Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

VÕ HỌC : ĐƯỜNG VỀ TÂM PHÁP

HỌC : ĐƯỜNG V TÂM PHÁP

Tặng T.S Dương Ngọc Dũng

Thế giới ngoại tại vốn cực k phồn tạp, muôn vẻ nghìn màu không ngừng biến động. Vạn hữu luôn trôi chảy như dòng thác đổ, luôn biến dch trong từng mỗi sát na. Thế giới sâm la vạn ng sát na này đã khác với cái thế gii trong một sát na trưc đó. Vạn hữu luôn mới tinh khôi, như ln đầu tiên đưc sáng to. Do đó, chỉ cái-giờ-đây mới cái thực. Theo truyền thống phương Đông, tìm hiểu thế giới mà cứ mãi chạy theo hình tưng bên ngoài, đem tâm đuổi theo vật, đó nỗi nguy hiểm khôn ng. Trang Tử bảo Ngô sinh hữu nhai, nhi tri vô nhai. hu nhai tùy nhai, đãi hỷ! (Đi ta vốn hạn, mà cái biết thì hn. Đem cái hữu hạn để theo đuổi cái vô hạn thì nguy vậy! - Nam hoa kinh, Dưng sinh chủ).

Các bậc chân nhân phương Đông khi muốn khám phá cái mênh mông diệu vi ca thế giới ngoi tại thì lại quay vào ch tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, để đối diện vi cái chân nh của mình. Giữ lòng như tấm gương sáng để nhìn thấy cả thế giới hiển l toàn chân, đó chính là tâm pháp mầu nhiệm của phương Đông. học, đạo học, y học, thư pháp, hội họa, thi ca khi hiển thị đưc tâm pháp đó đều trở thành những phương tiện thiện xảo giúp con người hồn nhiên quay về nẻo đạo. Thấu hiểu Dch học chính nâng cao y thuật, tập viết t pháp chính rèn luyện võ công. Tiếng đàn, nét bút đu có thể hàm chứa tinh hoa của võ học.

ơng truyền Bồ Đ Đt Ma - vị tổ của Thiền tông Đông độ -ngưi dựng lên ngọn Thiền phong cao chót vót giữa lịch sử ng Trung Quốc cũng chính ngưi đã khai sáng môn Thiếu Lâm đưc xem như cái nôi ca học Trung Quốc. Dẫu Bồ Đ Đt Ma không phải nhân vật lch sử đi nữa thì điều đó cũng cho thấy tinh thần phương Đông vẫn luôn nỗ lực kết hợp công triết giáo. Nói theo thuật ng triết học Phật giáo thì tinh thần Thiền tông là “Thể”, còn học th xem như Dụng”. Dụng phương tiện để biểu hiện Th, còn Thể mạch ngm hàm ng cho Dụng. Chỉ tác githấm nhuần đưc tâm pháp phương Đông như Kim Dung mới thể đưa hóa thân vào tiểu thuyết kiếm hiệp một cách nhẹ nhàng niêm hoa vi tiếu”. Nhiều tác gi sách hiệp luôn muốn để các nhân vật chính của mình phô trương bản lĩnh tài hoa một cách cưng điệu, với những tình tiết lâm ly. Nhân vật chính luôn phải cái gì đó thật khác ngưi : đẹp trai, hào hoa phong nhã, công trùm đời, luôn lạnh lùng lập d, vi những lớp sương mù huyền thoại. Chung quanh họ phải rưu những giai nhân say mê đm đuối. Những thứ trang sức rẽ tiền đó thể hấp dẫn đưc một số đc giả nhưng sẽ nhanh chóng trở thành phù phiếm, như con rồng đã vẽ xong trên t giấy. Trông thật đẹp nhưng lại cứng đờ thiếu sinh khí. Điều quan trọng phải một ngọn bút thần để điểm mắt nó. Đó gọi Họa long điểm nhãn theo truyền thống phương Đông. Đưc điểm nhãn thì con rồng giấy s biến thành rồng thật, sẽ cuộn mình ra khởi tờ giấy chết để bay vút lên trời cao lồng lộng. Chỉ lúc đó mới thực làm mưa làm gió để lộng giữa sương mù. Ngọn bút điểm nhãn ấy chính huyền môn tâm pháp phương Đông”.

Bao thế kỷ qua, trưc s tấn công d dội của nền văn minh khí phương Tây, tâm pháp phương Đông đã nhanh chóng bị đánh bại bởi những thế hệ học giả sính gíc học. lại âm thầm quay về ẩn tàng trong các thin viện, trong nghệ thut bắn cung, trong kiếm đạo Nhật Bản để tiếp tc hàm ng cho thế giới tâm linh huyền ẩn ca phương Đông. Kim Dung một trong những tác giả hiếm hoi biết cách nắm bắt đưc tính thần ấy để đưa tiểu thuyết hiệp mt cách tài tình. Trong tinh thần ấy, học không còn môi trưng phô diễn kỹ thut, mà phương tiện đ biểu hiện tâm pháp. Cái ầm ĩ huyên náo của những anh chàng Sơn Đông mãi sẽ không còn nữa, học khi đến đnh cao, tức trên đưng quay về tâm pháp, cũng tiến dần đến chỗ tinh nhất. Tự thân học sẽ mất đi tất cả những mọi chi tiết rườm rà, để kết tinh thành cái đơn nht. Rồi chính cái đơn nhất đó tự cũng tiêu dung lặng lẽ, hòa nhập với m. tâm lại không có hình tưng, nhưng quán thông khắp mưi phương. Phóng chi tắc di lục hợp; thoái chi tắc tàng ư mật (khi buông ra thì bao trùm khắp sáu cõi, khi thu về thì n nơi sâu kín) (Trung Dung). C tùy nghi mà vận dụng. Gi lòng như ơng sáng. Hư kỳ m. Tĩnh Đnh. Cứ tùy vật đến mà cm ứng. Bao nhiêu kỹ thuật về côn, quyền, đao, kiếm, chưng, ch... cứ tự nhiên lưu chuyển phản chiếu toàn bộ trong tấm ơng lòng. Đó mới là cực đnh của võ học.

Lâm Tế làm một thiền đại đời Đưng. Sư chuyên giáo hóa đồ đệ bằng những tiếng hét cây gậy thay cho những bài thuyết pháp. Những lúc cần phải thuyết pháp thì những li thuyết pháp của sư cũng rực cháy như có lửa, để biến thành một tiếng hét vang rền khắp tùng lâm.

Đạo lưu, tâm pháp hình, quán thông thập pơng. Tại nhãn viết kiến. Tại n viết thính. Tại tỵ khứu ơng. Tại khẩu đàm luận. Tại thủ chấp tróc. Bản th nhất tinh minh, phân vi lục hòa hợp. Nhất tâm ký vô, tùy xứ giải thoát”.

, , , , , , , , , . , .

(Này các đo lưu, tâm pháp hình, nhưng thông suốt cả mưi phương. Tại mắt thấy. Tại tai nghe. Tại mũi ngửi mùi. Tại miệng đàm luận. Tại tay nắm bắt. Vốn một tinh minh, phân ra thành sáu hòa hp. Một tâm đã không thì cứ tùy chỗ mà giải thoát).

Đó cũng chính tâm pháp trong học đnh cao. Khi đã triệt ngộ đưc diệu của thì võ công hoàn toàn hợp nhất vi thân m. Chiêu thức tung ra đều đc tâm ứng th”. Giống như một ngưi đã giác ngộ thì nói năng động tĩnh đu phát huy diệu dụng, đi đứng nằm ngồi đều biểu lộ huyền cơ.

Ni đã ng đưc tâm pháp của học sẽ tự nhiên quán thông đưc mọi học trên đời. N Trương Kỵ hiểu đưc Càn khôn đại di tâm pháp, như Thạch Phá Thiên p giải đưc đồ hình của Thái huyền kinh trên vách đá, như Lệnh Hồ Xung tâm hội đưc Độc cửu kiếm. Gặp phái Hoa sơn thì sử dụng Hoa sơn kiếm pháp, gặp phái Kim Ô thì trin khai đao pháp Kim Ô. “Phùng Phật sát Phật, phùng Tổ sát Tổ (gặp Phật giết Pht, gặp Tổ giết Tổ), hồn nhiên du thần thông. Khi đã ngộ đưc lẽ tâm như không, sở chưng ngại 27, thì đấy mới chính là trạng thái cực cao trong học. Không lại không th trở thành học. Không cảnh giới nào mà đi vào đó lại không ung dung t tại. hoa, cọng cỏ đều thể trở thành vũ khí. Tâm ứng tại thân thành nội lc, ứng tại lòng tay thành chưng pháp, ứng tại chân thành cưc pháp, ng tại tay thành quyền pháp, ứng tại ơm thành kiếm pháp, ứng tại đao thành đao pháp, ứng ti ngón tay thành chỉ pháp, ứng tại miệng thành “Sư tử hống”. Chưng thể biến thành quyn, quyền hồn nhiên thành chưng, chỉ pháp t nhiên thành kiếm pháp đao pháp, cứ mặc nhiên tùy tâm mà vận dụng. Như cây đàn trong tay ngưi nghệ kiệt xuất, tâm ứng vào đàn t thành giai điệu, như c chảy mây bay. Tất c đều viên dung ngi. Đó chính cái mà thin Lâm Tế bảo nhất tâm vô, tùy xứ gii thoát”. Lúc đó mọi chiêu thức đều hiển thị trong cõi tĩnh lặng mênh mông của tâm thc, không còn sự phân biệt giữa công ngưi sử dụng công, không còn một chút dấu vết kỹ thuật khổ luyện.

Không phải ngẫu nhiên mà Kim Dung để nhng ngưi đạt đến cảnh giới hỏa thuần thanh trong học lại những bậc chân tu như các đại Không Kiến, Phương Chứng, nhà sư vô danh trong Tàng kinh các, đạo sĩ Trương Tam Phong hoặc những ngưi tâm hồn nhiên hư tĩnh như Châu Thông. Cái đầu óc thông minh tài hoa tột đnh như Hoàng c vẫn còn mang nhiều dấu vết ca tính nên công không th nào đi vào hóa cnh”. Đến chỗ rốt ráo của “bách xích can đầu 28f, thì cái diệu của hc không còn liên quan đến kỹ thuật rèn luyện, cũng như Thiền tông chi bỏ mọi văn tự, ngữ ngôn.

Đọc Kim Dung hay Ngọa Long Sinh, điều hấp dẫn ngưi đọc một cách sâu xa chính là điểm ấy. Nói như thi sĩ Bùi Giáng thì:

"Đọc truyện hiệp một trong những phép tu ng ức khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Đọc theo lối hồn nhiên, hoặc va đọc vừa suy gẫm. Chưng lực, kiếm thế, nội kình phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện.

Riêng đối với bạn thi sĩ, sách hiệp thể giúp bạn làm thơ lai láng một cách không ngờ. Điều đó không chi l : ban sơ học,văn học, thi nhạc cùng phát khởi ti một cỗi nguồn : uyên nguyên của tinh thn xuất phóng".29

tinh thn xuất phóng ấy chính đưng quay về của võ học, trong phương tri lồng lộng của huyền môn tâm pháp phương Đông.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét