GIANG NAM TỨ HỮU: THẢM KỊCH CỦA TÀI HOA
Người xưa bảo “danh cương lợi tỏa”, danh như dây thừng, lợi như xiềng xích luôn trói buộc con người, khó ai thoát ra ngoài vòng thao túng của nó. Nhất là chữ Lợi, luôn biến cuộc đời thành một bãi chiến trường cạnh tranh khốc liệt. Nhiều kẻ trí thức thuở hàn vi luôn sống một cách rất cao nhã, vậy mà khi rơi vào thế giới của đồng tiền vẫn dễ dàng biến thành một con buôn thượng đẳng. Nhưng kẻ nào có bản lĩnh để không lụy vì lợi thì lại lụy vì danh. Dù con người cho rằng danh cao hơn lợi, Trang Tử vẫn mỉa mai :”Bá Di chết vì danh dưới núi Thú Dương, Ðạo Chích chết vì lợi trên gò Ðông Lăng. Hai người ấy cách chết chẳng giống, nhưng chỗ tàn sinh hại tính thì như nhau cả (Bá Di tử danh ư Thú Duơng chi hạ. Ðạo Chích tử lợi ư Ðông Lăng chi thượng. Nhị nhân giả sở tử bất đồng, kỳ ư tàn sinh thương tính quân dã” (Nam Hoa Kinh, Biền Mẫu). Như vậy thì Lợi và Danh đều là hai cái làm lụy người nên tránh.
Những kẻ tài hoa chân chính có chân tài thực học, không lụy vì lợi vì danh thì vẫn phải vướng vào một hệ lụy khác : Ðó là lụy vì cái Ðẹp. Ðem thân chết theo lợi thì bị xem là tiểu nhân, đem thân chết theo danh thì được gọi là quân tử, vậy đem thân để chết vì cái Ðẹp, như Lý Bạch ôm trăng, thì gọi là gì? Là tài tử chăng? Trương Trào bảo : “Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn”. Không có tình thì làm thế giới đổ vỡ, không có tài thì khiến càn khôn tẻ nhạt. Sinh ra đời, ai cũng mong muốn có tài, tài năng hoặc tài hoa. Có tài năng mà không tài hoa thì thô lỗ, có tài hoa mà không có tài năng thì khó thành công, chỉ có thể đem cái tài hoa tô điểm cho đời, cho trọn cuộc chơi trong cõi bình sinh.
Nhà thơ Tô Ðông Pha từng nói : “Nhân giai dưỡng tử cầu thông minh, ngã vị thông minh ngộ nhất sinh”48 (người ta sinh con, ai cũng mong muốn con mình thông minh, còn ta vì thông minh mà lầm lỡ cả một đời người). Trong lịch sử văn học Trung Quốc, nhà thơ thông minh và tài hoa nhất là Tô Ðông Pha cũng chính là nhà thơ chịu nhiều khổ lụy nhất. Nguyễn Du bảo “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Phải chăng vì kẻ được phú bẩm tài hoa thường hay trào lộng vạn tượng, và đó là điều làm phật lòng Tạo hóa? Như vậy thông minh và tài hoa cũng là thứ làm lụy người, cần phải tránh. Nhưng có thể tránh được không, khi Trời đã vận tài hoa vào người như một nghiệp chướng?
Quy luật bù trừ trong Thiên nhiên rất công bình. Ðạo vận động như nước, lấy chỗ dư bù vào chỗ thiếu. Cho nên, được Trời phú bẩm cho chút tài hoa, ta cũng chớ vội mừng, vì lắm khi đó chính là hiểm họa. Khi cho ta cái gì thì Thiên nhiên sẽ lấy lại của ta một phần tương ứng, lắm lúc phần bị mất đi nhiều hơn cả phần được ban cho.
Trong tất cả các tác phẩm của Kim Dung, thảm kịch của bốn nhân vật tại Cô sơn mai trang có lẽ là thảm kịch não nùng nhất về hệ lụy của hai chữ tài hoa. Ngày Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung đến tìm Giang Nam tứ hữu ở Cô sơn mai trang cũng đúng là lúc Ðịnh Mệnh gõ cửa đời họ. Bốn vị chủ nhân của Mai trang được Trời phú bẩm cho tài hoa, không ham thi thố, chỉ quy ẩn lánh đời để canh giữ một tội đồ nguy hiểm, thế mà Ðịnh Mệnh cũng không chịu buông tha. Âu đó cũng là hệ lụy của bọn tài tử suốt vòm trời kim cổ.
Nếu tiếng tiêu của Khúc Dương trưởng lão và tiếng đàn của Lưu Chính Phong hòa quyện trong khúc Tiếu ngạo giang hồ trước lúc lâm chung chỉ là đoạn mở đầu cho bản Giao hưởng Ðịnh Mệnh cực kỳ bi tráng, thì đoạn kết thúc của bản giao hưởng đó đã diễn ra tại cổng Cô sơn mai trang bằng cảnh thân bại danh liệt của bốn nhân vật tài hoa của Cầm-Kỳ-Thư-Họa. Tiếng đàn của Hoàng Chung Công, nước cờ của Hắc Bạch Tử, ngọn bút của Ngốc Bút Ông, chén rượu của Ðan Thanh, bốn món chơi tao nhã của khách phong lưu, đã khiến cho bốn vị chủ của nó phải thân bại danh liệt, cũng chỉ vì mãi mê đi tìm cái Ðẹp giữa đời. Nếu Dostoievski cho rằng cái thế giới đảo điên này sẽ được cứu rỗi bởi cái Ðẹp, thì cái Ðẹp cũng chính là mầm mống của tai ương! Vẻ đẹp tuyệt vời của Helène, một vẻ đẹp có thể cứu chuộc được cả ba ngàn thế giới, đã là nguyên nhân cho cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài mười năm dưới chân thành Troie, và đã là nguồn cảm hứng cho nhà thơ thiên tài của Hy Lạp là Homère viết nên trường ca Iliade bất hủ. Nhan sắc Dương Quý Phi làm điên đảo cả triều đình Ðường Minh Hoàng để rồi kết thúc một cách bi thương bằng dãi lụa tại Mã Ngôi, để Bạch Cư Dị viết nên Trường Hận Ca, để Lý Thương Ẩn viết nên bài thơ Mã Ngôi được ca tụng đến ngàn thu.
Kẻ đi tìm cái Ðẹp giữa đời, dẫu đó là kẻ đem tài hoa vào đời để biến trần gian thành một cuộc chơi, thì đó vẫn là kẻ đang tự đóng đinh mình lên cây thập gía đời. Chữ tài hoa sẽ vận vào người tài tử nhiều hệ lụy lạ lùng, đúng như Nguyễn Du đã từng đau đớn thốt lên “Phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Những mối oan khiên kỳ lạ do nết phong nhã gây ra, ta tự mang cả vào mình - Độc Tiểu thanh ký). Tiếng đàn Hoàng Chung Công mênh mông thâm diệu, nhưng chưa kịp tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ thì tai họa đã ập tới cổng Mai trang. Chén rượu Thổ phồn của nhân vật hào sảng Ðan Thanh vừa mới kịp làm say lòng tri kỷ thì đã chìm mất giữa men đời cay đắng gấp vạn lần. Ngọn bút của Ngốc Bút Ông nằm lăn lóc trước cổng Mai trang như lời cảnh báo cho những ai học đòi thư pháp. Và nước cờ xứng danh quốc thủ của Hắc Bạch Tử vẫn còn đi sau rất xa với nước cờ đời.
“Đàn năm cung réo rắt tính tình đây; cờ đôi nước rập tình xe ngựa đó, thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà”(Nguyễn Công Trứ). Thú chơi tao nhã của khách phong lưu đẹp biết bao. Đem gieo rắc tài hoa để tô điểm cõi càn khôn bằng tiếng đàn nét bút, mãi mê giữa đời để đi tìm cái Đẹp, mà đâu ngờ lòng si mê cái Đẹp lại đem thảm họa đến kề bên. Trong bốn nhân vật ở Mai trang, Kim Dung đã tỏ ra rất sâu sắc khi để cho cọn người phản bội lại cả nhóm để cầu xin Nhậm Ngã Hành truyền thụ Hấp Tinh đại pháp lại là một nhân vật chơi cờ: nhị trang chúa Hắc Bạch Tử. Trong các môn cầm kỳ thi tửu, thì kẻ chơi cờ luôn là kẻ phải đấu trí, nên có tâm cơ ứng biến và nhiều mưu mẹo hơn cả, khác với cái tâm hồn nhiên của những nhân vật đắm chìm trong đàn, trong sách vở và trong rượu.
Kẻ tham lợi thì cuồng điên vì lợi lộc, kẻ hám danh thì chìm đắm bởi chức danh, bọn tài tử chân thực trong cõi giang hồ khinh thường cả danh lẫn lợi thì lại si mê quên đời vì chính cái Ðẹp của Nghệ Thuật. Gặp kiếm sĩ thì tặng gươm, gặp tửu đồ thì mời rượu, đó là lẽ đương nhiên. Cho nên bức tranh Khê trung hành lữ đồ của Phạm Khoan phải dành cho Tứ trang chủ Ðan Thanh, chân tích Suất ý thiếp của Trương Húc phải dành cho Tam trang chủ Ngốc Bút Ông, ván cờ Ẩu huyết phổ phải dành cho Nhị trang chủ Hắc Bạch Tử, khúc nhạc Quảng Lăng tán của Kê Khang phải dành cho Ðại trang chủ Hoàng Chung Công. Hướng Vấn Thiên quả là người tâm cơ siêu tuyệt khi đem bốn báu vật đó ra để bài trí cuộc vượt ngục đầy ngoạn mục của Nhậm Ngã Hành. Tiếng thở dài nhận tội của Hoàng Chung Công trước bốn vị truởng lão Ma giáo nghe thật xót xa : “Hỡi ơi, mê say vật đẹp đến nỗi đánh mất cả tâm chí, đều do lỗi của bọn thuộc hạ đắm chìm nơi Cầm Kỳ Thư Họa, để cho người ta nhìn vào điểm yếu” (Ai, ngoạn vật táng chí, đô nhân thuộc hạ nịch vu cầm kỳ thư họa, cấp nhân khuy đáo liễu giá lão đại nhược điểm). Bốn báu vật Cầm Kỳ Thư Họa đó, đã khiến cho bọn tài tử bao thế hệ phải ngày đêm mơ ước, lại chính là mầm họa sát thân.
Với khách tài hoa thì cõi đời là một trò chơi lớn, một Grand Jeu theo Héraclite, nhưng đâu phải ai cũng có đủ công lực để đi trọn cuộc chơi. Thích Ca hoàn tất “cuộc chơi” trong cõi Niết Bàn, Lý Bạch tiếp tục “cuộc chơi” bằng cách cuỡi cá kình lên trời Hãn mạn, Khổng Minh bỏ dỡ “cuộc chơi” trên Ngũ trượng nguyên, Nietzsche chấm dứt “cuộc chơi” trong nhà thương điên, Bùi Giáng xóa nhòa mọi “cuộc chơi” trong cảnh giới ngao du thù thắng. Khúc Dương và Lưu Chính Phong gởi gắm “cuộc chơi” trong khúc Tiếu ngạo giang hồ. Giang Nam Tứ hữu trả giá “cuộc chơi” bằng cảnh thân bại danh liệt và cái chết oan uổng của Hoàng Chung Công.
Ðức Jésus Christ cảnh báo “Kẻ nào dùng gươm sẽ chết vì gươm”, Simome Weil nói tiếp một câu chua chát “Quiconque prend l’épée périra par l’épée. Et quiconque ne prend l’épée pas ou la lâche périra sur le croix”49 (Kẻ nào dùng gươm sẽ chết vì gươm, và kẻ nào không dùng gươm hoặc buông gươm sẽ chết trên trên cây thập giá)! Kẻ không tài hoa sẽ chết một đời tầm thường đơn điệu, nhưng kẻ tài hoa sẽ chết một cách đau thương, nghĩa đen hoặc nghĩa bóng, có phải thế chăng?
ĐOÀN DỰ: KẺ PHỤNG HIẾN TRONG TÌNH YÊU
Tục ngữ bảo : “Con gái đôi tai, con trai đôi mắt”, nghĩa là trong tình yêu, phái nữ thường vì đôi tai mà trái tim bị chinh phục, còn phái nam thường do đôi mắt mà thần hồn bị đảo điên. Cho nên có người nói rằng : người đàn bà suốt đời chỉ khao khát nghe được câu "Anh yêu em " từ người đàn ông mà họ thương yêu, còn người đàn ông thì ngược lại, suốt đời họ cứ trăn trở mãi với câu hỏi "Ta yêu ai?". Nếu ta đem câu hỏi này để chất vấn Kim Dung, ắt hẵn ông, với nụ cười hóm hỉnh, sẽ đưa ra hình ảnh đáng yêu của vị vương tử đa tình nước Đại Lý : Đoàn Dự!
Những nhân vật chính diện trong tác phẩm Kim Dung, cũng như trong các tác phẩm võ hiệp khác, thường là đối tượng thương yêu của nhiều trái tim kiều nữ, như Lệnh Hồ Xung, Trương Vô Kỵ.... Nhưng trong tình yêu của Đoàn Dự vẫn có chỗ khác biệt : đó là sự đắm say trong tất cả mối tình với những người con gái kiều diễm trên đời, mà chàng ta yêu ngay từ lần đầu gặp gỡ. Từ Chung Linh, rồi pho thạch tượng cho đến Mộc Uyển Thanh... Chỉ đến khi gặp được Vương Ngữ Yên thì tất cả hình ảnh giai nhân trên thế gian này mới thực sự bị xoá nhoà đi như không còn nữa. Tự tòng nhất kiến khanh khanh hậu. Trần thế giai nhân tổng thị vô. (Kể từ một lần gặp được khanh khanh, thì tất cả giai nhân trên đời này coi như không còn nữa).
Vị vương tử đa tình họ Đoàn đi đến đâu đều đắm say tình yêu đến đó, như một thỏi sắt cứ mãi mãi bị hút bởi từ lực của giai nhân. Chàng ta chỉ tôn thờ nhan sắc, chẳng thèm quan hoài chi đến võ công hay quyền lực. Được cầm cương ngựa cho giai nhân là nỗi khát khao suốt đời của chàng ta. Mà hồng nhan thì có khắp trong thiên hạ, cho nên tình yêu của chàng ta cũng bén rễ khắp chốn khắp nơi. Đối với chàng ta thì chỉ có tình yêu là tất cả, như một Xuân Diệu thời trai trẻ "Tôi khờ khạo lắm ngu ngơ quá, chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì". Nhưng trong tình yêu của Xuân Diệu "Yêu là chết trong lòng một ít" vẫn ngầm chứa nỗi khát khao được yêu lại, mà không đạt được nên đâm ra khổ đau và chết một ít trong lòng. Còn Đoàn Dự thì hơn thế, chàng ta tìm đến với người đẹp dường như chỉ để chiêm ngưỡng tình yêu dưới quan điểm mỹ học thuần nhiên. Yêu chỉ để mà yêu, yêu chỉ để thoả mãn nỗi khát khao tôn thờ vẻ đẹp, yêu như một sự bột phát tuôn trào của những cảm xúc tự nhiên là muốn được phụng sự cho khách má hồng. Nhất là trong tình yêu chàng ta dành cho Vương Ngữ Yên. Suốt đời cứ mê mẫn lẽo đẽo theo nàng ta rong ruỗi khắp giang hồ, như một kẻ tuỳ tòng hờ, chỉ ước mong nàng hạ tứ ban cho một nụ cuời, một ánh mắt nhìn là mãn nguyện. Cái thiết tha say đắm đã được đẩy tới chỗ tận cùng "Ta đâu biết cõi vô tình vô tận, nhưng tình ta ta biết tận vô biên- Thơ Hồ Văn Thắng). Chàng công tử đa tình ấy như muốn tìm một chốn an tâm lập mệnh trong chút hương thừa của quốc sắc thiên hương! Vương Sóc, một nhà văn Trung Quốc chuyên bài xích Kim Dung, đã phê phán rằng nhân vật Đoàn Dự chỉ là hình ảnh lặp lại của anh chàng công tử ẻo lả đa tình Gỉa Bảo Ngọc trong kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần mà thôi. Nói thế không khỏi cho chỗ oan uổng và bất công. Đoàn Dự làm gì uỷ mị đến mức sướt mướt khóc gió than mây như Giả Bảo Ngọc? Nhưng cả hai đều rất giống nhau ở điểm : xem nhan sắc, hay đúng hơn phái nữ, là biểu trưng cho những gì đẹp đẽ nhất trên cõi đời này. Giả Bảo Ngọc cho rằng cốt cách đàn ông được cấu tạo từ đất, còn cốt cách đàn bà thì được cấu tạo từ nước. Nước thì mềm mại, nhu nhuyễn, cho nên giai nhân thì mong manh và đáng yêu vô kể!
Khi Đoàn Dự nhìn thấy Du Thản Chi - đang là Bang chủ Cái Bang - chấp nhận quì lạy Đinh Xuân Thu và gọi lão bằng sư phụ để mong lão tha chết cho A Tỷ, một cảnh tượng làm tất cả các nhân vật võ lâm trong đương trường phải phẫn nộ vì xấu hổ cho "thân phận nam nhi", thì chàng ta lại thán phục và ngầm so sánh với mình. Chàng ta cứ ngỡ rằng tấm lòng mình dành cho Vương Ngữ Yên tưởng chừng như đã đạt đến chỗ sơn cùng thủy tận của tình yêu, đã đến mức hoan hỷ tận hiến tất cả thân tâm, nhưng ngẫm ra hãy còn thua xa Du Thản Chi, là kẻ tình nhân đã đạt đến trình độ yêu đương quỷ khốc thần sầu. Và chàng ta thầm khen Du Thản Chi mới đích thị là "bậc hiền thánh trong tình yêu" (tình trung hiền thánh)! Trong tình yêu của Đoàn Dự và Du Thản Chi không còn một chút dấu tích so đo tính toán của lý trí, còn "cái tôi" thì đã hoàn toàn biến mất để hoà tan trong đối tượng thương yêu. Hai ông "tình thánh" kia quả rất xứng đáng là những kẻ si tình vĩ đại nhất của mọi thời đại, suốt dưới vòm trời bốn bể năm châu!
Còn môn Lăng ba vi bộ kỳ tuyệt mà chàng ta học được, khi vô tình lạc vào thạch thất của phái Tiêu Dao sau núi Vô Lượng, cũng nhờ đắm say chiêm ngưỡng bức thạch tượng tạc một phụ nữ dung nhan tuyệt đại trông tợ thần tiên. Những kẻ muốn đùa cợt hoặc xúc phạm bức tượng ắt phải chết vì những mũi tên tẩm độc ngầm dấu trong các cơ quan rồi. Chỉ có chàng ta vì mê mẫn bức tượng, xem đó là bậc thần tiên giáng thế, nên mới chịu khó cung kính quì lạy đủ 1000 lạy! Và chính tấm lòng đa tình lãng mạn đó vô tình cứu chàng ta khỏi hoạ sát thân. Kim Dung đã cực tả cái thần trong đôi mắt của thạch tượng50 làm người đọc liên tưởng đến sự quyến rũ kỳ diệu trong nụ cười Mona Lisa của Leonardo da Vinci. Nhan sắc ấy và đôi mắt ấy thì trách sao anh chàng đa tình Đoàn Dự không điên đảo thần hồn, hân hoan quì lạy, gọi bằng "Thần tiên nương tử, Thần tiên tỷ tỷ ", và hứa hẹn thời gian sau sẽ quay về đoàn tụ, dù vị "thần tiên nương tử" đó chỉ là pho thạch tượng! Cái tình yêu ấy đã được thăng hoa gần như thoát tục, và còn như muốn đi xa hơn cả cái khái niệm amor platonicus51 trong văn học phương Tây. Dưới ánh sáng của tình yêu như thế, thì mọi vật dù vô tri giác cũng sẽ tràn đầy sức sống và được gán cho một linh hồn. Đó cũng là tình yêu mà sau này chàng ta mãi mãi dành cho người con gái diễm kiều thông tuệ Vương Ngữ Yên - một bản sao của pho thạch tượng thần tiên đó.
Ngoài nhan sắc, chàng ta chẳng thiết tha gì với những cái mà thiên hạ sẵn sàng đổ máu để tranh giành nhau. Đường đường là vị hoàng thân quốc thích của nước Đại Lý, chuẩn bị kế thừa ngôi vua, nhưng vì không muốn học võ công, không ham chính trị, nên chàng ta dấn thân phiêu bạt giang hồ, kết bạn với anh hùng hảo hán. Hễ thấy nơi nào có tranh chấp là chen vào can thiệp, bằng lý lẽ của anh đồ gàn, bất chấp họ có thèm nghe theo mình hay là không. Võ công thì siêu đẳng với tuyệt kỹ Lục mạch thần kiếm độc bá võ lâm, nhưng chàng ta chẳng thèm mơ màng chi cả, nên khi thì thi thố thần diệu tuyệt luân, lúc thì ngơ ngơ ngẩn ngẩn như đứa bé không biết võ công. Chỉ có một môn võ công chuyên dùng để "chạy trốn" mà chàng ta luôn sử dụng thành công, đó là những bước Lăng ba vi bộ. Chàng ta học bộ pháp kỳ tuyệt đó rất dễ dàng bởi vì nó chỉ dùng để tránh đòn mà không phải sát thương một ai..Như vậy mới hợp với tấm lòng đôn hậu của chàng ta: muốn tất cả mọi người vất bỏ hận thù, và sống chan hoà với nhau như anh em. Một anh đồ gàn rong ruỗi giữa cõi giang hồ đầy bất trắc và ân oán thị phi, để rao giảng thuyết "Tứ hải giai huynh đệ " của Khổng Tử bằng cái tâm trong sáng hồn nhiên, giống như một Don Quichotte ở phương Đông. Ấy vậy mà đôi khi những lời lẽ gàn gàn, tưởng chừng như dở hơi đó, lại cứu vãn được nhiều cục diện căng thẳng sắp đi đến chỗ bất khả vãn hồi, và võ công cũng không thể giải quyết được gì.
Kim Dung để cho Đoàn Dự kết nghĩa anh em với Tiêu Phong, Hư Trúc và mối giao tình của họ, như một dòng nước ngầm chạy suốt bên dưới tác phẩm Thiên long bát bộ, như để nêu lên những mối tư lường thâm huyền cho tư tưởng.
Nếu Tạo hóa đã dùng đại lực lượng, đại ý chí để sáng tạo nên những vưu vật hiếm hoi, những cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ, thì con người phải biết thưởng ngoạn chiêm ngưỡng để khỏi phụ tấm lòng Hóa công, cái mà thơ Lý Hạ gọi là "Nguyên hoá tâm". Cũng vậy, khi con người đã bỏ tâm huyết cả một đời người để sáng tạo nên những công trình trác việt, như một thể cách đáp ứng lại đức Sinh của tạo hóa52, thì những kiệt tác đó của con người cũng không thể bị vùi chôn trong quên lãng được. Đỗ Phủ đã từng cảm thán "Văn chương thiên cổ sự, đắc thất thốn tâm tri" 文 章 天 古 事, 得 失 寸 心 知 (Văn chương là chuyện ngàn năm, được hay mất chỉ tấc lòng biết thôi). Nặn óc vắt tim, đẻo gọt gan ruột làm ra sách là để gởi lại cho hậu thế, mà không một ai biết đến, điều đó há chẳng đáng xót xa sao? Nhưng đâu chỉ trong văn chương, mà trong tất cả những công trình nghệ thuật do con người sáng tạo, đều là chuyện đem tấc lòng gởi vào thiên cổ cả, nên con người của vạn đại mai sau không có quyền để cho mai một. Do đó, khi Đoàn Dự phát hiện ra bao võ công uyên áo của phái Tiêu Dao còn lưu trong thạch thất núi Vô Lượng, nhưng lại hờ hững bỏ qua không chịu học, (vì ấn tượng mạnh nhất đối với chàng ta là pho thạch tượng chứ không phải các bí cấp võ công), thì Kim Dung phải bố trí cho người anh kết nghĩa của Đoàn Dự là Hư Trúc hưởng được toàn bộ chân truyền của các tuyệt kỹ đó trên cung Linh Thứu. Đó cũng là cách để Hư Trúc, thay mặt anh chàng tam đệ si tình, mà tạ lỗi với cổ nhân!
Nào phải chỉ có những cái hợp nhau mới tìm đến với nhau theo lẽ "Thanh khí ứng cầu", mà những cái cực đoan cũng hay gặp gỡ nhau. Và chính hai cái thái cực đối nghịch, khi kết hợp lại, mới làm sáng tỏ thêm ý nghĩa đời. Ngạn ngữ phương Tây bảo "Les extrémités se touchent" cũng là ý đó. Một Đoàn Dự không thiết tha chi ngoài nhan sắc, một Tiêu Phong không thích gì ngoài rượu và võ công, hai người tưởng chừng như khác nhau một vực một trời đó, ở chỗ thẳm sâu lại vô cùng gần gũi nhau trong tâm hồn quãng đại. Kim Dung đã sâu sắc biết bao khi sắp xếp hai người đại diện cho hai cực đoan đó gặp nhau trên Tùng hạc lâu và kết nghĩa anh em. Để khi đối cực bên này đổ vỡ thì đối cực bên kia đi đến chỗ tựu thành, như một sự điều hoà và cứu vãn cho nhau.
Người anh hùng Tiêu Phong lạc bước vào Mê Cung, và đã kết thúc cuộc đời trong bi hận. Mối tình ngậm ngùi đau đớn của ông với A Châu đã vỡ tan cung bậc, thì chút tâm nguyện xem như phó thác lại cho người em kết nghĩa là Doàn Dự, để chàng ta tựu thành những gì ông để dỡ, bằng khối tình si đối với Vương Ngữ Yên. Tấm lòng đó của Đoàn Dự cho dẫu không cứu vãn được, thì cũng an ủi được rất nhiều cho những tình yêu ngang trái. Đoàn Dự sinh ra chỉ để phụng hiến cho tình yêu, và đối với một kẻ đa tình như chàng ta thì có lẽ trong tình yêu, người đàn bà không bao giờ có tuổi và người đàn ông không bao giờ có mối tình đầu!
ĐÀO CỐC LỤC TIÊN: MỘT SÁNG TẠO ĐỘC ĐÁO CỦA KIM DUNG
Cục diện đương trường đang bình thường, bỗng nhiên thấy bốn bóng người thấp thoáng, tiếp theo là một tiếng rú kinh hoàng : một cao thủ võ lâm đã bị xé xác làm bốn mảnh! Cách sát thủ thần tốc và quái đản của nhóm Đào cốc lục tiên quả đã gây trong lòng độc giả một tiếng dội tâm lí đầy ấn tượng. Sáu quái nhân đó xuất hiện trong Tiếu ngạo giang hồ như một sáng tạo vô tiền khoáng hậu của Kim Dung.
Chưa bao giờ và có lẽ không bao giờ trong tiểu thuyết võ hiệp lại xuất hiện sáu nhân vật vô cùng độc đáo như thế. Nhưng nếu chỉ có mỗi một việc sát thủ chớp nhoáng thì nhóm Đào cốc lục tiên cũng không có gì đáng để nói đến. Một Bạch Mi Ưng Vương với cách giết người thần tốc khi đương trường chỉ còn lưu lại các xác chết và dư hưởng của một tiếng rú trầm hùng cách xa đó hàng mấy dặm, hay một Nhậm Ngã Hành bằng tay không, chỉ trong chớp mắt đã phá vỡ áo giáp hộ thân của đối thủ để moi tim có lẽ còn ghê gớm hơn nhiều. Và ngòi bút Kim Dung ắt hẳn thừa sức để tạo nên những pha sát thủ lâm li hấp dẫn hơn, gây những tiếng dội tâm lí ở tầng sâu hơn nữa. Nhưng Đào cốc lục tiên vẫn có cái độc đáo riêng biệt mà ta khó có thể tìm ở bất kì nhân vật nào trong mọi tác phẩm của Kim Dung.
Nếu có ai đó muốn tiến hành một sự phân loại các nhân vật của Kim Dung thì ắt hẳn sẽ vô cùng bối rối trước đám Đào cốc lục tiên này. Họ là nhóm người ngớ ngẩn khù khờ và hồn nhiên vô tâm, võ công cực cao nhưng lại vô cùng nhút nhát. Họ không thuộc về Tà giáo cũng không thuộc về Chính giáo. Không môn phái, không tham vọng, cũng không chịu sự sai sử của bất kì bang hội hay tổ chức nào. Họ tồn tại giữa cõi Tiếu ngạo giang hồ như một sự ngẫu nhiên đầy lí thú! Người đọc cũng không rõ họ từ đâu tới và rong ruỗi giữa giang hồ vì mục đích gì. Có lẽ Kim Dung muốn nhường phần suy luận thú vị này cho người đọc? Thoạt tiên, bọn họ xuất hiện trên sơn đạo núi Hoa sơn như từ trên trời rơi xuống, và Thành Bất Ưu là người vô duyên được sổ đoạn trường chọn mặt để họ cho nếm mùi "tứ quái phân thây" cực kì rùng rợn, khiến thầy trò phái Hoa sơn kinh tâm động phách phải bỏ núi đào vong. Tiếp đến là sự nhiệt tình ngớ ngẩn của họ trong việc chữa bệnh khiến nội thương Lệnh Hồ Xung thêm trầm trọng. Chính vì võ công họ quá cao nên hậu quả càng thêm tệ hại, đẩy gã lãng tử này vào tình trạng sống dỡ chết dỡ. Rồi tiếp theo đó là một loạt những việc làm ngây ngô của họ khiến cho bao sự việc càng rối mù thêm. Nhưng " hoạ trung hữu phúc " (trong tai họa vẫn tiềm ẩn sự may mắn), chính việc làm ngớ ngẫn của họ đã khiến cho Lệnh Hồ Xung có cơ duyên tiếp thu và hoá giải được vô số nội lực của các đại cao thủ đương thời. Cái ngây ngô của họ làm ta vừa thích thú vừa bực mình nhưng đôi lúc ngẫm cũng đáng yêu : đó là sự ngây ngô của những "thằng Bờm" trong ca dao Việt Nam!
Dường như Kim Dung vẫn luôn đánh giá cao những nhân vật sống gần với bản năng. Các nhân vật ác độc như Âu Dương Phong, cương trực như Hồng Thất Công, vô tư như Châu Bá Thông là những người sống gần với bản năng và lại là các cao thủ tuyệt đỉnh. Nơi Đào cốc lục tiên, ta tìm thấy lại một Lão ngoan đồng Châu Bá Thông dưới một bình diện khác. Không hận thù, không tranh danh đoạt lợi, cứ ung dung hồn nhiên mà tồn tại. Trong khi Châu Bá Thông có thể sướng điên lên nếu học được thêm một môn võ công mới, thì đối với Đào cốc lục tiên, Tịch tà kiếm phổ hay bất kì cuốn bí cấp kì ảo nào cũng không quan trọng bằng ngồi tranh cãi về những vấn đề tầm phào trên trời dưới đất. Giữa cõi giang hồ đầy dẫy những tranh chấp đẫm máu, họ có lẽ là những người còn sống gần với cái "xích tử chi tâm" của Mạnh Tử53. Thậm chí những lúc nhóm Đào cốc lục tiên thi triển tuyệt nghệ "tứ quái phân thây” thì họ cũng hồn nhiên vô tư như các đứa bé giết con sâu cái kiến mà không hề có một mảy may í thức gì về tội lỗi hay thiện ác. Và khi quần hùng Ma giáo họp nhau bàn tính việc kéo lên chùa Thiếu Lâm cứu Nhậm Doanh Doanh, bọn họ cũng nhảy ra cùng tranh cái chức Minh chủ với quần hùng thì ta hiểu đó là những đứa bé đang hồn nhiên tranh nhau một đồ chơi đẹp mặc dù chưa hoàn toàn hiểu công dụng hay chức năng của đồ chơi đấy!
Nhưng điều khiến người đọc nhớ đến bọn họ nhiều nhất có lẽ là các cuộc tranh luận đầu Ngô, mình Sở. Bọn họ lí luận ban đầu nghe cũng mạch lạc lắm, logic lắm nhưng rốt cuộc thì ngớ ngẩn chẳng ăn nhập đâu vào đâu cả. Nhưng lại rất ưa phát biểu, rất ưa trình bày quan điểm, rất ưa tranh luận. Ở đâu có họ thì lập tức có nổ ra những cuộc tranh cãi tầm phào. Nếu không có ai thèm tranh cãi thì bọn tự quay sang bác bẽ lẫn nhau. Không thể hình dung một nhóm Đào cốc lục tiên mà không có những cuộc tranh cãi vô nghĩa, cũng như không thể hình dung phái Thiếu lâm thiếu La hán trận hay phái Võ đương mất đi Thái cực kiếm pháp! Nội dung tranh cãi của họ thường làm người đọc buồn cười bởi tính chất ngớ ngẫn, tầm phào mặc dù cái mạch lí luận của nó trông bề ngoài có vẻ hợp lí lắm. Như tôi đã nói trong một bài viết khác, truyền thống Đông phương vốn không xem trọng lí trí cho lắm nên Kim Dung có cách châm biếm "luận lí học" Tây phương theo phong cách nhẹ nhàng rất Đông phương.
Không phải ngẫu nhiên mà Kim Dung lại bố trí sáu quái nhân độc đáo này bên cạnh Lệnh Hồ Xung. Một nhóm người như thế ắt hẳn phải hợp gu với một gã tửu đồ không sợ trời sợ đất, xem trần gian là một cuộc chơi đầy ngẫu hứng theo bước chân lãng tử phiêu bồng! Trong Tiếu ngạo giang hồ, có lẽ chỉ có Đào cốc lục tiên và Lệnh Hồ Xung là những người hiếm hoi không quan tâm chi tới Tịch tà kiếm phổ, một cuốn bí cấp then chốt trong truyện đã kéo theo nó biết bao thảm kịch và đã làm biết bao nhân vật võ lâm đổ máu để hòng độc chiếm. Ngay cả bậc cao tăng thế ngoại như Phương Chứng đại sư cũng không khỏi động chút lòng trần tò mò muốn đọc khi nghe Xung Hư đạo trưởng nhắc đến! Trong khi Quì hoa bảo điển hay Tịch tà kiếm phổ, giống như những "bè gỗ lim”, những "ao sâu cá mè", đã khiến cho bao đại cao thủ, những "phú ông giang hồ ", lao vào cuộc tranh chấp đẫm máu một cách cuồng điên thì cùng với lãng tử Lệnh Hồ Xung, đám "thằng Bờm" Đào cốc lục tiên ung dung đứng ngoài cuộc mà mĩm cười với những "nắm xô ". Đó là những cuộc tranh cãi không đầu không đũa. Ta cũng có thể xem đó là sự minh triết tự nhiên. Đào cốc lục tiên đạt được sự minh triết đó nhờ bản tính ngây ngô còn Lệnh Hồ Xung đạt được nhớ tâm hồn khoáng đạt.
Vai trò của sáu nhân vật này đôi lúc tương tự như những thằng hề (fool) trong các bi kịch của Shakespeare. Những nhân vật hề này thường xuất hiện như một bước đệm trước khi các giai đoạn bi kịch đi đến cao trào. Ai đã dọc Shakespeare đều khó lòng quên được những câu nói vừa ngớ ngẫn, vừa đầy minh triết của các nhân vật hề trong King Lear, hay Hamlet. Thỉnh thoảng Đào cốc lục tiên nói được những lời ngớ ngẫn nhưng vô cùng xác đáng, thì người đọc hiểu rằng ấy là tiếng nói của lương tri. Đôi khi sự hồn nhiên của các nhân vật này lại cứu vãn được tình thế bế tắc. Chỉ vì ngớ ngẫn chạy đi tìm một con chuột mà bọn họ phát hiện ra đường hầm bí mật để cứu quần hùng Ma giáo thoát khỏi cảnh bị vây khốn trên chùa Thiếu lâm. Và trong đại hội của Ngũ nhạc kíếm phái trên núi Tung sơn, lối tranh biện cù nhầy của họ suýt làm tan vỡ mưu đồ của Tả Lãnh Thiền. Cũng có thể Kim Dung muốn dùng Đào cốc lục tiên như một biểu tượng để khoáng diễn tư tưởng của Shakespeare:
" It [ life ] is a tale told by an idiot, full of sound and fury, sinifying nothing
(Macbeth, Act V, Scene V)
(Cuộc đời chỉ là một câu chuyện do một thằng khờ kể lại, tràn ngập âm thanh và cuồng nộ, mà không có một ý nghĩa gì)
Nếu như trong tiểu thuyết võ hiệp cổ điển, sự thật thà đến mức ngây thơ thường bị xem như một khuyết điểm và chỉ có ở những nhân vật phe Tà giáo, thì trái lại trong tác phẩm Kim Dung, nó lại được đánh giá cao. Lão tử vẫn thường ca ngợi sự ngây ngô minh triết của các bậc chân nhân:
Ngã ngu nhơn chi tâm dã tai!
Độn độn hề!
Tục nhơn chiêu chiêu ngã độc hôn hôn
Tục nhơn sát sát ngã độc muộn muộn
我 愚 人 之 心 也 哉!
沌 沌 兮!
俗 人 昭 昭 我 獨 昏 昏
俗 人 察 察 我 獨 悶 悶
(Đạo đức kinh Chương XX)
(Ta là người ngu dốt thay!
Ngây ngô vậy!
Người đời ai nấy đều sáng rỡ riêng ta mờ mịt
Người đời ai nấy cũng rạch ròi riêng ta lẫn lộn)
Nào biết đâu trong cái ngây ngô ngớ ngẫn của Đào cốc lục tiên lại hàm ẩn nhiều minh triết của Đạo gia và biết đâu đó là một dạng biến tướng, khi nhập thế, của một triết học chỉ thiên về xuất thế?
LAI RAI CHÉN RƯỢU GIANG HỒ-HUỲNH NGỌC CHIẾN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét