, những kẻ trí thức còn luôn tìm mọi cách để đánh nhau bằng ngòi bút! Mấy ngàn năm trôi qua, kể từ khi văn tự đưc phát minh trên cõi đi này, thì cũng ngần ấy năm con ngưi đem bao tâm huyết bút mực để tranh luận nhau về mọi thứ trên trời i đất. Cái thói háo danh của ngưi trí thức dầu sao cũng đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhân loại, ít ra về lĩnh vực sản xuất bút mực để phục vụ cho các cuộc bút chiến!

Kể ra thì bút chiến cũng một loại hình sinh hoạt văn hóa đáng để tôn trọng học hỏi, nếu như không những ngưi luôn giữ thái độ hùng hục lao vào đó như một dũng giác đấu để “hạ bệ cho đưc đối pơng, nhằm vào mục đích học thuật thì ít mà nhằm để khuyếch trương bản ngã cho cái thói háo danh thì nhiều. Ai cũng muốn tranh hơn. Đã mấy ai cố tĩnh tâm hiểu rằng trong những cuộc bút chiến đao to búa lớn đó, nào ai kẻ chiến thắng ai ngưi chu thất bi? Mà gẫm ra cho cùng kỳ lý thì những cuộc tranh luận đi loại như thế cũng chẳng đi đến đâu. những người trong cuc tranh luận ng như không bao gi bừng tnh để hiểu rằng kiến thức họ dùng để tham gia cuộc bút chiến thực sự của họ hay không, hay chỉ toàn những kiến thức cóp nhặt, vay mưn từ mọi nguồn tri thức, mà bất cứ người nào chút thông minh chu khó đọc sách đều thể th đắc một cách dễ dàng? Điều đó t cáo sự tầm tng về mọi mặt, như hai anh nghèo kiết xác chuyên đi vay mưn tiền để rồi khoe mẽ lẫn nhau!

Ni xưa chia ra làm ba loại hiểu biết : Sinh nhi tri, khốn nhi tri, học nhi tri. ngưi sinh ra đã biết, sinh nhi tri. Cái biết ấy chỉ dùng cho các bậc thánh nhân " t ngộ" (không cần đến thy mà vẫn hiểu biết), như Khổng T, Lão Tử, Thích Ca... Có ngưi do lâm vào cảnh khốn cùng mà biết, khn nhi tri. Như Văn ơng, khi b vua Trụ giam ngục Dũ Lý, đã nghiền ngẫm kinh Dch mà diễn lại các qu, để làm ra Hậu thiên bát quái, chuyển đổi Tiên thiên bát qi của Phục Hy. Còn hầu hết chúng ta lẽ đều do học mà biết, học nhi tri”. Từ đó mà nhìn thì "học nhi tri" cái tri thấp nht trong những cái tri ca con ngưi, nhưng điều quái gỡ đáng buồn cưi nhất con ngưi lại luôn luôn dùng những kiến thức vay mưn đó, những kiến thức tích lũy nhờ sách vở từ cơng, để huyên hoang vênh váo vi nhau.

Tất cả những cuộc tranh luận đó, nấp i những lớp vỏ nghe ra rt văn hóa, nhưng thực chất cũng chỉ ch danh”. Bên này lợi dụng hở của bên kia để công kích để tăng thêm giá tr (?) ca mình, còn bên bị công kích cũng hiếm khi chu nhận đó sai sót, mà luôn tìm mi cách để chống chế để phản đòn. Càng nguy hiểm ngu xuẩn hơn na khi không thiếu những ngưi đưc một chút tài năng li lăm le muốn làm ngự sử trên văn đàn, toan tính dùng ngòi bút để trấn áp thiên hạ, giống như ơng Trùng ơng dùng Nhất ơng ch để áp đảo mi cao thủ khắp bốn phương đông tây nam bắc. Thiên hạ đệ nhất nhân đâu phải chỉ cái danh hiệu mà các cao thủ lâm tuyệt đnh muốn tranh đoạt trong những cuộc Hoa sơn luận kiếm, cũng cái đích nhm tới của không ít những học giả, thông qua những trò luận bút. Chỉ khác một bên dùng công thể đổ máu trong cuộc đấu tử sinh, còn một bên thì dùng bút và đổ …. mực, trong những trận mm!

Đức Khổng Tử nói :”Ngưi quân tử ba điều răn : khi nhỏ, huyết khí chưa ổn đnh, cần răn ngừa về chuyện nữ sắc; đến khi tráng niên, huyết khí đang mạnh, cần răn ngừa về chuyên ham tranh đấu; đến khi v già, huyết khí đã suy, cần răn nga về vic muốn hơn ngưi”. (Khổng Tử viết : “Quân tử hữu tam giới : thiếu chi thi, huyết khí vị đnh, giới chi tại sắc; cập kỳ tráng dã, huyết khí phương cương, giới chi tại đấu; cp kỳ lão dã, huyết khí ký suy, gii chi tại đắc” - Luận Ngữ, Quý th,7). Các học giả cũng như các cao thủ võ lâm thưng ham chiến dấu thích đưc hơn ngưi mọi lứa tuổi, tráng niên trung niên lẫn lão niên, mà không cách răn ngừa đưc.

Tranh luận bằng ngòi bút đạt ch đạt đến đnh cao khi nào âm thầm dẫn dụ để đối phương cảm nhận đưc sự thực, mà không cần dùng đến những kiến thức vay mưn đưc diễn đạt qua những lời lẽ khoa trương. Điều quan trọng ngưi ngoài cuộc không hề hay biết, ging như Trương K dùng Càn khôn đại na di để âm thm hóa giải độc cho đối phương trên Quang Minh đnh. Nhưng về điểm này, l không ai sâu sắc nhân bản hơn A Tú trong Hiệp khách hành.

Sử Tiểu Thúy chỉ tranh hơi tức k với chồng Bạch Tự Tại- chưng môn phái Tuyết sơn- mà bỏ núi ra đi, mang theo cháu nội A Tú. sáng tạo ra môn Kim ô đao pháp” nhằm khắc chế Tuyết sơn kiếm pháp của chng. Tuyết mà gặp mặt tri (kim ô) thì kết quả không nói cũng đủ rõ. Muốn đánh bại đối phương chưa hẳn hận thù mà chỉ cốt để hả và dương danh với đời; tâm sự đó của Sử Tiểu Thúy cũng chính tâm bệnh của những học giả sính tranh luận bút chiến. Đ thực hin điều này, hai cháu phải gấp rút tập luyện ni công kết quả bị tẩu hỏa nhập ma. Chi tiết nho nh nhưng sâu sắc này sao lại ging với cảnh các học giả luôn tìm cách tra cứu những liệu giá trị nhất để kp thời tham gia bút chiến đến thế! Và không hiểu suốt cổ kim đã bao nhiêu học giả bị tẩu hỏa nhập ma tinh thần? Hai cháu phái Tuyết sơn may mắn nhờ thần công của Thạch Phá Thiên cứu mạng, còn các học gi lẽ ch còn cách chờ đến … cơ duyên. Mà si tâm càng nặng thì cơ duyên lại càng khó gặp.

Thạch Phá Thiên đưc Sử Tiểu Thúy nhận lại khai sơn đ đệ để chuẩn bị cho cuộc đấu với Bạch Vạn Kiếm, vừa là con trai bà vừa nhạc phụ ơng lai của Thch Phá Thiên. Đó mt cuộc tranh luận không khoan nhượng về công để bảo vệ cái danh. Thua thì thanh danh tàn tạ, còn thắng thì đưc huyên hoang với đi. A đã khéo léo dạy cho Thạch Phá Thiên chiêu “Bàng xao trắc kích để vừa bảo vệ đưc mình lại vừa cứu vãn đưc danh dự cho đối phương. “Bàng xao trắc kích nghĩa đẩy bên cạnh, đánh bên hông”. Đc điểm của chiêu này khi đánh cho đi phương sp rơi kiếm, t ngưi sử dụng bèn vờ chém một vài đao để đánh lừa người xem rồi thu đao lại, vòng tay cung kính nói công các hạ quá cao, chúng ta bất phân thắng bại, ti hạ xin hòa!”. Ngưi ngoài không một ai hay biết, ngỡ rằng cả hai xứng đáng kỳ phùng đch thủ (!), còn ngưi trong cuộc thì nhận ra đưc vấn đ mà không bị tổn thương danh dự. Chỉ những học giả o s dng đưc chiêu thức đó mới đạt đến đnh cao thực sự của tnh độ nhân cách trong tranh luận (ví dụ như Trần Trọng Kim khi tranh lun với Phan Khôi về Nho giáo).

Khổng Tử, một trong những nhà giáo dục đại nhất của mọi thời đại, đã cho hu thế nhiều bài hc cực kỳ sâu sắc. Ông ngưi tập đại thành các đnh chế về lễ nghi pháp độ, đặt nền tảng cho một hội lễ trị hơn my ngàn năm tại những quốc gia đông Á, vậy khi vào thái miếu30, ông thấy việc gì cũng hỏi v lễ nghi. ngưi thấy vậy liền nói : “Ai bảo rằng con trai ngưi ấp Trâu31 kia biết lễ? Vào nhà thái miếu thấy việc cũng hỏi. Khổng T nghe vậy, bèn nói “Ấy l vậy!” (Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn. Hoc viết : ‘Thc vị Trâu nhân chi tử tri lễ hồ? Nhập thái miếu, mỗi sự vấn”. Tử văn chi, viết “Thị lễ dã!” - Luận Ngữ, Bát Dt,15).

Ông tổ của lễ nghi pháp độ li khiêm tốn đi học hỏi ch lễ, giống như cha đ của Microsoft Bill Gate xin đưc chỉ bảo về cách sử dụng hệ điều hành Windows! Điều đó khiến hậu thế chúng ta thêm một phen để hiểu về chiêu bàng xao trắc kích”. chắc chắn cái chiêu thức đơn gin đó của phái Tuyết sơn vẫn luôn còn giá trị nhân bản, khi nào những học giả khắp đông tây vẫn còn sính hơn thua trong bút chiến.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét