Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI-Phần IV

Vũ Đức Sao Biển
Phần IV

Thiên Long bát bộ và luật tục thảo nguyên


Thiên Long bát bộ là bộ phim nhiều tập hiện đang nổi tiếng, được nhiều người say mê, được chuyển thể từ tác phẩm tiểu thuyết của Kim Dung. Trong tiểu thuyết, Thiên Long bát bộ còn có tên là Lục mạch thần kiếm truyện. Bộ tiểu thuyết đồ sộ gồm 16 cuốn này được đặt trong bối cảnh lịch sử Trung Hoa từ thời Tống Anh Tôn (1063 - 1065) đến hết thời Tống Triết Tôn (1085 - 1099), liên quan đến những diễn biến lịch sử của bốn nước gồm Tống, Đại Lý, Tây Hạ và Khất Đan. Trong phạm vi của bài nghiên cứu này, tôi xin giới thiệu với các bạn về đế quốc Khất Đan và những luật tục trên thảo nguyên do đế quốc Khất Đan quy định được Kim Dung phản ánh qua Thiên Long bát bộ.

Năm 936, Thạch Kính Đường, người bộ tộc Sa Đà (Chata), phò mã của nhà Hậu Đường làm trấn thủ Hà Đông, chiếm đất nhà Hậu Đường lên ngôi, mở ra nhà Hậu Tấn. Thạch Kính Đường thờ Khất Đan như cha, cắt 16 châu thuộc đất Yên Vân (Sơn Tây và Hà Nam bây giờ, trong đó có cả thành Bắc Kinh) dâng cho Khất Đan. Khất Đan trở thành một đế quốc hùng mạnh ở Đông Bắc Trung Quốc, bao gồm cả vùng Mãn Châu (phía Bắc) và lưu vực sông Hoàng Hà (phía Nam), vùng Nhiệt Hà (phía Tây), kéo dài đến biên giới Triều Tiên (phía Đông). Kinh đô Khất Đan là Thượng Kinh; gọi Bắc Kinh ngày nay là Nam Kinh hay Yên Kinh (kinh đô cũ nước Yên) hay U Đô (kinh đô châu U). Vua Khất Đan tự gọi đất nước mình là Liêu Quốc, quy tập các bộ lạc Ô Ngổi, Ba Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vị, Mai Cổ Tất, Ngũ Quốc và Ô Cổ Lạc. Thuộc quốc của đế quốc Khất Đan gồm 59 nước, trong đó có các nước lớn là Triều Tiên, Thổ Cốt Hồn, Thổ Phồn, Đột Quyết, Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Thực, Tân Giới, Hồi Cốt, Cao Xương, Tây Hạ, Vu Điền, Đôn Hoàng... Mười sáu châu Yên Vân của Trung Quốc "trả nợ" cho Khất Đan bao gồm các châu lớn như A, Thuận, Đàn, Trác, Dịch, Kế, Bình, Thước, Doãn, U... Liên tiếp ba triều đại Trung Quốc gồm Tấn, Tống, Chu nhiều phen chinh phạt nhưng không lấy lại được đất Yên Vân.

Người Khất Đan sống du mục, có chữ viết và tiếng nói riêng. Khi sát nhập Yên Vân vào đế quốc, người Khất Đan cũng viết chữ Hán và nói tiếng Hoa (tiếng Bắc Kinh - tức Quan thoại). Cho đến khi nhà Bắc Tống (960 - 1126) lên cai trị Trung Hoa, giữa biên giới Tống - Liêu chỉ có một con đường qua lại. Đó là Nhạn Môn Quan. Nhạn môn quan là một sơn đạo hiểm trở thuộc phủ Đại Đồng (Sơn Tây), được phía Trung Hoa xây làm cửa ải, chỉ có bầy chim nhạn tránh tuyết hàng năm mới bay qua được, Nhạn môn quan đã để lại cho văn học Đường-Tống hàng ngàn bài thơ của các nhà thơ cảm xúc về chinh chiến, quan ải, nỗi khổ của những mối chia ly vì chinh chiến, góp phần tạo nên trường phái Biên tái trong lịch sử Trung Quốc.

Thiên Long bát bộ của Kim Dung tập trung phản ánh về vấn đề dân tộc và những xung đột chiến tranh giữa hai nước Tống-Liêu mà cái trục chính vẫn là nhân vật Tiêu Phong. Tiêu Phong nguyên là người Khất Đan, bị đưa về Trung Quốc từ khi còn lọt lòng, lớn lên có cái tên là Kiều Phong, làm đến chức Bang chủ Cái bang, một bang phái lớn nhất của võ lâm Trung Hoa. Nhưng thuộc hạ của ông đã tìm mọi cách công bố cái lý lịch Khất Đan của ông. Ông bỏ ra đi, chỉ muốn về bên kia Nhạn Môn quan làm một người Khất Đan bình thường săn chồn đuổi thỏ trên thảo nghuyên mênh mông. Số phận đau thương đã khiến ông giết lầm người tình yêu dấu là Đoàn A Châu (dân tộc Hán) và phải bảo bọc cho Đoàn A Tử, em ruột A Châu. A Tử bị thương năng, ông phải bồng cô ra Trường Bạch Sơn tìm xương cọp, mật gấu, nhân sâm chữa trị cho cô. Rồi ông kết bạn với Hoàn Nhan A Cốt Đả, người bộ tộc Nữ Chân (Mãn Châu - sau thành hoàng đế của Kim Quốc) và bắt được Gia Luật Hồng Cơ, hoàng đế của Đại Liêu, người đứng đầu các bộ tộc Khất Đan...

Là một nhà tiểu thuyết tốt nghiệp cử nhân luật, Kim Dung đã nghiên cứu và đưa vào Thiên Long bát bộ những luật tục trên thảo nguyên, diễn ra giữa hai đế quốc Tống - LIêu. Kiến thức về luật tục học của ông rất phong phú, điều mà ta khó tìm thất trong tác phẩm văn chương và lịch sử của bất kỳ một tác giả Trung Hoa nào khác.

Đối với người đàn ông Khất Đan, luật tục buộc phải xăm hình con chó sói (lang hình) lên ngực từ thủa sơ sinh. Hình con chó sói chứng tỏ nguồn gốc dân tộc Khất Đan của người mang nó, thay vì giấy thông hành hay sơ yếu lý lịch. Người đàn ông Khất Đan nhận ra nhau khi cởi áo khoe hình con sói xanh. Ngay đến khi bị quân lính nhà Tống giết, họ cũng cởi áo ra, hướng về phương Bắc, hú lên những tiếng như chó sói tru trước khi từ giã cuộc sống. Chính Tiêu Phong cũng có một hình chó sói xanh trước ngực như vậy và đến năm 30 tuổi, ông mới biết mình thuộc dân tộc Khất Đan.

Hai nước giao tranh trên trăm năm, người nước này tỏ ra khinh miệt người nước kia và ngược lại. Người Tống gọi người Khất Đan là bọn chó Liêu (Liêu cẩu); người Khất Đan gọi người Tống là bọn heo Tống (Tống trư). Quân lính hai bên tha hồ thâm nhập biên giới cướp bóc tài vật, gia súc; bắt bớ đàn bà và trẻ con. Những gì cướp được, bắt được với quân Tống thì phải trình lên tướng chỉ huy để được thưởng, với quân Liêu thì được hưởng trọn. Đó là luật tục chiếm hữu, được hai bên gọi bằng một thuật ngữ rất nhẹ nhàng: kiếm lương thảo. Không biết bao nhiêu phụ nữ và trẻ em đã bị chiếm đoạt tình dục, bị buộc làm nô lệ và vùi thây xung quanh Nhạn Môn quan.

Tuy nhiên, không phải ai bị bắt cũng bị giết. Muốn khỏi bị giết, phải có thục kim. Trên thảo nguyên, có luật tục đưa tiền bạc, tài sản chuộc mạng; số tiền bạc tài sản lớn hay nhỏ là do đôi bên trả giá thương lượng với nhau. Người Khất Đan tuân thủ tuyệt đối luật tục này. Thiên Long bát bộ của Kim Dung có đoạn thuật lại truyện Tiêu Phong và A Cốt Đả đi săn, tình cờ bắt được một người Khất Đan mặc áo hồng rất sang trọng. Người ấy thương lượng với Tiêu Phong, xin trả 3 xe vàng, 30 xe bạc, 300 con ngựa quý. Phả Lạp Thục, cha của A Cốt Đả, đề nghị Tiêu Phong đòi gấp 10 lần: 30 xe vàng, 300 xe bạc, 3000 ngưạ quý. Tiêu Phong thương người đàn ông Khất Đan anh hùng, buông tha y mà không đòi một khoản thục kim nào. Một thời gian sau, người ấy đem tặng cho Tiêu Phong 5000 lượng vàng, 50000 lượng bạc, 1000 trâu béo, 5000 cừu, 3000 ngựa quý. Hoá ra, kẻ bị bắt và được Tiêu Phong tha mạng là đưong kim hoàng đế Đại Liêu, tên thật là Gia Luật Hồng Cơ. Hồng Cơ về đến Thượng Kinh rồi, vẫn giữ lời hứa đem thục kim qua bộ lạc Nữ Chân trả cho Tiêu Phong dưới dạng quà tặng.

Như trên đã giới thiệu, Khất Đan có văn tự riêng, lại biết luôn cả tiếng Hoa. Thế nhưng, đối với người Khất Đan, một lời hứa còn nặng hơn cả chục tờ hoà ước được viết bằng văn tự. Luật tục Khất Đan đặt ra khẩu ước (hứa miệng) và triệt để trung thành với lời hứa này. Khi Gia Luật Hồng Cơ lên ngôi hoàng đế Đại Liêu thì Triệu Hú cũng đang ở ngôi hoàng đế Đại Tống (1085 - 2099). Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung thuật truyện Gia Luật Hồng Cơ bị Đoàn Dự (hoàng đế Đại Lý) và Hư Trúc (phò mã Tây Hạ) bắt giữ ngay tại Nhạn Môn quan, trước mặt Tiêu Phong. Thay vì đòi khoản thục kim; Tiêu Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc chỉ mong Gia Luật Hồng Cơ cho một khẩu ước: "Suốt đời, Gia Luật Hồng Cơ sẽ không đem binh mã vượt Nhạn môn quan để lấn áp Tống triều". Gia Luật Hồng Cơ đã bẻ mũi tên chó sói, đọc khẩu ước đó trước sự chứng kiến của quân Liêu, quân Tống, Đoàn Dự, Hư Trúc và Kiều Phong. Và quả nhiên, trong suốt giai đoạn Hồng Cơ trị vì, không mọt người Khất Đan nào vượt qua Nhạn Môn quan để gây chiến với quân nhà Tống.

Còn một luật tục khác xem ra rất dã man. Đó là luật tận sát. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung thuật lại cuộc binh biến trong nội tình Khất Đan: Gia Luật Trọng Nguyên và con trai là Gia Luật Niết Lỗ Cỗ nổi loạn; chiếm ngôi của Gia Luật Hồng Cơ. Tướng sĩ hai bên đánh nhau, xác nằm chật cả thảo nguyên, trong đó có những người bị thương nằm rên la thảm khốc. Thay vì đem những kẻ bị thương về cứu chữa, mỗi bên lai có một toán quân áo đen cầm vũ khí ra trận để giết hết những thương binh bên mình. Giết xong, hai toán quân áo đen lại đánh nhau thêm trận cuối. Thảo nguyên Khất Đan thật đau thương: chỉ có người chiến thắng lành lặn trở về mới được coi là chiến binh. Kẻ chiên thắng nào bị thương vẫn phải chết, không phải dưới vũ khí của kẻ thù mà là dưới vũ khí của đồng đội mình. Đối với dân tộc Khất Đan, người chiến thắng mới là anh hùng, mới là người có chính nghĩa.

Kim Dung là người Hán tộc. Người Hán tộc vẫn tự cho mình là một chủng tộc cao quý, gọi các dân tộc bốn phương là Tứ di. Họ luôn tỏ ra khinh bỉ các dân tộc lân bang. Nhưng qua Thiên Long bát bộ, Kim Dung nhận ra một điều: quân đội các bộ tộc Khất Đan và Nữ Chân kiêu dũng, thiện chiến và không tàn bạo như quân đội của Tống triều, phẩm chất nhân ái bao dung của "con chó Khất Đan" Tiêu Phong vượt xa những lãnh tụ Trung Hoa cao quý. Rõ ràng, quan điểm dân tộc của ông rất tiến bộ. Tất nhiên, sau này những cộng đồng Khất Đan, Nữ Chân, Thổ Phồn, Đột Quyết... đều sát nhập vào cộng đồng Trung Hoa, không người Hán tộc nào mạt sát họ là man di mọi rợ nữa. Điều này phản ánh từ một quan điểm chính trị hơn là một nhận thức nhân bản xuất phát từ phẩm giá làm người.

Bang giao Tống-Liêu nhìn qua Thiên Long bát bộ


thời điểm năm 1063, Liêu tức Khất Đan đã trở thành một đế quốc hùng mạnh vùng Đông Bắc Trung Hoa. Người Khất Đan sống du mục, kinh tế chủ yếu là chăn nuôi và trồng trọt, có ngôn ngữ riêng, văn tự riêng. Khi sát nhập Yên Vân vào đế quốc, người Khất Đan có thêm tiếng Hoa làm chuyển ngữ. Biên giới Tống-Liêu kéo dài mấy ngàn dặm, trong đó con đường xung yếu nhất là Nhạn môn quan, một sơn đạo hiểm trở thuộc phủ Đại Đồng, Sơn Tây. Nhạn môn quan là con đường chinh chiến, đã từng là bãi chiến trường núi xương sông máu giữa hai dân tộc Tống-Liêu từ năm 960 đến năm 1126, đã để lại trong lịch sử văn học Trung Hoa hàng ngàn bài thơ mang màu sắc biên tái đau thương...

Thiên Long bát bộ hư cấu một nhân vật anh hùng Khất Đan là Tiêu Phong. Tiêu Phong bị bắt về nước Tống từ thủa nhỏ, đến năm 30 tuổi, trở thành Bang chúa Cái bang, thống lãnh quần hùng Cái bang Tống triều chống lại người Khất Đan. Ông bị bọn thuộc hạ tố cáo lý lịch Khất Đan, phải bỏ nước Tống trở về nước Liêu. Tại đây, ông kết bạn với Hoàng Nhan A Cốt Đả, người bộ tộc Nữ Chân (sau này là vua của Kim Quốc - tức Mãn Châu), rồi kết bạn cùng Gia Luật Hồng Cơ, hoàng đế nước Đại Liêu. Ông được Hồng Cơ phong làm Nam viện đại vương trấn thủ Nam Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay), cai trị 16 châu Yên Vân, chờ ngày đánh qua Nhạn môn quan, tiêu diệt triều Tống...

Gia Luật Hồng Cơ là một ông vua đầy hùng tâm tráng chí của đế quốc Khất Đan, một nhân vật có thực được nhắc đến rất nhiều trong lịch sử. Ông nội của Gia Luật Hồng Cơ lên ngôi làm Đại Liêu hoàng đế, xưng là Thánh Tôn. Thánh Tôn tên thật là Gia Luật Long Tự, có hai con trai: Gia Luật Tôn Chân hiền hoà trung hậu và Gia Luật Trọng Nguyên kiêu dũng, giỏi binh cơ. Thánh tôn qua đời, truyền ngôi cho Tôn Chân nhưng hoàng hậu Đại Liêu lại yêu con thứ Trọng Nguyên nên sửa chữa chiếu chỉ, định lập Trọng Nguyên làm hoàng đế. Trọng Nguyên thương anh ruột, nói rõ âm mưu đó cho anh hay. Tôn Chân lên ngôi, cảm kích tấm lòng của người em, lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, định sẽ truyền ngôi cho em. Tôn Chân lên ngôi, hiệu là Hưng Tôn. Hưng Tôn chết, ngôi vua không truyền cho Hoàng thái đệ mà truyền cho con ruột là Gia Luật Hồng Cơ. Gia Luật Hồng Cơ phong cho chú Trọng Nguyên làm Thiên hạ binh mã Đại nguyên soái, phong cho con Trọng Nguyên là Gia Luật Niết Lỗ Cỗ làm Sở vương, tước hiệu Nam viện đại vương. Hai cha con Trọng Nguyên và Niết Lỗ Cỗ thừa dịp Hồng Cơ đi xuống phương nam làm cuộc binh biến chiếm ngôi vua Đại Liêu.

Đó là chính sử của Đại Liêu. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung để cho nhân vật Tiêu Phong giúp Gia Luật Hồng Cơ dẹp cuộc binh biến, bắt được Trọng Nguyên, giết chết Niết Lỗ Cỗ, được Gia Luật Hồng Cơ phong làm Nam Viện đại vương, cai quản phần đất Yên Vân...

Cũng ở thời điểm này, Triệu Hú, một gã thiếu niên mới 18 tuổi, lên ngôi vua ở Nam triều tức Tống Triết Tôn (1085-1099). Trước đời Triệu Hú, các vua Tống đã áp dụng Biến pháp của tể tướng Vương An Thạch (thường được gọi là phe Tân đảng) và những phép Thanh miêu, Bảo mã, Bảo giáp tạo nên một nền cai trị hà khắc. Khi Triệu Hú lên ngôi, bà Cao thị là Hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính 9 năm, áp dụng đường lối chính trị khoan hoà của Tư Mã Quang (thường được gọi là phe Cựu đảng) không gây chiến tranh, phòng thủ nghiêm ngặt, chờ cho Liêu quốc đại biến. Tư Mã Quang là tác giả của bộ Tư trị thông giám, cuốn sách đúc kết kinh nghiệm thịnh suy của ngàn năm xây dựng các đế chế Trung Hoa trước đó. Chính là đường lối khoan hoà của Cao thị đã làm cho đế quốc Khất Đan phải nể sợ. Tể tướng nước Liêu khen Hoàng thái hậu: "Từ khi Thái hậu Đại Tống buông rèm nghe chính sự, chiêu nạp danh thần, bài trừ chính trị hà khắc, trong suốt chín năm triều đình hưng thịnh, trăm họ yên vui". Thế nhưng, gã Triệu Hú là một ông vua hiếu chiến. Khát vọng của Triệu Hú là được một ông vua thực sự, đánh nhau với Liêu quốc. Cho nên khi Cao thị vừa băng hà, Triệu Hú đã áp dụng ngay các Biến pháp của phe Tân đảng, tin dụng bọn nội giám Nhạc Sĩ Tuyến, Lưu Duy Giản, Lương Tòng Chánh, triệt hạ phe Cựu đảng. Năm 1093, Triệu Hú giáng chức Đại học sĩ Tô Thức (Tô Đông Pha), đưa Tô đi làm tri phủ Định Châu. Khi ra đi, Tô Thức dâng biểu có đoạn: "Hạ thần e rằng hành động cấp tiến chỉ là tấm lòng nông nổi của những người vụ lợi, nên xin dâng bản tấu này, kính mong bệ hạ thận trọng canh caỉ tân pháp thời phúc cho xã tắc và may cho thiên hạ vậy". Triệu Hú giận, giáng luôn Tô Triệt, Đoan Minh Đại học sĩ đi làm Tri phủ Nhữ Châu. Đại thần Phạm Tô Vũ đưa lời can gián: "Hán, Đường mất nước cũng do nhà cầm quyền bắt dân phải lao vào cuộc xây dựng to tát, không được nghỉ ngơi. Những kẻ vì lợi nhỏ mà gây oán hờn cho quốc dân thì dù có đa hình khu trục cũng chưa đủ để tạ tội với trăm họ".

Trong tiểu thuyết Thiên Long bát bộ, Kim Dung thuật lại đoạn Cao thái hậu qua đời và những lời nói huyênh hoang của Tống Triết Tôn Triệu Hú. Quân tình báo Khất Đan đã nắm được tất cả diễn biến xấu đó trong nội bộ Tống Triều và báo cáo về Thượng Kinh cho Đại Liêu hoàng đế Gia Luật Hông Cơ. Hồng Cơ đánh giá đây là cơ hội ngàn năm một thuở để xâm lăng Tống triều. Nhà vua xuống ngay Nam Kinh, ra lệnh cho Nam Viện đại vương Tiêu Phong lập tức cử binh mã tràn qua Nhạn môn quan phạt Tống. Thế nhưng, Tiêu Phong tha thiết yêu hoà bình, không muốn cho muôn dân hai nước lầm than vì chinh chiến. Ông chống lệnh hành quân, bị bắt nhốt rồi được cứu thoát. Cuối cùng, ông đã xin Đại Liêu hoàng đế được một khẩu ước: "Vĩnh viến không đưa quân tràn qua Nhạn môn quan đánh xuống phương Nam". Khẩu ước đó bảo đảm cho Tống-Liêu gần 30 năm thanh bình. Và Tiêu Phong tự tử!

Trong chiến tranh cổ điển, Tống-Liêu đều triệt để áp dụng chủ trương binh bất yếm trá. Thấy bọn quan binh triều Tống tham lam, Gia Luật Hồng Cơ ra lệnh cho Gia Luật Mạc Ca, Nam Viện khu mật sứ cai quản Nam Kinh, tung vàng bạc châu báu ra mua chuộc, chia rẽ, khuynh loát đội ngũ quan quân Tống triều. Phủ Khai Phong, kinh đô nhà Tống, trở thành miền đất béo bở cho đội quân tình báo Liêu Quốc thâm nhập và hoạt động. Chính vì thế, nội tình của Tống triều bị người Khất Đan nắm rõ như trong lòng bàn tay, ngược lại với nội tình Khất Đan, vua quan nhà Tống như người mơ ngủ.

Người Tống thuộc Hán tộc, tự cho mình là chủng loại cao quý, gọi lân bang là Tứ Di, gọi người Khất Đan là bọn chó Liêu. Ngược lại, bốn rợ cũng chẳng coi người Hán ra gì, người Khất Đan gọi quân triều Tống là bọn heo Tống. Quân sĩ đôi bên đánh vào biên giới của nhau, đốt nhà, hãm hiếp bắt bớ phụ nữ, tước đoạt tài vật. Cả đôi bên đều gọi đó là cách kiếm lương thảo. Thiên Long bát bộ của Kim Dung phản ánh sinh động hiện thực lịch sử đau thương đó giữa hai dân tộc Tống-Liêu. Tác giả không đối chiếu, so sánh nhưng dường như qua Thiên Long bát bộ, ta thấy được bọn Liêu cẩu anh hùng, đàng hoàng ngay thẳng hơn bọn Tống trư.

Khi Vi Tiểu Bảo hình sự hóa quan hệ dân sự


Xưa nay, quan hệ tiền bạc nợ nần nằm trong dân gian là quan hệ dân sự. Thời vua Khang Hy nhà Thanh, việc vay mượn tiền bạc được xếp vào việc hộ. Để phân biệt việc hộ và việc hình, người Trung Hoa có câu ngạn ngữ: "Giết người thì đền mạng, vay nợ phải trả tiền". Thế nhưng, một vị quan lớn của triều Khang Hy - Vi Tiểu Bảo, Đệ nhất Lộc Đỉnh công, Phủ Viễn Đại tướng quân - một nhân vật bất học vô thuật tự nhận mình là lưu manh hạng nhất, đã ngồi trên vương pháp, sẵn sàng hình sự hoá những quan hệ dân sự. Qua ngòi bút của Kim Dung trong bộ tiểu thuyết Lộc Đỉnh ký, ta thấy cách cho vay nợ và đòi nợ của Vi Tiểu Bảo khá lạ lùng. Kim Dung hình tượng hoá vấn đề là "tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả" (trước, không có người xưa nào; sau, cũng chẳng có được người giống như vậy).Nguyên Vi Tiểu Bảo say mê nhan sắc của A Kha, muốn lấy A Kha làm vợ. Thế nhưng A Kha lại say mê Trịnh Khắc Sảng, con trai thứ của Diên Bình quận vương Trịnh Kinh, một lãnh tụ chống nhà Thanh tại Đài Loan. Vi Tiểu Bảo gặp Trịnh Khắc Sảng lần đầu tiên tại phủ Hà Giang và y rất ghen tức với Trịnh Khắc Sảng. Trịnh Khắc Sảng phong lưu anh tuấn, lại là con của một quận vương cai trị đất Đài Loan trong khi Vi Tiểu Bảo mặt dơi tai chuột, lại chỉ là con của một kĩ nữ thành Dương Châu. Thấy sư tỷ A Kha cứ bám lấy Trịnh Khắc Sảng, Vi Tiểu Bảo ra lệnh cho anh em Thiên Địa hội của mình đón đánh Trịnh Khắc Sảng một trận thừa sống thiếu chết. Trịnh Khắc Sảng vẫn đeo đuổi A Kha. Vi Tiểu Bảo ra lệnh cho bọn Ngự tiền thị vệ thuộc đạo Kiêu Kỵ doanh chận đáng Trịnh Khắc Sảng một lần thứ hai, buộc Trịnh Khắc Sảng làm văn tự thiếu nợ một vạn lạng bạc, bọn chúng mới chịu thả ra. A Kha và Trịnh Khắc Sảng vẫn quyến luyến với nhau. Vi Tiểu Bảo nhờ đến bọn Mộc vương phủ ở Vân Nam đánh Trịnh Khắc Sảng một lần nữa, buộc phải làm lễ cưới với một cô gái xấu hoắc (nguyên là trai giả gái) và vu cáo Trịnh Khắc Sảng đã cưỡng dâm cô gái ấy! Trịnh Khắc Sảng phải nhờ đến sư phụ của y là Phùng Tích Phạm mới cứu nổi y về tới Đài Loan an toàn.

Vi Tiểu Bảo bị vua Khang Hy giam lỏng trên Điếu ngư đài đảo giữa biển Liêu Đông với một cái tước hàm hồ là Thông Cật bá. Lúc sau này, y đã có sáu người vợ là Tô Thuyên, Song Nhi, Mộc Kiếm Bình, Phương Di, Tăng Nhu và Kiến Ninh công chúa. Thế rồi sư phụ y là Trần Cận Nam, Phùng Tích Phạm, Trịnh Khắc Sảng và cả A Kha đều trốn tránh việc truy bắt của triều đình Khang Hy, trôi dạt tới Điếu Ngư đài đảo. Nơi đây Trịnh Khắc Sảng vũ nhục Trần Cận Nam và đâm chết ông. Vi Tiểu Bảo bắt được Trịnh Khắc Sảng nhưng nghe lời thầy dạy, y không giết Trịnh Khắc Sảng. Trịnh Khắc Sảng đem A Kha gán nợ cho Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo chặt đứt một ngón tay của Trịnh Khắc Sảng, buộc hắn phải viết văn khế thiếu nợ ba trăm vạn lạng bạc. Trịnh Khắc Sảng cứ viết đại văn khế, một là để kiếm đường sống, hai là hắn hi vọng không bao giờ Vi Tiểu Bảo có thể đòi nợ hắn được. Không ngờ văn khế mượn đó lại trở thành tai vạ với hắn về sau.

Khang Hy bình định đảo Đài Loan; Trịnh Khắc Sảng dẫn toàn quân ra đầu hàng nhà Thanh. Hắn được phong Hải Trừng công; Phùng Tích Phạm được phong Trung Thành bá. Thực sự đây một đòn phép chính trị của Khang Hy đã được Lang Viên ghi rõ trong Thanh sử cảo: bình định Tam phiên (Ngô Tam Quế, Thượng Khả Hỷ, Cảnh Tinh Trung), thu phục Mông Cổ và Tây Tạng, thu hồi Đài Loan, ổn định bên trong để rảnh tay đối phó với nạn xâm lăng của người Nga La Tư tại biên giới ba tỉnh Đông Bắc. Tuy được phong tước công nhưng Hải Trừng công Trịnh Khắc Sảng chỉ là hàng thần lơ láo, của cải hắn đục khoét từ Đài Loan đem về Bắc Kinh đã vơi quá nửa vào túi bọn quan lại trong triều đình. Trong khi đó, Vi Tiểu Bảo được phong Đệ nhất Lộc Đỉnh công, Phủ Viễn Đại tướng quân, có công bình định giặc Nga và kí kết hiệp ước bất tương xâm với người Nga tại Hắc Long Giang, thu về cho Trung Hoa thêm tám chục dặm vuông ở bờ nam sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp và Hắc Long Giang. Nghe tin, Khang Hy phong cho hàng thần Trịnh Khắc Sảng tước công, Vi Tiểu Bảo vừa ghen tức vừa nhớ lại mối thù ngày xưa. Hắn đem các thứ văn khế mượn nợ của Trịnh Khắc Sảng ra giao cho bọn thị vệ Kiêu Kỵ doanh, Tiền Phong doanh nhờ bọn này đi... đòi nợ. Ngự tiền thị vệ Đô tổng quản Đa Long nhận lệnh của Vi Tiểu Bảo, buộc Trịnh Khắc Sảng đem món nợ ba trăm vạn lạng bạc viết ra thành những giấy nhỏ một ngàn lạng, hai ngàn lạng rồi chia cho thị vệ đi đòi.

Từ đó, Hải Trừng công phủ của Trịnh Khắc Sảng ngày nào cũng có khách đến... đòi nợ. Bọn quan binh dưới trướng của Khang Hy vốn rất hống hách, lại dựa vào Phủ Viễn Đại tướng quân Vi Tiểu Bảo, sáng chiều thay nhau đòi nợ Trịnh Khắc Sảng. Trịnh Khắc Sảng ngậm bồ hòn làm ngọt đành phải đem hết mọi thứ ngân phiếu, đồ trang sức, bảo vật trong nhà ra trả nợ. Lần sau cùng, Vi Tiểu Bảo dẫn Đa Long đến phủ Trịnh Khắc Sảng. Hắn thấy Trịnh Khắc Sảng mặt mày ủ dột, tóc đã bạc thì mừng hơn cả đòi được nợ. Hắn chụp mũ Trịnh Khắc Sảng là muốn lên làm Đài Loan vương, sẽ đem quân vào nội địa để giết hết những gì gọi là Mãn Thanh, Thát Đát khiến Trịnh Khắc Sảng sợ đến tháo mồ hôi. Hắn còn ra lệnh bắt giữ Trịnh Khắc Sảng, may là Đa Long biết luật, phải đưa lời can gián.

Thấy chủ mình bị vũ nhục, Phùng Tích Phạm hăm dâng cáo trạng lên Khang Hy. Vi Tiểu Bảo nghe hắn hăm, lòng cũng có ý sợ. Lần này, Vi Tiểu Bảo thu được năm vạn bốn ngàn ba trăm lạng (tiền ngân phiếu), lại lấy được một mớ nữ trang. Tổng số mà Trịnh Khắc Sảng trả được cho Vi Tiểu Bảo trên hai trăm vạn lạng bạc. Hắn chia cho bọn thị vệ đúng một trăm vạn lạng để xài chơi, gọi là chi phí cho công đi đòi nợ (thảo trái phí). Nhưng hắn vẫn nơm nớp lo sợ chuyện Phùng Tích Phạm hăm dâng cáo trạng. Trong đêm ấy, hắn ra lệnh cho Đa Long cho hai thủ lĩnh thị vệ Trương Khang Niên, Triệu Tề Hiền mạo xưng là người của Thái Đô thống ở Tiền Phong doanh đi bắt Phùng Tích Phạm về đánh đập gần chết. Hắn lại cho người ngầm đi báo với vợ lớn của Thái Đô thống là họ Thái có vợ nhỏ thứ tám tại hẻm Điềm Thủy Tĩnh ở Bắc Kinh. Đêm ấy, vợ của họ Thái dẫn một toán đàn bà đi đánh ghen. Lão Thái phải dẫn người đi cứu cô vợ nhỏ. Vi Tiểu Bảo lại sai Đa Long đi giúp cứu vợ nhỏ lão Thái...

Sáng hôm sau, Vi Tiểu Bảo nhận lệnh của vua Khang Hy phải đi làm giám trảm, thi hành án tử hình đối với Mao Thập Bát. Mao Thập Bát là một dũng sĩ phản Thanh phục Minh, có công đưa Vi Tiểu Bảo lên Bắc Kinh. Hắn nghĩ cách cứu Mao Thập Bát khỏi cái chết bằng cách lấy Phùng Tích Phạm thay vào. Hắn cho thân binh làm một cái nhà rạp hai ngăn ở pháp trường cửa Thái Thị. Rồi hắn sai thân binh dẫn Mao Thập Bát ra cho Đa Long nhận diện đúng là khâm phạm của triều đình. Đa Long xác nhận xong, hắn đưa ra cho Đa Long xem một tập khăn tay thêu những bức Xuân cung đồ. Xuân cung đồ là những bức thêu hình ảnh nam nữ giao phối nhau nhằm thoả mãn thói thị dâm của bọn quan lại, bọn nhà giàu thời Minh-Thanh. Khi Đa Long dán mắt vào tập Xuân cung đồ, Vi Tiểu Bảo cho thân binh đánh tráo Mao Thập Bát vào nhà rạp, đưa Phùng Tích Phạm vào pháp trường. Hắn ra lệnh chém tử tội rồi liệm xác khâm phạm vào áo quan...

Không ai biết được những âm mưu của Vi Tiểu Bảo ngoài vua Khang Hy. Nhà vua giao cho hắn điều tra vụ mất tích của Phùng Tích Phạm. Hắn dàn một màn kịch: cho gã chăn ngựa của Phùng TÍch Phạm dẫn một cô hầu gái của họ Phùng là Lan Hương ra đi. Rồi hắn đem xác Phùng Tích Phạm vào phủ nhà họ Phùng, kiếm một cái đao phạt cỏ làm hung khí gây án. Bọn quan viên điều tra vụ án biết rằng họ Phùng bị giết nhưng vết chém là vết do cương đao gây ra chứ không thể là dao cắt cỏ.

Có thể coi vụ Vi Tiểu Bảo giết người bịt miệng, đòi nợ Trịnh Khắc Sảng là một điển hình của chuyện hình sự hoá các quan hệ dân sự. Kim Dung viết những tình tiết này với một bút pháp thật lôi cuốn, hấp dẫn. Rõ ràng là vương pháp của triều nhà Thanh đã bị một gã tiểu lưu mang bẻ cong queo. Hắn làm được việc đó là nhờ có một đám thủ hạ thân tín mà đồng tiền đã trở thành quyền lực sai khiến. Bản tâm của Khang Hy cũng chẳng muốn những gã như Phùng Tích Phạm còn sống trên đời. Hai "chí lớn" gặp nhau, một cao một thấp. Cái chết của Phùng Tích Phạm khiến người ta ngậm ngùi khi nghĩ đên số phận đen tối của hàng triệu người Trung Hoa dưới các chế độ quân chủ kéo dài trên ba ngàn năm.

Vi Tiểu Bảo phá án đua ngựa


Bộ tiểu thuyết Lộc Đỉnh ký của nhà văn Kim Dung lấy bối cảnh lịch sử Trung Quốc dưới triều Khang Hy (1662 - 1722), khi nhà Mãn Thanh mới cai trị Trung Quốc được 18 năm và những thế lực "phản Thanh phục Minh" (chống nhà Thanh, dựng lại nhà Minh) còn hoạt động ở nhiều nơi trên đất Trung Quốc. Trên nền tảng lịch sử có thật, bằng một trí tưởng tượng phong phú và khả năng hư cấu tuyệt vời, Kim Dung đã xây dựng thành công một nhân vật Khang Hy thông minh, nhân hậu, xuất sắc trong các chính sách cai trị đất nước; một Vi Tiểu Bảo ngộ nghĩnh dễ thương, xuất thân từ kỹ viện thành Dương Châu đã leo lên được tới hàng công tước triều Khang Hy. Toàn bộ những thành công cỉa Vi Tiểu Bảo đều tập trung vào hai chữ "may mắn". Vụ phá án đua ngựa, bắt được tên trọng phạm Ngô Ứng Hùng sau đây là một trong những chiến công may mắn của Vi Tiểu Bảo.

Chuyện xảy ra vào mùa xuân năm Khang Hy thứ 13, khi Vi Tiểu Bảo trở thành bá tước, giữ chức Chánh Đô thống Hoàng kỳ. vua Khang Hy đã biết được âm mưu làm phản của Bình Tây vương Ngô Tam Quế, một viên tướng phản Minh đầu Thanh, được vua cha của Khang Hy là Thuận Trị phong tước vương, trấn giữ Vân Nam và Quý Châu. Khang Hy có ý định triệt tam phiên: Ngô Tam Quế, THượng Khả Hỷ, Cảnh Tinh Trung. Sợ bị triệt phiên, Ngô Tam Quế nảy sinh ý định làm phản. So sánh lực lượng giữa triều đình và Ngô Tam Quế, Khang Hy nảy sinh ý đồ làm chậm cuộc tạo phản của Ngô Tam Quế lại. Khang Hy đánh một nước cờ chiến lược: sai Vi Tiểu Bảo làm Tứ hôn sứ, đem cô em cùng cha khác mẹ là Kiến Ninh công chúa qua Vân Nam, gả cho Ngô Ứng Hùng, con trai Ngô Tam Quế để đánh lạc hướng cảnh giác của Ngô Tam Quế. Trong khi đó, Khang Hy ung dung chuẩn bị binh lực đối phó với Ngô Tam Quế nếu vụ biến loạn ở Vân Nam thực sự xảy ra.

Thương thay cho Ngô Ứng Hùng! Trên đường về Vân Nam, Vi Tiểu Bảo đã nhiều lần "phượng đảo loan điên" với Kiến Ninh công chúa đến nỗi Kiến Ninh say mê gã, muốn tìm cách giết chết Ngô Ứng Hùng để được sống với gã. Tại Vân Nam, trong khi chờ hôn lễ cử hành, Kiến Ninh được Vi Tiểu Bảo tặng cho một cây súng của người Nga chế tạo để phòng thân. Thế là Kiến Ninh lập kế gọi Ngô Ứng Hùng vào phòng riêng để xem mặt rồi dùng súng bắn nát bộ phận sinh dục của Ngô Ứng Hùng, vu cho hắn tội muốn...cưỡng hiếp công chúa. Hôn lễ vẫn diễn ra nhưng chàng phò mã đã biến thành anh thái giám thứ thiệt. Sau hôn lễ, Vi Tiểu Bảo đưa hai vợ chồng Kiến Ninh - Ngô Ứng Hùng về lại Bắc Kinh, gọi là hoàn hôn theo nghi thức hôn nhân triều Thanh. Công việc diễn ra đúng với lá bài của Khang Hy: giữ Ngô Ứng Hùng lại Bắc Kinh làm con tin để làm chậm lại cuộc khởi loạn của Ngô Tam Quế.

Một hôm, Vi Tiểu Bảo dẫn phó tướng Triệu Lương Đống sang phủ phò mã của Ngô Ứng Hùng uống rượu. Bên Ngô Ứng Hùng có thêm ba viên tướng khác từ Vân Nam tới: Trương Dũng, Tôn Tư Khắc và Vương Tiến Bảo. Vương Tiến Bảo là một người sành nghề nuôi dưỡng và coi tướng ngựa. Hắn thấy con ngựa Ngọc Hoa Thông giống Đại Uyển (Fergana - một tiểu quốc phía Tây Trung Hoa) của Vi Tiểu Bảo thì chê tràn. Ngược lại, hắn ca ngợi bầy ngựa Vân Nam, một loài ngựa nhỏ, lông lá xác xơ nhưng chạy đường núi rất giỏi. Vi Tiểu Bảo tức khí, hẹn cùng Ngô Ứng Hùng tổ chức cuộc đua ngựa ngày hôm sau; tiền ăn thua là một vạn lạng bạc. Khi đã cáp độ xong, Vi Tiểu Bảo chợt nhìn thấy khoé mắt Vương Tiến Bảo hiện lên vẻ hân hoan. Gã biết thế nào Ngô Ứng Hùng cũng thủ thắng trong cuộc đua ngựa và tự trách thầm mình đã ngu dốt ham cá độ. Vốn là dân cờ gian bạc lận, Vi Tiểu Bảo biết loại ngựa Vân Nam chắc chắn sẽ ăn đứt bầy ngựa của mình. Về phủ bá tước, gã lẳng lặng gọi tên mã phu trưởng, giao tiền cho hắn để hắn rủ rê bọn mã phu của Ngô Ứng Hùng đi uống rượu, chơi gái, rồi tìm cách cho bầy ngựa Vân Nam của Ngô Ứng Hùng ăn bả đậu để chúng đau bụng, ỉa chảy. Gã phải thắng trong cuộc đua ngựa ngày mai!

Làm xong mọi việc, Vi Tiểu Bảo vào chầu vua Khang Hy. Khang Hy hỏi gã cặn kẽ đường đi nước bước ở Vân Nam, lại kêu ty xa giá bộ binh vào hỏi han tình hình chuẩn bị lừa ngựa, súng ống. Lúc bấy giờ, Vi Tiểu Bảo mới biết nhà vua chuẩn bị đánh Vân Nam, triệt hạ Bình Tây vương Ngô Tam Quế. Khang Hy hỏi gã đặc tính của loài ngựa Vân Nam, Vi Tiểu Bảo không dám nói thật. Một là nếu gã thú thật đã đầu độc ngựa Vân Nam của Ngô Ứng Hùng thì Khang Hy sẽ chửi gã là thứ cờ gian bạc lận; hai là - nếu gã nói dóc rằng ngựa Vân Nam rất dở thì sợ nhà vua mất cảnh giác, sau này gặp thất bại trên chiến trường, gã sẽ phạm tội khi quân. Kim Dung diễn tả những mâu thuẫn trong tâm trạng Vi Tiểu Bảo ở đoạn này rất xuất sắc. Vi Tiểu Bảo tâu với nhà vua rằng Ngô Ứng Hùng đem theo khá nhiều ngựa Vân Nam về Bắc Kinh. Nghe đến đó, nhà vua hiểu ngay rằng Ngô Ứng Hùng đang định trốn chạy khỏi Bắc Kinh. Khang Hy ra lệnh cho Cửu môn Đề đốc đóng hết cửa thành nhưng đã trễ: Ngô Ứng Hùng quả nhiên đã chạy trốn bằng ngựa Vân Nam của mình. Chuyện hắn định đua ngựa với Vi Tiểu Bảo chỉ là một trò lừa phỉnh. Hắn ra đi và bỏ lại bọn tuỳ tùng Vương Tiến Bảo, Trương Dũng, Tôn Tư Khắc. Vi Tiểu Bảo xin lệnh Khang Hy cho đi bắt Ngô Ứng Hùng về.

Gã điểm toàn bộ quân Kiêu Kỵ doanh, lại dắt theo bọn Vương Tiến Bảo vì bọn này rất sành về ngựa. Trên đường truy kích Vương Tiến Bảo nhìn ra dấu chân ngựa Vân Nam. Vương Tiến Bảo cũng lấy làm lạ vì ngựa Vân Nam do hắn nuôi dưỡng không bao giờ tiêu ra phân nát. Vi Tiểu Bảo giấu tịt chuyện mình cho đầu độc ngựa Vân Nam bằng bả đậu, cứ bảo cả đoàn rượt theo. Gã phấn khởi vì bả đậu đã phát huy tác dụng nhanh chóng. Từ Bắc Kinh về Vân Nam, đáng lẽ chạy sang hướng Nam nhưng Ngô Ứng Hùng lại chạy sang hướng Đông. Vi Tiểu Bảo hiểu ngay Ngô Ứng Hùng muốn chạy ra cửa biển Đường Cô để có thuyền dọc biển đưa hắn vê Quảng Tây, lên Vân Nam. Đang rượt theo, Vương Tiến Bảo thấy xác ngựa Vân Nam chết ở dọc đường. Hắn rất đau lòng nhưng Vi Tiểu Bảo lại cực kì khoan khoái, không ngờ trò cờ gian bạc lận của mình phục vụ hữu hiệu cho công việc truy bắt Ngô Ứng Hùng đến như thế. Quả nhiên, bầy ngựa Vân Nam danh tiếng không chịu nổi độc tố của bả đậu, ngã lăn ra chết ráo. Ngô Ứng Hùng bỏ ngựa, trốn vào trong ruộng lúa mạch. Hắn bị Vi Tiểu Bảo bắt được, giải ngược về Bắc Kinh. Vi Tiểu Bảo phá án thành công nhờ... bả đậu.

Vua Khang Hy dẫu thông minh đến bao nhiêu cũng không thể hiểu được do đâu Vi Tiểu Bảo bắt Ngô Ứng Hùng, phá vụ án "bỏ trốn khỏi nơi giam giữ" này nhanh đến như vậy.

Nhà vua hỏi Vi Tiểu Bảo: "Con mẹ nó, ngươi có bản lĩnh gì mà bắt được Ngô Ứng Hùng?". Đến lúc đó, Vi Tiểu Bảo mới tâu thật với nhà vua rằng bản lĩnh của gã là cờ gian bạc lận, chỉ có cách cho ngựa của Ngô Ứng Hùng ăn bả đậu mới có thể thắng được trong cuộc đua ngựa ngày mai. Khang Hy cao hứng,cười ha hả. Nhà vua tin rằng lòng trời đang ở với mình, rằng chưa ra quân mà chỉ với một trò gian lận của Vi Tiểu Bảo; nhà vua đã thắng Ngô Tam Quế.

Vụ phá án "phước chủ may thầy" này tiêu biểu cho phong cách viết văn hài hước của Kim Dung. Thế nhưng đó là văn chương tiểu thuyết trong Lộc Đỉnh ký, được Kim Dung viết vào năm 1972. Còn chính sử của nhà Thanh trước đó 200 năm thì thế nào? Trong tác phẩm Thanh sử cảo, Lang Viên ghi rõ: mùa xuân năm Khang Hy thứ 13, Ngô Ứng Hùng có ý định bỏ chức phò mã trốn về Vân Nam để cùng cha là Ngô Tam Quế mưu sự khởi loạn. vua Khang Hy đã tiên liệu mọi điều, cho người giám sát, bắt được Ngô Ứng Hùng giam lỏng tại Bắc Kinh. Năm Khang Hy thứ 16 (1677), Ngô Tam Quế nổi loạn, dựng chiêu bài "Hưng Minh thảo Lỗ". Triều thần đề nghị Khang Hy đem Ngô Ứng Hùng ra để thương lượng với Ngô Tam Quế. Nhà vua không nghe, sai xử trảm Ngô Ứng Hùng và tấn công bình định Vân Nam. Cuộc bạo loạn của Ngô Tam Quế thất bại, nhà Mãn Thanh thu phục Trung Quốc về một mối.

Vụ án Vi Tiểu Bảo phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp


Năm Khang Hy thứ 14 (1676), sau khi bình định xong cuộc chiến tranh biên giới với người Nga La Tư, Vi Tiểu Bảo được phong tước đệ nhất đẳng Lộc Đỉnh công. Cùng đợt phong với Bảo có Trịnh Khắc Sảng, hàng thần từ Đài Loan về, được phong Hải Trừng công và thầy của Sảng là Phùng Tích Phạm được phong Trung Thành bá. Tại Bắc Kinh, Vi Tiểu Bảo đã liên tục cho người đến đòi nợ Trịnh Khắc Sảng, khiến gia tài của Sảng khánh kiệt.

Ỷ mình có công trạng đánh quân ngoại xâm, cho rằng Sảng chỉ là thứ hàng thần lơ láo, Vi Tiểu Bảo đã nhiều phen mắng nhiếc Sảng. Phùng Tích Phạm bắt buột phải can thiệp. Lão hăm dâng cáo trạng lên vua Khang Hy tố cáo các hành vi của Vi Tiểu Bảo. Từ đó, Vi Tiểu Bảo nẩy ra ý đồ giết Phùng Tích Phạm.

Bảo ra lệnh cho hai tên chỉ huy đội ngự tiền thị vệ là Trương Khang Niên và Triệu Tề Hiền đưa một toán thị vệ mạo xưng là người của Tiền phong doanh nửa đêm đến nhà của Phùng Tích Phạm, bắt Phạm đưa đi. Bảo dặn họ: “Hai vị đi nửa chừng đường rồi xiềng khoá chân tay lão, dùng vải đen bịt mắt, nhét hột thị vào miệng… Các vị đánh cho lão một trận nhừ đòn, lột hết quần áo”.

Theo lời Bảo, bọn ngự tiền thị vệ đi bắt Phùng Tích Phạm. Phạm có hỏi đi đâu vào lúc nửa khuya, bọn chúng trả lời: “ Có việc quân tình rất gấp ở Đài Loan, cần phải thương nghị”. Chúng dẫn Phùng Tích Phạm về và đánh đập ngay trong phủ Lộc Đình công. Khi Phạm gần chết, chúng lột quần áo rồi lấy chiếu quấn người Phạm lại.

Sáng hôm sau, theo lệnh vua Khang Hy, Vi Tiểu Bảo phải làm quan giám trảm chém Mao Thập Bát, một người quen biết cũ của mình và luôn ủng hộ Thiên Địa hội với chủ thuyết “phản Thanh, phục Minh” chống lại triều đình. Vi Tiểu Bảo đã ra lệnh cho thân binh làm nhà rạp hai ngăn và cho họ 1.000 lạng bạc để tráo Phùng Tích Phạm vào chỗ của Mao Thập Bát. Khi Vi Tiểu ra lệnh chém, đao phủ chỉ chém Phùng Tích Phạm, giấu Mao Thập Bát vào trong nhà rạp. Sau đó, Bảo cho một chiếc xe ngựa tên khâm phạm Mao Thập Bát trốn về Dương Châu. Đồng thờ, Bảo ra lệnh tẩm liệm thi thể Phùng Tích Phạm. Để dàn cảnh mình tiếc thương Mao Thập Bát, bảo đã lấy gừng xoa vào hai mắt cho nước mắt chảy ra, y như là đã khóc. Vua Khang Hy được nghe quân lính báo cáo, cứ tưởng thật là Bảo đã tuân lệnh ra làm giám trảm vụ xử chém Mao Thập Bát…

Công việc vừa xong, vua Khang Hy lại ra lệnh cho tri phủ Thuận Thiên (phụ trách khu vực thành Bắc Kinh) điều tra vụ án Phùng Tích Phạm mất tích. Nhà vua chỉ định Vi Tiểu Bảo chủ trì công việc điều tra và phá án của tri phủ Thuận Thiên. Vợ Phùng Tích Phạm phát đơn kêu nài ở phủ Thuận Thiên, tỏ ra nghi ngờ Vi Tiểu Bảo có liên quan đến cái chết của chồng mình. Trước tình hình đó, Bảo đã lỡ phóng lao đành phải theo lao.

Bảo lại bỏ tiền ra cho mấy tên thân binh rồi dặn dò mật kế. Bảo đưa cả tri phủ Thuận Thiên đến phủ Trung Thành bá, lập công đường ngay trong đại sảnh để thẩm vấn mọi người. Tất cả gia quyến của Phùng Tích Phạm 79 người đều phải có mặt để chịu thẩm vấn. Tại đây, Vi Tiểu Bảo đã thực hiện một kiểu lấy lời khai rất kỳ khôi, hoàn toàn không có trong hoạt động tư pháp. Bảo lựa một người đẹp nhất là vợ thứ năm của Phùng Tích Phạm tên là Cúc Phương để thầm vấn. Sau khi chớt nhả một hồi, Cúc Phương khai ra được chuyện nữ tỳ tên Lan Hương bỏ trốn cùng tên giữ ngựa Hình Tứ. Bảo ra lệnh thưởng cho Cúc Phương 20 lạng bạc. Cứ như vậy, hễ ai đẹp thì Bảo thưởng tiền; ai xấu thì Bảo chửi cho một trận, choh rằng họ không biết hầu hạ Phùng Bá tước nên bá tước ham chơi đi cả nửa tháng mà chẳng chịu về nhà.

“Lấy lời khai” xong, Bảo cùng tri phủ Thuận Thiên tra xét các nơi trong nhà Phùng Tích Phạm. Đến gian thứ ba ở mé Tây, bọn thân bình tìm ra được một thanh cương đao dính máu. Tri phủ Thuận Thiên xác nhận đây là loại dao cắt cỏ ngựa. Đội trưởng thân binh sai lấy nước đổ xuống mặt đất, dưới gầm giường nơi Hình Tứ nằm ngủ. Nước thấm mau vào đất bày ra một tử thi không đầu đã thối rữa, mặc công phục bá tước. Bảo kêu người nhà Phùng Tích Phạm lại hỏi thì hóa ra đây là nơi ở của Hình Tứ, người đã dẫn nữ tỳ Lan Hương đi trốn. Bảo tiếp tục tra xét và tìm thấy đầu của Phùng Tích Phạm ngay trong tàu ngựa.

Thấy đã tìm ra thi thể của bá tước, người nhà của Phùng Tích Phạm khóc vang. Lòng họ vô cùng cảm kích Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo, thầm phục Vi đại nhân phá án nhanh chóng. Tri phủ Thuận Thiên lại càng phục lăn, vội vàng thảo công văn truy nã Hình Tứ và Lan Hương.

Trong bọn đi phá án, chỉ có một tên bộ đầu giàu kinh nghiệm là đem lòng ngờ vực. Trước nay, hắn đã phá hàng trăm vụ án; quan sát, khám nghiệm hàng trăm vết thương. Hắn thấy dấu đao cào cổ của Phùng Tích Phạm rất tề chỉnh, vật chém phải là khoái đao. Loại đao cắt cỏ không thể tạo ra vết chém này.

Hắn lại nhìn thấy đất ở gầm giường còn mới nguyên, chứng tỏ rằng tử thi mới được chôn xuống chứ không phải đã chôn được mười mấy ngày. Nhưng lòng tuy ngờ vực như vậy mà hắn có mười mấy cái miệng cũng không dám nói ra, bởi người chủ trì phá án vụ này là Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo, một kẻ thân tín của vua Khang Hy!

Vi Tiểu Bảo cầm công văn của tri phủ Thuận Thiên vào bái kiến nhà vua. Khang Hy xem qua loa các công văn rồi nói: “Vi Tiểu Bảo, bản lãnh phá án của ngươi không phải tầm thường… Ngươi lớn mật làm càn…”. Nói cách khác, Khang Hy đã biết Vi Tiểu Bảo giết Phùng Tích Phạm, việc hắn dựng nên vụ Hình Tứ cùng Lan Hương bỏ trốn, tìm thấy cái đầu của Phùng Tích Phạm dưới gầm giường của Hình Tứ chỉ là một trò hề. Tuy nhiên, nhà vua lại không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Vi Tiểu Bảo.

Căn cứ theo tình tiết vụ án, xét theo Bộ luật Hình sự năm 1999 của Việt Nam, Vi Tiểu Bảo đã phạm vào nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Đó là:

1- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn đánh tháo người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia bị kết án tử hình, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội có tổ chức; phạm vào Khoản 2 Điều 312 tội đánh tháo người đang bị dẫn giải, đang bị xét xử, có mức án từ 5 đến 12 năm tù.

2- Chủ trương cho đám thuộc hạ làm sai lệch toàn bộ hồ sơ vụ án Phùng Tích Phạm bị mất tích, phạm vào Khoản 3 Điều 300 tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, có mức án từ 7 đến 15 năm tù.

Tuy nhiên, vào thời Khang Hy nhà Thanh bên Trung Hoa, nhà vua đã tỏ ra dễ dãi với Vi Tiểu Bảo nên Bảo mới thoát được hai tội này. Chúng tôi căn cứ vào Bộ luật Hình sự để buộc tội Vi Tiểu Bảo nhưng lại không tìm ra được gã. Vậy ai thấy Vi Tiểu Bảo ở đâu, xin mách giúp, chỉ giùm.

Bản luận tội Vi Tiểu Bảo


Vi Tiểu Bảo là nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Lộc Đỉnh ký của Kim Dung. Do Hình bộ của triều Khang Hy nhà Thanh bên Tàu đã làm thất lạc hầu hết các hồ sơ, chúng tôi xin mạnh dạn công bố các hành vi tội lỗi của Vi Tiểu Bảo theo Bộ luật Hình sự của Việt Nam để bạn đọc cùng nghị án…

Vi Tiểu Bảo sinh khoảng năm Thuận Trị thứ 13 (tức năm 1656) tại động điếm Lệ Xuân Viện, thành Dương Châu. Mẹ của đương sự là Vi Xuân Hoa, gái làng chơi chuyên nghiệp; cha không rõ, không xác định được thuộc dân tộc Hán, Mãn, Mông, Tạng hay Hồi.

Năm 13 tuổi (1669), Bảo lên Bắc Kinh, lọt vào hoàng cung, giết tiểu thái giám Tiểu Quế Tử rồi mạo xưng mình là Tiểu Quế Tử; kết bạn với ông vua con nít Khang Hy. Nhờ có tài ton hót nịnh nọt và bản thân cũng lập được một số công trạng, Vi Tiểu Bảo lân lượt giữ các chức vụ Tổng quản thái giám Ngự trù phòng; Chánh Hoàng kỳ Đô thống tước phong Ba Đồ Lỗ; Tứ hôn sứ Vân Nam; Đại sứ đặc mệnh toàn quyền xây dựng Trung Liệt từ Dương Châu; Phó trụ trì chùa Thiếu Lâm pháp danh “Hối Minh thiền sư”; Chánh trụ trì chùa Ngũ Đài Sơn; Tư lệnh mặt trận đánh Thần Long đảo ở Liêu Đông; Bá tước kiêm Tư lệnh mặt trận đánh quân La Sát ở miền Đông Bắc; Công tước xứ Lộc Đỉnh (Lộc Đỉnh công).

Trong quá trình công tác, Bảo đã hoạt động gián điệp tới “ba mang”. Y vừa là đại thần của nhà Thanh, song lại giữ một số chức vụ quan trọng trong hai lực lượng tạo phản: Hương chủ Thanh Mộc đường của Thiên Địa hội (phản Thanh phục Minh) đặc trách khu vực Bắc Kinh; kiêm Bạch Long sứ của Thần Long giáo - một giáo phái phản động ở Liêu Đông.

Vợ: gồm 7 mụ, kể theo thứ tự tuổi tác: Tô Thuyên, Trần A Kha, Phương Di, Kiến Ninh, Mộc Kiếm Bình, Tăng Nhu và Song Nhi.

Con: Vi Hổ Đầu (trai, với A Kha), Vi Đồng Truỳ (trai, với Tô Thuyên), Vi Song Song (gái, với Kiến Ninh).

Trình độ văn hóa: Không biết chữ; chỉ đọc được 4 chữ Nhất, Nhị, Tam và Tiểu (trong cái tên Vi Tiểu Bảo).

Trong 7 năm làm quan, từ năm Khang Hy thứ 7 (1669) đến năm Khang Hy thứ 14 (1676), Vi Tiểu Bảo đã liên tiếp phạm các tội sau:

1- Lúc 14 tuổi, khi mới làm bạn với vua Khang Hy, Bảo quen biết với Kiến Ninh công chúa, 13 tuổi. Lợi dụng khung cảnh cung Khôn Ninh vắng vẻ, Bảo đã cởi áo của công chúa ra, trói cô lại, miệng nói lời tục tĩu và tay thì làm những trò bỉ ổi. Cũng với thủ đoạn này, khi bắt Mộc Kiếm Bình, quân chúa Mộc vương phủ (nhà Minh) Vân Nam Bảo đã sờ sẫm trên thân thể và vẽ hình con rùa lên má nạn nhân. Nếu xét theo Bộ luện Hình sự năm 1999 của Việt Nam, hành vi này của Bảo đã đủ yếu tố cấu thành tội danh dâm ô với trẻ em (quy định tại Điều 116). Tuy nhiên, vì Bảo thực hiện các hành vi trên khi chưa thành niên, chúng tôi đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.

2- Khi được Khang Hy cử về Dương Châu xây dựng toà Trung liệt từ, Bảo là thủ trưởng của bốn cô gái Tăng Nhu, Phương Di, Mộc Kiếm Bình và Song Nhi. Bảo đã đổ thuốc mê vào rượu cho A Kha và cả Tô Thuyên, vợ của Hồng An Thông – giáo chủ Thần Long giáo, cùng bốn cô thuộc hạ uống. Lợi dụng lúc những người này nửa mê nửa tỉnh, Bảo đã chất họ lên một cái giường lớn, miệng hát bài Thập bát mô và cưỡng dâm cả sáu người phụ nữ này. Theo Bộ luật Hình sự của nước ta, hành vi này của Bảo đã phạm vào điểm c Khoản 2 Điều 113, xứng đáng phạt tù từ 3 đến 10 năm. Tuy nhiên, lúc phạm tội Bảo chưa đủ 16 tuổi. Chúng tôi đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với y.

3- Khi được vua Khang Hy cử đi làm Tứ hôn sứ Vân Nam, đem công chúa Kiến Ninh mới 15 tuổi gả cho Ngô Ứng Hùng- con của Ngô Tam Quế, Vi Tiểu Bảo đã lợi dụng đường xa, dựng lên những hành cung để Kiến Ninh nghỉ ngơi. Bảo đã đuổi hết bọn thị vệ để vào phòng riêng của Kiến Ninh giao cấu nhiều lần với công chúa. Hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra: Nạn nhân đã có thai trước khi về làm vợ Ngô Ứng Hùng. Hành vi này của Bảo đã vi phạm Khoản 1 Điều 115 tội giao cấu với trẻ em, có mức án từ 3 đến 10 năm tù.

Với 3 tội danh dâm ô với trẻ em, cưỡng dâm và giao cấu với trẻ em, chúng tôi đề nghị các cơ quan hữu quan thành phố Dương Châu có biện pháp đưa Vi Tiểu Bảo đi trường giáo dưỡng. Tuy nhiên, thời Khang Hy chưa có trường giáo dưỡng nên Vi Tiểu Bảo vẫn không được giáo dục để sửa chữa sai lâm. Do vậy, y vẫn ở yên trong chức vụ và liên tục phạm tội ngày càng nghiêm trọng hơn.

4- Xuất thân tại Lệ Xuân viện, từ thuở nhỏ Vi Tiểu Bảo đã là một chuyên gia trong trò cờ gian bạc lận. Lên Bác Kinh làm quan, Bảo vẫn chứng nào tật nấy, tổ chức đánh bạc và gá bạc. Chỉ với ba con súc sắc có đổ thuỷ ngân, Bảo đã làm cái nhiều sòng bài trong hoàng cung cho bọn thái giám, thị vệ chơi và lột sạch tiền bạc của Ôn Hữu Phương, Ôn Hữu Đạo, Trương Khang Niên, Triệu Tề Hiền và nhiều nạn nhân khác với số tài sản trên cả trăm vạn lạng bạc. Với hành vi trên, Bảo đã có dấu hiện phạm tội đánh bạc theo Khoản 2 Điều 248 có mức án từ 2 đến 7 năm tù; tội tổ chức đánh bạc, gá bạc có mức án từ 3 đến 10 năm tù.

5- Khi trở thành Bá tước, làm tư lệnh mặt trận vùng Đông Bắc đánh quân La Sát (Nga), Vi Tiểu Bảo chỉ học được ấm ớ mấy tiếng Nga; cỡ như Hà thư ni khắc là món thịt nướng, Hu la là hoan hô, Phục đặc gia tửu là rượu Vodka. Ấy thế mà Bảo vẫn muốn tỏ ra mình là người nghe và nói lưu loát tiếng Nga. Đại sứ của Sa hoàng Nga La Tư trình quốc thư lên vua Khang Hy, đại để quốc thư nói hai nước Trung Quốc và Nga La Tư đời đời giữ tình hoà hiếu thì Vi Tiểu Bảo lại dịch đại ra là: “Bệ hạ văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, thọ ngang trời đất”. Vua Khang Hy và bọn bầy tôi cứ tấm tắc khen ngợi Vi Bá tước giỏi tiếng Nga nhưng ta biết đây là trò bịp mới của Bảo. Bản thân Bảo đã học thuộc lòng bài ca ngợi Hồng giáo chủ của đảo Thần Long và lời y dịch ra chì là bài học mà y đã thuộc lòng, không dính dáng gì đến nội dung quốc thư của Sa hoàng cả. Với hành vi trên, Vi Tiều Bảo đã phạm vào Khoản 1 Điều 284 tội giả mạo trong công tác, mức án được quy định từ 1 đến 5 năm tù.

6- Lớn lên từ Lệ Xuân viện, Vi Tiểu Bảo đã tiêm nhiễm nhiều thói hư tật xấu và những trò dâm ô trong kỹ viện. Bài hát mà Bảo chuyên hát là bài Thập bát mô, lời lẽ tục tĩu về thân thể phụ nữ. Vi Tiểu Bảo còn lưu giữ bên mình bức Xuân cung đồ, gồm 4 tấm, vẽ hình phụ nữ khỏa thân và hình nam nữ “quan hệ”, để giải trí. Chính Bảo đã dùng bức tranh này cho Tổng quản thị vệ Đa Long coi và tặng cho Đa Long, khiến hắn mất cảnh giác, để bộ thuộc của Bảo để đánh tráo tử tù Mao Thập Bát trốn đi. Hành vi trên của Bảo đã đủ yếu tố cấu thành tội truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ theo Khoản 1 Điều 253.

7- Trong thời gian làm tư lệnh quân Thanh đánh thành Ni Bố Sở của quân Nga, Vi Tiểu Bảo đã đi tiểu vào nước và thúc hối bọn quan quân bắn nước tiểu của mình sang trại quân Nga. Nước tiểu đóng thành tuyết, dù không nhiều nhưng đã để lại mùi xú uế trong không khí vùng Lộc Đỉnh Sơn vốn rất trong lành. hành vi này đã phạm vào Khoản 1 Điều 182 tội gây ô nhiễm không khí, mức án từ 6 tháng đến 3 năm tù.

8-Trong thời gian làm quan dưới triều Khang Hy, Vi Tiểu Bảo đã tham gia Thiên Địa hội với chức danh hương chủ Thanh Mộc đường, phụ trách địa bàn Bắc Kinh. Thiên Địa hội là một tổ chức chính trị-quân sự chống triều Thanh, mưu đồ khôi phục lại nhà Minh. Khi đi công tác về Liêu Đông, Vi Tiểu Bảo lại được kết nạp vào Thần Long giáo, một tà giáo chống phá triều Thanh, giữ chức vụ chưởng kỳ sứ. Chẳng những tham gia hai tổ chức chống đối triều đình, Vi Tiểu Bảo còn tổ chức mạng lưới gián điệp cho Thanh Mộc đường hoạt động ngay tại Bắc Kinh trong phũ bá tước của mình, tổ chức đưa một số nhân vật quan trọng của Thần Long giáo vào làm thuộc hạ dưới trướng mình. Nếu xét theo quan điểm của Thanh triều và vận dụng Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện nay, hành vi hoạt động tình báo, gây cơ sở hoạt động tình váo, cung cấp bí mật cho kẻ thù của Vi Tiểu Bảo đã vi phạm Điều 80 quy định tội gián điệp. Vi Tiểu Bảo phải chịu mức án cao nhất: tử hình.

9- Cũng trong thời gian làm quan, Vi Tiểu Bảo đã giết thái giám Tiểu Quế Tử, Thuỵ Đống, Liễu Yến, Phùng Tích Phạm và một số nhân vật khác. Trường hợp của Đa Long sống lại được sau này nhờ trái tim nằm lệch sang bên phải là ngoài ý thức chủ quan của Vi Tiểu Bảo. Giết người xong, Vi Tiểu Bảo thường dùng một loại chất độc gọi là Hủ cốt tán rắc vào thi thể nạn nhân để thi thể tự tan ra thành nước. Vi Tiểu Bảo đã giết nhiều người, giết người trong lúc người ấy đang thi hành công vụ. Bảo thực hiện hành vi phạm tội một cách man rợ, tái phạm nguy hiểm với nhiều động cơ đê hèn khác nhau. Các hành vi ấy là cực ỳ nghiêm trọng, vi phạm Khoản 1 Điều 93 tội giết người, phải chịu mức án cao nhất: tử hình.

10- Trong suốt quá trình làm quan, Vi Tiểu Bảo đã đòi hối lộ một cách sống sượng. Bảo đã nhận của Bình Tây vương Ngô Tam Quế 500 vạn lạng bạc, một cặp súng lục; nhận của Ngô Ứng Hùng 300 vạn lạng bạc; nhận của Thi Lang một cái tô bằng vàng 24K nặng trên dưới 1Kg; nhận của Trịnh Khắc Sảng trên 200 vạn lạng bạc dưới hình thức “trả nợ” dù Trình Khắc Sảng không mượn Bảo đồng nào; nhận của các quan ở Dương Châu nhiều món quà có giá trị cao; nhận của quân dân đảo Đài Loan trên 600 vạn lạng. Bảo đã dùng số tiền bất chính ấy để đưa hối lộ lại cho bọn tham quan, trong đó có Minh Châu, Sát Nhĩ Châu, Sách Ngạch Đồ, Đổng Quốc Cương, Kiệt Thư, Khang Thân vương, Đa Long; bọn chỉ huy thị vệ Trương Khang Niên, Triệu Tề Hiền… Mỗi người trên đây đã nhận hối lộ của Bảo nhiều lần, mỗi lần như vậy không dưới một vạn lạng bạc. Hành vi ấy của Vi Tiều Bảo đã phạm vào Khoản 4 Điều 279 tội nhận hối lộ và Khoản 4 Điều 289 tội đưa hối lộ. Mức án cao nhất: Tử hình

Tóm lại: Bị can Vi Tiểu Bảo được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự về cá tội dâm ô với trẻ em theo Điều 116; cưỡng dâm theo Điều 113. Tuy nhiên. Phải nghiêm khắc trừng phạt bị can về các tội giao cấu với trẻ em theo Điều 115; đánh bạc theo Điều 248; tội tổ chức gá bạc, đánh bạc theo Điều 249; tội giả mạo trong công tác theo Điều 284; tội gián điệp theo Điều 80; tội giết người theo Điều 93; tội gây ô nhiễm không khí theo Điều 182; tội truyền bá văn hóa phẩm đồi truỵ theo Điều 253; tội nhận hối lộ theo Điều 297; và tội đưa hối lộ theo Điều 289.

Một nhân vật như Vi Tiểu Bảo rất nguy hiểm cho xã hội; cần phải loại trừ vĩnh viễn y ra khỏi cuộc sống bằng bản án nghiêm khác nhất để tạo tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Chúng tôi đề nghị tổng hợp hình phạt: Tử hình, tịch thu toàn bộ tài sản sung công quỹ.

Tuy nhiên, vua Khang Hy đã mất cảnh giác, để cho Vi Tiểu Bảo có cơ hội dẫn cả vợ lớn vợ bé và đàn con nhút nhít, chở hết của cải cùng đi trốn. Trách nhiệm ấy thuộc về Khang Hy, và trách nhiệm cao nhất là của… tác giả Kim Dung, chứ không thuộc về… chúng tôi!

Bản luận tội Nhạc Bất Quần


Kính thưa hội đồng xét xử,

Hôm nay, phiên toà nhóm tại đây để xét xử một tên trọng phạm lớn là Nhạc Bất Quần trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung. Thay mặt Viện Kiểm sát, tôi xin đọc phần luận tội về bị cáo Quần.

Nhạc Bất Quần là chưởng môn phái Hoa Sơn, có ngoại hiệu là Quân tử kiếm. Thật ra cái ngoại hiệu ấy chỉ là một dạng hình dung từ để diễn tả biểu hiện bề ngoài nho nhã, khiêm tốn của bị cáo Quần. Ở bề trong và đặc biệt là qua tất cả những hành vi gây án của bị cáo, những tác hại nghiêm trọng mà bị cáo đã thực hiện đối với đồng đạo võ lâm, bị cáo chỉ là một kẻ nguỵ quân tử, một thứ quân tử giả mạo. Mà đại phàm lại hàng giả mạo thì nguy hiểm gấp nhiều lần so với hàng thật. Do vậy, theo quan điểm của chúng tôi, nguỵ quân tử nguy hiểm gấp nhiều lần so với chân tiểu nhân.

Khi đang đảm nhiệm chức vụ chưởng môn, qua báo cáo của một tên đệ từ là Lao Đức Nặc, Nhạc Bất Quần đã hiểu được phái Thanh Thành có âm mưu chiếm đoạt bộ Tịch tà kiếm phổ của dòng họ Lâm ở Phúc Châu, Phúc Kiến. Cho nên khi phái Thanh Thành xuống Phúc Châu, Nhạc Bất Quần đã sớm cho Lao Đức Nặc cùng con gái là Nhạc Linh San đến trước, sang lại một tiệm rượu nhằm mục đích dòm dỏ động tĩnh của phái Thanh Thành. Phái Thanh Thành thực hiện âm mưu chiếm đoạt Tịch tà kiếm phổ của họ Lâm một cách thô thiển, còn Nhạc Bất Quần thì thực hiện âm mưu này một cách tinh vi, thâm độc hơn. Nhạc Bất Quần chỉ đợi phái Thanh Thành chiếm được Tịch tà kiếm phổ là y ra tay cướp giật ngay. Nói chung, ban đầu thì y chỉ muốn cướp của một thằng ăn cướp.

Thế nhưng, phái Thanh Thành không tìm ra được kiếm phổ. Người tìm ra kiếm phổ lại chính là Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử của bị cáo Quần. Trong lúc Lệnh Hồ Xung ngất xỉu, bị cáo Quần đã lấy kiếm phổ trong người đệ tử mình, đem cất giấu để rồi sau đó “dẫn đao tự cung” để luyện Tịch tà kiếm phổ! Hành vi thâm độc đó đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo Khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Để đánh lạc hướng những kẻ cùng nuôi âm mưu như mình, Nhạc Bất Quần loan tin trên giang hồ rằng Lệnh Hồ Xung kết giao với tà ma, định mượn tay những người chính phái trừ khử Lệnh Hồ Xung. Nguy hiểm hơn, Quần cho đệ tử của mình rình rập Lệnh Hồ Xung khi thấy kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung phát triển vượt bậc để các đệ tử nghi ngờ rằng Lệnh Hồ Xung đã “nuốt” Tịch tà kiếm phổ. Thực ra là, theo công tác phúc tra của Viện chúng tôi, đối chiếu với lời khai các nhân chứng có trong hồ sơ vụ án, gã Lệnh Hồ Xung này chỉ học Độc Cô cửu kiếm do thái sư thúc tổ phái Hoa Sơn là Phong Thanh Dương truyền dạy. Tịch tà kiếm phổ mà đem so với Độc Cô cửu kiếm thì chẳng khác gì đem nhạc sến so với nhạc cổ điển, đem gái bia ôm so với gái gọi trong đường dây cao cấp mà báo chí làm rùm beng mấy bữa nay. Bị cáo Nhạc Bất Quần còn gửi thư công khai đến chưởng môn các môn phái kể tội Lệnh Hồ Xung, lời lẽ tuy rất mực khiêm nhường nhưng bộc lộ dã tâm hết sức đen tối. Hồ sơ vụ án còn lưu một bản thủ bút của y gửi đồng chí chưởng môn phái Thiếu Lâm là Phương Chứng đại sư. Trong thư, y kêu gọi phái Thiếu Lâm ra tay tru diệt Lệnh Hồ Xung vì Lệnh Hồ Xung đã kết giao với tà mà ngoại đạo. Bị cáo Quần đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của một chưởng môn, lại vu khống Lệnh Hồ Xung phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của y đã đủ yếu tố cấu thành tội danh vu khống theo Khoản 2 Điều 122 Bộ luật Hình sự. Lệnh Hồ Xung không bị đồng đạo giang hồ giết chết là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo.

Không dừng lại ở đó, Nhạc Bất Quần đã liên tiếp thực hiện những hành vi gây án đê hèn, man rợ hơn. Khi Lâm Bình Chi, đứa con duy nhất của dòng họ Lâm ở Phúc Châu và là đệ tử của bị cáo Quần, biết được bị cáo đã lấy được Tịch tà kiếm phổ của tổ tiên mình thì bị cáo đã đâm Lâm Bình Chi một nhát kiếm chí mạng. Ngay lúc đó, một đệ tử khác của bị cáo là Cao Căn Minh chứng kiến được cảnh thầy giết trò, lỡ miệng la lên một tiếng; bị cáo đã xoay kiếm lại, giết nhân chứng Cao Căn Minh. Nhờ đó mà Lâm Bình Chi thoát chết. Lời khai của nhân chứng Lâm Bình Chi trước phiên toà hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của vợ ị cáo là Ninh Trung Tắc và con gái của bị cáo là Nhạc Linh San trước khi họ qua đời, có cơ sở để tin cậy. Mặc dù bị cáo ngoan cố phản cung, khai rằng không biết ai đã giết Cao Căn Minh và đâm Lâm Bình Chi nhưng chúng tôi vẫn đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Quần phạm tội giết người theo Khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự. hành vi giết người của bị cáo Quần phạm vào Tiết a (giết nhiều người), Tiết g (để thực hiện hoặc che dấu tội phạm khác), Tiết i (thực hiện tội phạm một cách man rợ), Tiết q (động cơ đê hèn). Tôi đền nghị Hội đồng xét xử đặc biệt quan tâm đến hành vi phạm tội này của bị cáo Quần bởi hành vi này đã khái quát được bản chất nguỵ quân tử của bị cáo.

Vượt xa hơn nữa, Nhạc Bất Quần đã giết hai vị sư thái Định Nhàn và Định Tĩnh của phái Hằng Sơn ngay tronng hậu viện chùa Thiếu Lâm. Hai vị sư thái đã chết, không còn ai đối chứng nhưng nhân chứng Nhậhm Doanh Doanh đã từng cởi áo hai vị sư thái quan sát vết thương, đã cho biết vết thương rất nhỏ, đâm trúng vào tim mạch. Loại vết thương này chỉ có thể xuất phát từ hung khí gây án là cây kim thêu. Mà đại phàm ai luyêệ được Tịch tà kiếm phổ thì mới dùng được kim thêu để gây án. Cho nên chúng tôi thấy đã đủ cơ sở kết luận Nhạc Bất Quần giết hai vị sư thái này.

Khi phái Hằng Sơn họp hội nghị tấn phong chưởng môn mới, bị cáo Nhạc Bất Quần đã sử dụng thuốc mê, bắt hết toàn bộ nữ đệ tử của phái này đem về giam giữ dưới các hang động trên núi Hoa Sơn. Mục đích của bị cáo là làm cho chưởng môn mới của phái Hằng Sơn phải đầu hàng, làm tay sai cho bị cáo để bị cáo yên tâm làm chưởng môn Ngũ Nhạc phái. Điều may mắn là trong bọn nữ đệ tử phái Hằng Sơn, ngoài các nữ ni ra còn có đệ tử tục gia. Các nữ đệ tử tục gia này vẫn được phép dùng son phấn, nước hoa. Họ là khách hàng quen thuộc của các hãng Sài Gòn mỹ phẩm, Lancôme, P&G, De Bon… Và trong đám nam đệ tử phái Hằng Sơn có Điền Bá Quang, một nhân vật có cái mũi thần kỳ, đứng xa ba ngàn thước vẫn đánh hơi được mùi mỹ phẩm. Nhờ kỹ năng đặc biệt này, Điền Bá Quang đã hít hơi, tìm và cứu được mấy trăm nữ đệ tử phái Hằng Sơn bị giam dưới các hang động. Hành vi bắt, giữ và giam người trái pháp luật của bị cáo Nhạc Bất Quần là có tổ chức, phạm tội đối với nhiều người, xúc phạm nghiêm trọng đến phẩm giá cao quý của nggười phụ nữ, đặc biệt là đối với các ni cô; gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế đối với các hãng mỹ phẩm. Hành vi ấy đã phạm vào tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật được quy định tại Khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Thưa Hội đồng xét xử,

Nhạc Bất Quần đã phạm các tội trộm cắp tài sản theo Khoản 2 Điều 138 có mức án từ 2 đến 7 năm tù; tội vu khống theo Khoản 2 Điều 122 có mức án từ 1 đến 7 năm tù; tội giết người theo Khoản 1 Điều 193 có mức án tử hình; tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo Khoản 2 Điều 123 có mức án từ 1 đến 5 năm tù. Chúng tôi đề nghị mức án tổng hợp tử hình đối với bị cáo Nhạc Bất Quần về cả bốn tội danh trên.

Xin cảm ơn Hội đồng xét xử.

Bản luận tội Nhất Đăng đại sư


Kính thưa Hội đồng xét xử,

Bị cáo Nhất Đăng là một nhân vật... trong bộ tiểu thuyết Xạ điêu anh hùng truyện. Nhất Đăng chỉ là pháp hiệu, tên thật của bị cáo là Đoàn Trí Hưng, nghề nghiệp: hoàng đế nước Đại Lý; địa chỉ thường trú: thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ngày nay. Bị cáo Nhất Đăng đã từng được nhà văn Kim Dung xếp vào Võ lâm ngũ bá (5 ông trùm của võ lâm) cùng với Vương Trùng Dương (giáo chủ phái Toàn Chân), Hồng Thất Công (bang chủ Cái bang), Âu Dương Phong (chưởng môn Bạch Đà Sơn) và Hoàng Dược Sư (đảo chủ Đào Hoa đảo).

Tống Thái tổ Triệu Khuông Dẫn lên ngôi làm vua ở Trung Quốc, mở ra nhà Đại Tống, đóng đô ở Biện Kinh, tức phủ Khai Phong từ năm 960. Họ Đoàn lên ngôi vua ở Côn Mình, mở ra nước Đại Lý trước Triệu Khuông Dẫn 23 năm, tức từ năm 937. Đại Lý là một quốc gia độc lập ở phía Tây nam Trung Quốc, coi Phật giáo là quốc giáo. Các vua nước Đại Lý sùng mộ Phật giáo, tính đến Nhất Đăng thì trong 18 đời đã có 7 vị xuất gia làm sư. Bị cáo Nhất Đăng là đời vua thứ 18 của nước Đại Lý nhưng động cơ xuất gia của bị cáo không phải là do sùng mộ Phại giáo mà nên. Bị cáo xuất gia là để tránh một sự trả thù và đồng thời cũng để tỏ lòng ăn năn hối hận về những hành vi phạm pháp luật mà bị cáo đã gây ra trước đó. Hồ sơ vụ án do Kim Dung xây dựng đã thể hiện rõ lời nhận tội của bị cáo: “Ta tạo phúc cho trăm họ thì ít mà gây ra tội nghiệt thì nhiều”. Cần nhớ rằng bị cáo nhận tội ngay trong bản cung đầu tiên, trạng thái tinh thần hoàn toàn sáng suốt, không hề bị cán bộ điều tra dùng nhục hình, bức cung, dụ cung.

Có thể nói khi còn là hoàng đế nước Đại Lý, bị cáo Nhất Đăng là con người lý tưởng, biết giữ cho quốc gia một nền hoà bình bền vững, biết chăm lo cơm áo cho trăm họ. Bản thân bị cáo cũng là tôn sư của một võ phái, là một đại hành gia với tuyệt kỹ Nhất dương chỉ. Võ công của bị cáo cao cường đến nỗi một chỉ (ngón tay) phóng ra có thể là tan bia vỡ đá, huống chi nói tới tấm thân huyết nhục của con người. Bản lĩnh của bị cáo thật khiến cho người ta kinh hãi: “Ngón tay phóng ra co vào như ý muốn; cánh tay cử động ung dung khoáng dật, điểm vào 36 đại huyệt với 36 thủ pháp khác nhau”. Rồi có khi: “Nhà sư đi như rồng, bước như cọp, cánh tay rung rung như chuồn chuồn điểm thủy”. Phòng cách võ công của bị cáo là phong cách võ công của một bậc đại vương giả, người thường ít ai có được. Một người như bị cáo tưởng đã có thể an tâm là vua nước Đại Lý lâu dài, tiếp tục tạo phúc cho trăm họ, tiếp tục làm một thế lực đối trọng chống kẻ tà ác để góp phần duy trì công đạo cho võ lâm. Ấy thế mà bị cáo đã phạm tội đến nỗi phải đào nhiệm, bỏ trốn khỏi nơi cu trú, dẫn một số quan chức thân cận về huyện Đào Nguyên, Giang Nam, Trung Quốc rồi xuống tóc đi tu.

Đại Lý là một nước nhỏ; họ Đoàn làm vua thường chủ trương kiệm ước, khác hẳn cách sống hưởng thụ xa hoa, truỵ lạc của các vua nhà Đại tống. Các vua Đại Lý không tổ chức ra tam cung lục viện; hàng năm cũng không tuyển thêm các hoa hậu, hoa khôi, người mẫu, thiếu nữ thanh lịch để bổ sung vào đội ngũ phi tần, cung nữ. Tuy vậy, bị cáo Nhất Đăng, tức Đoàn Trí Hưng, vẫn là vua nên ngoài hoàng hậu chánh cung còn có thêm một số thứ phi khác. Trong đội ngũ phi tần ấy, có Lưu phi, tên thật là Lưu Anh Cô, 19 tuổi, thật sự là một đại hoa hậu.

Lưu Anh Cô hiếu võ, thường mong muốn được bị cáo dạy cho những môn võ công độc đáo. Ban đầu thì bị cáo có dạy cho Lưu Anh Cô vài ba chiêu thức nhưng sau đó việc dạy dỗ trở nên lơ là, thậm chí nghĩa vụ chăn gối cũng thực hiện không xong. Theo bị cáo, tình hình tồi tệ đó xảy ra là do bị cáo phải tiếp giáo chủ Toàn Chân giáo Vương Trung Dương đang sang thăm và làm việc với bị cáo để trao đổi võ công thượng thừa.

Đi theo Vương Trùng Đương có gã sư đệ tên Châu Bá Thông, ngoaạ hiệu là Lão ngaon đồng, tâm tính hồn nhiên, con người hiếu động, chỉ thích giỡn chơi. Lưu Anh Cô gặp Châu Bá Thông, đề nghị gã này dạy cho cô phép điểm huyệt. THế nhưng đại phàm phép điểm huyệt là ít nhất phải đưa ra một ngón tay để đụng chạm vào da thịt của người khác. Mà những huyệt đạo trên thân thể con người lại nằm ở những vị trí rất ác hại: huyệt Mi tâm nằm giữa hai lông mày, huyệt Đản trung nằm giữa ngực, huyệt Đan điền nằm dưới lỗ rún mấy phân tây... Từ điểm huyệt, Châu Bá Thông và Lưu Anh Cô đã thực hiện chuyện “điểm” nhau ngay trong cung cấm. Bị cáo Nhất Đăng có biết rõ việc ấy. Đó là việc xảy ra trong hoàng cung, bị cáo đang làm vua và làm chủ nhà. Chuyện bị cáo phản cung, cho rằng mình không biết chuyện quan hệ giữa Châu Bá Thông và Lưu Anh Cô là không có cơ sở để tin cậy.

Lưu Anh Cô có thai với Châu Bá Thông. Vương Trùng Dương giận lắm, muốn trừng phạt gã sư đệ lỗ mãng dã dám động chạm đến ái phi của ông bạn quý. Song bị cáo Nhất Đăng chính thức tuyên bố cho phép Lưu Anh Cô được lấy Châu Bá Thông, hai người phải nên duyên nợ vợ chồng. Lúc này thì Châu Bá Thông giở quẻ. Đương sự tâu rõ với bị cáo rằng đương sự gây ra lầm lỗi, bị cáo muốn giết đương sự cũng được nhưng đừng bắt buộc đương sự phải làm chồng Lưu Anh Cô. Rồi đương sự... chạy trốn khỏi chốn hoàng cung nước Đại Lý. Từ đó, bị cáo không nhìn đến Lưu Anh Cô nữa.

Hai năm sau, một đêm, Lưu Anh Cô chợt xuất hiện, bồng đứa con trên tay đến nhờ bị cáo Nhất Đăng cứu mạng. Nguyên đứa con của cô bị một cao thủ nào đó đánh trọng thương nhưng đứa bé không chết. Hành vi vố ý gây thương tích này có ý đồ rõ ràng: kẻ gây án muốn bị cáo Nhất Đăng sử dụng Nhất dương chỉ để cứu mạng cho đứa bé, khiến cho bị cáo tiêu hao công lực để kẻ thù ra mặt thách đấu.

Ban đầu, bị cáo nhận cứu giúp đứa con riêng của Lưu Anh Cô. Nhưng khi giở tấm khăn bọc đứa bé ra, bị cáo nhìn thấy chiếc yếm đứa bé đang đeo chính là tấm khăn gấm thêu đôi uyên ương và những câu thơ do Lưu Anh Cô tặng Châu Bá Thông thì ngẩn người ra. Hồ sơ vụ án không thể hiện rõ bị cáo có nổi lòng ghen tức hay không, nhưng có ghi lại một câu mà bị cáo đã nói: “Con của các ngươi sinh ra thì tại sao ta phải hao tổn tinh lực để cứu?”. Lưu Anh Cô quỳ lại bị cáo, nguyện tự xử lấy mình để bị cáo ra tay cứu mạng cho đứa bé nhưng bị cáo vẫn không chịu cứu giúp. Chỉ trong một đêm mà mái tóc xanh của Lưu Anh Cô đã trở nên bạc trắng. Bị cáo nhìn rõ mọi diễn biến đo trên mái tóc của Lưu Anh Cô nhưng y vẫn không chịu cứu đứa bé. Trong lúc quẫn trí, Lưu Anh Cô điên cuồng cất tiếng hát ru con rồi dùng lưỡi truỷ thủ mang trong người giết chết đứa bé rồi bỏ hoàng cung ra đi.

Đứa bé ấy là con của Lưu Anh Cô và Châu Bá Thông. Thế nhưng trên phương diện pháp luật, Lưu Anh Cô vẫn là vợ của bị cáo bởi trong hồ sơ vụ án không có một chứng cứ nào chứng minh rằng bị cáo và Lưu Anh Cô đã ly dị; bị cáo không còn nghĩa vụ làm chống đối với Lưu Anh Cô. Lưu Anh Cô lại sinh đứa bé ra ngay trong hoàng cung nên trên danh nghĩa, đứa bé ấy vẫn là con của bị cáo, trừ trường hợp bị cáo xuất trình được... biên bản xét nghiệm ADN chứng minh đứa bé không mang những đặc điểm di truyền của bị cáo. Mà dù đứa bé ấy là con của một người nào đó thì bị cáo vẫn phải có nghĩa vụ cứu giúp nạn nhân bởi bị cáo có công phu Nhất dương chỉ, tức là có khả năng và điều kiện cứu giúp nạn nhân.

Nếu xét theo... pháp luật Việt Nam ngày nay, hành vi từ chối cứu người của bị cáo Nhất Đăng đã phạm vào tội không cứu người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, được quy định rõ tại Tiết b Khoản 2 Điều 102 Bộ luật Hình sự năm 1999 “Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.”, có khung hình phạt từ 1 đến 5 năm tù.

Ở đây, chúng tôi xin lưu ý Hội đồng xét xử một điều là bị cáo Nhất Đăng có trình độ văn hóa cao, có hiểu biết pháp luật sâu rộng. Nạn nhân trong trường hợp cụ thể này là một hài nhi. Cho nên hành vi phạm tội của Nhất Đăng không có một tình tiết nào có thể được gọi là giảm nhẹ. Từ những điều đã trình bày trên, cần có một bản án thích hợp với hành vi gây án của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục bị cáo và góp phần răn đe giáo dục chung. Tôi đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nhất Đăng, tức Đoàn Trí Hưng mức án 5 năm tù giam, cấm bị cáo đảm nhiệm chức vụ hoàng đế nước Đại Lý vĩnh viễn.

Xin cám ơn Hội đồng xét xử.

Báo cáo về việc đình chỉ điều tra vụ án Tiểu Long Nữ


Trong thời gian qua, dư luận xã hội và dư luận của các bạn đọc bộ tiểu thuyết Thần điêu hiệp lữ đặc biệt quan tâm đến trường hợp Tiểu Long Nữ bị hiếp dâm. Cơ quan điều tra của chúng tôi đã nhận được đơn khiếu nại của đương sự.

Tiểu Long Nữ là một cô gái 18 tuổi, chưởng môn phái Cổ Mộ Đài, học trò của Lâm Triều Anh. Sư phụ của đương sự trước đây có tình cảm với Vương Trùng Dương, chưởng môn phái Toàn Chân. Cả hai phái Toàn Chân và Cổ Mộ Đài cùng đóng ở chân núi Chung Nam cho nên đệ tử của hai phái là hàng xóm với nhau. Các báo cáo của Công an huyện và Công an xã ghi nhận: tuy là hàng xóm nhưng giữa hai phái đã xảy ra những việc xích mích, thậm chí đánh nhau bằng vũ khí. Nhận thấy đây là hai võ phái thuộc hệ thống võ lâm Trung Nguyên, hơn nữa hậu quả của các lần xung đột không nghiêm trọng, địa phương đã có ý kiến giáo dục, hoà giải đôi bên; chưa đến mức phải xử phạt hành chính. Mọi việc chỉ thực sự nghiêm trọng khi có tên Dương Qua và tu chung với Tiểu Long Nữ trong Cổ Mộ Đài.

Dương Qua, còn gọi là Quá (lỗi lầm), là một thiếu niên mới 16 tuổi, cha là Dương Khang (đã chết), mẹ là Mục Niệm Từ (đã chết). Theo các hồ sơ còn lưu trữ tại cơ quan điều tra thì trước đây, Dương Khang đã từng nhận tên giặc Kim là Định Nam vương Hoàn Nhan Hồng Liệt làm cha, từng gây nhiều nợ máu với nhân dân các tỉnh Đông - Bắc Trung Quốc. Dương Khang lấy Kim tịch là Hoàn Nhan Khang, tính tình khắc bạc và dâm đãng. Việc y có con với Mục Niệm Từ là ngoài ý muốn của y. Sinh ra đứa con, Mục Niệm Từ mới đặt tên con là Dương Quá theo ý của đức Khổng Tử dạy: “Hữu quá tắc cải” (có lỗi thì phải sửa). Bà Từ cho rằng việc Dương Khang nhận giặc làm cha là lỗi lầm lớn nhất và hy vọng đứa con sẽ sửa được lỗi lầm của cha.

Dương Qua lớn lên, học tạp nhạp rất nhiều món võ công (của Hồng Thất Công, Hoàng Dung, Quách Tĩnh...). Đặc biệt là y tôn Âu Dương Phong, một ma đầu, trang chủ Bạch Đà Sơn trang ở Tây Vực, nhận y làm cha nuôi (dưỡng phụ). Sau đó, y sinh sự và đánh nhau với bọn đệ tử phái Toàn Chân. Bị người của phái Toàn Chân đuổi đánh, y chạy trốn vào Cổ Mộ Đài, được Tiểu Long Nữ ra tay cứu giúp. Tiểu Long Nữ có nuôi một bầy ong độc, thả bầy ong ra tập kích đệ tử phái Toàn Chân; nhờ đó mà Dương Qua mới trốn thoát. Cơ quan Cảnh sát điều tra chúng tôi nhận định rằng chính vụ việc này là nguyên nhân dẫn đến vụ án sau này.

Theo lới khai của Tiều Long Nữ trước cơ quan điều tra thì có một lần cô tự ý thoát y ở một chỗ vắng vẻ để luyện môn võ công Ngạc nữ tâm kinh, đã bị một người đàn ông nào đó điểm huyệt từ phía sau và thực hiện hành vi đồi bại. Cũng theo lời khai của cô, trong lúc thực hiện hành vi này, kẻ gây án đã lấy áo của cô che mặt cô lại nên cô không xác định được kẻ gây án là ai. Đương sự cũng cho biết, ban đầu cô nghĩ đó là Dương Qua, đứa học trò chỉ thua cô 2 tuổi. Cô khai đã bóng gió điều tra tên học trò này nhiều lần nhưng y không tỏ vẻ gì là tha thiết với cô về mặt quan hệ sinh lý. Mà theo cô, trên đời này chỉ có Dương Qua mới là kẻ thực hiện hành vi đồi bại đó, bởi hôm ấy chỉ có y mới biết cô đang luyện công phu Ngọc nữ tâm kinh và công phu này cần phải thoát y thì mới luyện thành. Về sau này, một số “chưởng môn” khác như Brigitte Bardot, Jennifer Aniston, Marilyn Monroe, Sophia Loren, Kim Bassinger... cũng thường xuyên thoát y luyện môn này nhưng không thành công. Một là vì họ luyện ở chỗ đông người, hai là họ luyện mà không có tâm pháp, ba là họ luyện lâu quá khiến các ông chụp hình thoải mái, thành ra trò cười của thiên hạ. Nói chung, Tiểu Long Nữ nghi ngờ Dương Qua chính là kẻ gây án.

Cơ quan điều tra đã triệu tập Dương Qua đến làm việc. Dương Qua khai ngày ấy, chính y đã biết Tiểu Long Nữ luyện Ngọc nữ tâm kinh. Y vâng lời dạy của sư phụ nên ngồi rất xa sư phụ và hoàn toàn không biết việc gì đã xảy ra. Lời khai của y có vể thành thật. Cơ quan điều tra đã xác minh đầy đủ giờ giấc của Dương Qua và thấy rằng không có khoảng thời gian nào bất minh để có thể kết luận y là kẻ gây án. Cơ quan điều tra thấy không đủ cơ sở để buộc tội Dương Qua.

Cơ quan điều tra cũng đã triệu tập tên Doãn Chí Bình đến làm việc. Bình là người phái Toàn Chân, đệ tử của đạo sĩ Khưu Xứ Cơ. Bình khia sáng hôm ấy, y quét tước, dọn dẹp trong sơn môn; không hề ra sau núi, cũng không dám bước sang ranh giới của phái Cổ Mộ Đài nên Bình không hề hay biết gì về sự việc xảy ra xung quanh núi. Tên đạo sĩ lời khai khá hồ đồ, quanh co nhưng cơ quan điều tra không tìm được yếu tố buộc tội nên đã thả y ra.

Tại sao cơ quan điều tra không tìm được yếu tố buộc tội? Đó là do đương sự Tiểu Long Nữ phản ánh mọi sự việc với cơ quan điều tra quá chậm. Trong thâm tâm, đương sự cho rằng kẻ thực hiện hành vi ấy là Dương Qua, người mà đương sự thầm yêu trộm nhớ. Mãi đến 3 tháng sau, khi hiểu ra rằng nhận định đó là sai lầm, Tiểu Long Nữ mới nộp đơn để nghị khởi tố vụ án với cơ quan điều tra. Nếu đương sự đề nghị khởi tố ngay trong ngày hôm ấy thì chúng tôi đã có thể lấy mẫu, trưng cầu xét nghiệm ADN và đã có thể tìm ra thủ phạm.

Sau đó hơn một năm, Doãn Chí Bình và một đồng môn khác là Triệu Chí Kính đánh nhau. Triệu Chí Kính có tố cáo Bình là kẻ đã thực hiện hành vi đồi bại với Tiểu Long Nữ. Dư luận nhân dân ở núi Chung Nam đã phản ánh điều đó với chúng tôi và chúng tôi đã mời Triệu Chí Kính lên làm việc. Kính khai rằng y có biết Doãn Chí Bình đã thực hiện hành vi ấy với Tiểu Long Nữ nhưng khi cơ quan điều tra hỏi y có trực tiếp chứng kiến không thì Kính trả lời là không. Bởi giữa Bình và Kính đang có sự tranh chấp về quyền lợi, địa vị nên cơ quan điều tra rất thận trọng, không loại trừ khả năng Kính thù ghét Bình mà đưa ra dư luận bất lợi cho Bình. Tuy nhiên, cơ quan điều tra cũng tống đạt lệnh triệu tập đến Doãn Chí bình lần thứ hai. Đại diện phái Toàn Chân cho biết Bình đã đi xa, không rõ nơi nào và không rõ ngày nào về. Có nguồn tin khác cho biết là Bình tham gia lực lượng đánh quân Mông Cổ.

Vụ án kéo dài 3 năm; cơ quan điều tra của chúng tôi cũng đã làm hết sức mình trong phạm vi cho phép của pháp luật nhưng không tìm ra thủ phạm. Tang chứng, vật chứng của vụ án không còn: hiện trường cũng đã thay đổi quá nhiều. Người bị hại Tiểu Long Nữ cùng học trò cô là Dương Qua đã bỏ Cổ Mộ Đài ra đi. Căn cứ vào Điều 139 Bộ luật Tố tụng Hình sự, cơ quan điều tra đã ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Nếu có được chứng cứ xác thực, đáng tin cậy, chúng tôi sẽ phục hồi điều tra vụ án. Vậy xin báo cáo để các cơ quan hữu quan rõ.

Kết luận điều tra về hành vi phạm tội của Chu Chỉ Nhược


Họ và tên bị can: Chu Chỉ Nhược
Tên khác: Không có
Trình độ văn hoá: Biết đọc biết viết, tinh thông Dịch kinh
Tôn giáo: Phật giáo
Hoàn cảnh gia đình: Độc thân
Nghề nghiệp: chưởng môn phái Nga My

Căn cứ vào Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam năm 1999, cơ quan điều tra đề nghị truy tố bị can Chu Chỉ Nhược về các tội danh “giết người” (Điều 93), ”giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” (Điều 95), “trộm cắp tài sản” (Điều 138), “cố ý làm hư hỏng tài sản” (Điều 143). Trên cơ sở điều tra, cơ quan điều tra kết luận như sau:

Bị can Chu Chỉ Nhược là con gái của người thuyền chài không rõ tên trên sông Hán Thủy. Trong lần đào thoát của Thường Ngộ Xuân và Chu công tử, con trai của Chu Tử Vượng; cha của bị can bị quân Nguyên (Mông Cổ) bắn chết. Thường Ngộ Xuân nguyên là bộ tướng của Chu Tử Vượng, một người trong lực lượng Minh giáo tham gia khởi nghĩa chống quân Nguyên ở Hoài Tứ. Khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Chu Tử Vượng bị giết, Thường Ngộ Xuân cùng con trai của Chu Tử Vượng bị quân Mông Cổ truy sát trên dòng sông Hoài Thuỷ, làm chết Chu công tử và cha của bị can. May là lúc đó Trương Tam Phong, chưởng môn phái Võ Đang, cùng đồ tôn là Trương Vô Kỵ đang trên đường từ chùa Thiếu Lâm về, đã đánh tan quan binh truy sát, cứu mạng Thường Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược.

Lúc bấy giờ, Trương Vô Kỵ mới 10 tuổi và Chu Chỉ Nhược mới 8 tuổi nhưng đã quyến luyến nhau. Trương Vô Kỵ gặp bệnh hiểm nghèo sắp chết nhưng Nhược đã làm quen, đút cơm cho Vô Kỵ ăn, an ủi Vô Kỵ. Trước tình cảnh đó, Thường Ngộ Xuân đưa ra một điều kiện: Xuân sẽ đưa Vô Kỵ đi gặp bác sĩ giỏi để chữa bệnh; ngược lại Trương Tam Phong sẽ bảo bọc cho Chu Chỉ Nhược. Hai bên đã đồng ý.

Sau khi về núi Võ Đang, Chu Chỉ Nhược được Trương Tam Phong gửi làm đệ tử tục gia của Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Phật giáo Nga My. Tại đây, y thị tu học trên 10 năm, trở thành một vị cô nương xinh đẹp, võ công cao cường. Khi Diệt Tuyệt sư thái sắp qua đời, có di ngôn cho Chu Chỉ Nhược kế tục đảm nhiệm chức vụ chưởng môn phái Nga My. Cũng trong thời gian đó, Trương Vô Kỵ bị lưu lạc sang Tây Vực, nhờ may mắn mà tự chữa được bệnh và tu tập được võ công cao cường, cứu được bọn quần hùng Minh giáo (Bái hỏa giáo Trung Quốc), được tôn xưng giáo chủ Minh giáo. Xa nhau hơn 10 năm, cả hai gặp lại nhau trên đỉnh Quang Minh, dãy Thiên Sơn tại Tây Vực.

Trong lúc truy tìm và giải cứu cha nuôi là Tạ Tốn đang bị Kim Hoa bà bà giam lỏng tại Linh Xà đảo, Vô Kỵ tình cờ gặp lại Chu Chỉ Nhược và Hân Ly (em họ của Vô Kỵ). Cùng đi với Vô Kỵ có Triệu Mẫn (tên thật là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ, Thiệu Mẫn quận chúa Mông Cổ) và Tiểu Siêu (gái lai Ba Tư, người hầu của Vô Kỵ). Thấy Vô Kỵ có mang theo hai bảo vật hiếm có trên thế gian là kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long, Chu Chỉ Nhược đã rắp tâm chiếm đoạt, chỉ chờ có cơ hội thuận tiện là ra tay.

Trên vùng biển Linh Xà đảo, Vô Kỵ đã đụng độ với 12 Bảo Thụ vương và Phong Vân Nguyệt tam sứ của Bái hoả giáo Ba Tư. Tại đây, Kim Hoa bà bà, nguyên là Tử Sam Long Vương (đứng đầu trong Tứ hộ giáo pháp vương của Minh giáo Trung Quốc), bị người Ba Tư bắt và chuẩn bị đưa lên giàn hỏa vì đã phản bội sứ mạng của Minh giáo Ba Tư. Kim Hoa bà bà, tên thật là Đại Ỷ Ty, nguyên là Thánh nữ của Bái hoả giáo Ba Tư, là mẹ ruột của Tiểu Siêu, người hầu của Vô Kỵ. Để cứu tất cả mọi người, Tiểu Siêu, dù đã thầm yêu, phải chấp nhận xa Vô Kỵ, trở về Ba Tư để lên ngôi giáo chủ Bái hoả giáo, cứu mạng cho mẹ ruột. Chia tay trên biển, Trương Vô Kỵ đưa Tạ Tốn, Hân Ly, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược trở về Trung Nguyên. Trên đường về, họ ghé tạm vào một hòn đảo không tên để nghỉ ngơi và điều trị các vết thương. Tại đây, bị can Chu Chỉ Nhược đã thực hiện các hành vi gây án nghiêm trọng.

Biết Triệu Mẫn có món thuốc độc Thập hương nhuyễn cân tán, bị can Chu Chỉ Nhược đã lấy cắp và dùng thủ đoạn đê hèn để đầu độc Vô Kỵ, Tạ Tốn, Triệu Mẫn và Hân Ly. Y thị chiếm đoạt được cả kiếm Ỷ Thiên lẫn đao Đồ Long, làm gãy cả hai bảo vật hiếm có này, lấy được bộ Cửu âm chân kinh - một kinh điển võ học thượng thừa – cùng với bộ chưởng pháp Hàng long thập bát chưởng, Võ Mục di thư - một bộ binh pháp dùng để đuổi quân xâm lược. Y thị trói Triệu Mẫn, bỏ lên thuyền và thả trôi lênh đênh trên biển. Hồ sơ vụ án do Kim Dung ghi lại đã gọi hành vi này là “phóng trục”. May mắn là sau đó Triệu Mẫn không chết và được cứu sống. Đối với Hân Ly, cô em cô cậu yêu Vô Kỵ tha thiết, bị can Nhược đã thể hiện lòng ghen tuông sâu sắc và thực hiện thủ đoạn cực kỳ hèn mạt. Y thị giết Hân Ly bằng cách vạch nhiều nhát kiếm lên mặt cô gái này và tạo hiện trường giả để đổ tội cho Triệu Mẫn.

Thực hiện xong các thủ đoạn gây án hèn mạt đó, bị can Nhược cũng giả vờ trúng độc Thập hương nhuyễn cân tán để đánh lừa Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn. Quả nhiên, Trương Vô Kỵ bị y thị đánh lừa, luôn tin rằng Triện Mẫn là kẻ thủ ác tàn bạo. Riêng nhân chứng Tạ Tốn tuy mù nhưng lại biết rõ các hành vi gây án của bị can Nhược. Tuy nhiên, vì cả Tạ Tốn lẫn Trương Vô Kỵ đều bị trúng độc nên không tiện lên tiếng tố cáo nhằm tránh bị bị can Nhược thủ tiêu bịt đầu mối.

Trở về Trung Nguyên, bị can Nhược luyện ngay Cửu âm chân kinh. Tuy nhiên, do ý nghĩa bộ kinh này quá ảo diệu và nóng lòng muốn thành công nhanh chóng nên y thị chỉ tập trung luyện những phần bá đạo. Từ khi luyện hai môn võ công bá đạo này, bị can Nhược ngày càn tỏ ra tàn bạo hơn. Lúc Triệu Mẫn tìm đến khi lễ cưới giữa Vô Kỵ và bị can diễn ra, kêu gọi Vô Kỵ đi cứu Tạ Tốn; bị can Nhược trong lớp áo cô dâu, đã dùng một chiêu trong Cửu âm bạch cốt trảo, chộp vào đầu Triệu Mẫn hòng giết chết cô ngay lúc ấy. Rất may là Triệu Mẫn đã cảnh giác trước, phản xạ lanh lẹ nên bị can đã đánh trượt vào vai; nhờ đó cô mới thoát chết. Ngoài ra, nhân chứng Vô Kỵ có khai rằng, anh nghi ngờ rằng chính bị can đã thực hiện hành vi giết người đối với đôi vợ chồng già Đỗ Bách Đương và Dịch Tam Nương, cư trú dưới chân núi Thiếu Thất, hòng phục kích giết chết Triệu Mẫn; cũng như nhiều lần chủ mưu hoặc trực tiếp mưu sát Tạ Tốn để bịt đầu mối. Tuy nhiên, yếu tố này chưa đủ bằng chứng để buộc tội bị can.

Trước cơ quan điều tra, bị can Chu Chỉ Nhược đã thú nhận các hành vi gây án đối với những người bị hại. Y thị khai rằng y thị rất yêu thương Trương Vô Kỵ nhưng y thị đã trót có lời thề với sư phụ trước khi bà này chết. Lời thề đó là không được lấy Trương Vô Kỵ mà phải bằng mọi cách lấy cho được bảo kiếm và bảo đao, luyện thành võ công cao cường để đưa páhi Nga My lên đứng đầu thiên hạ. Nhưng trước cơ quan điều tra, những điều y thị nại ra là không có cơ sở để tin cậy.

Trong quá trình điều tra, phá án, cơ quan điều tra đã thu giữ được hai đoạn gãy của thanh kiếm Ỷ Thiên, riêng thanh đao Đồ Long đã được hàn lại, ba bộ kinh sách viết trên lụa mỏng, một bình thuốc độc. Theo biên bản kết luận giám định của phòng khoa học kỹ thuật hình sự, loại độc dược đựng trong bình là một loại thuốc bột kết hợp từ 10 thứ nhuỵ hoa, có tác dụng làm người bị trúng độc uể oải gân cốt, đi đứng không vững có tên là Thập hương nhuyễn cân tán. Trước những lời khai của các nhân chứng, đặc biệt là lời khai của nhân chứng Tạ Tốn ghi tại chùa Thiếu Lâm, các tang chứng, vật chứng cụ thể trên, Chu Chỉ Nhược đã cúi đầu nhận tội.

Kết luận:
Bị can Chu Chỉ Nhược, chưởng môn phái Nga My, đã thiếu tu dưỡng đạo đức, tự buông thả mình theo các tham vọng cá nhân, trở thành kẻ phạm tội. Hành vi lấy kiếm rạch nhiều nhát lên mặt Hân Ly do bị can thực hiện đã cấu thành tội “giết người” theo Điều 93 Bộ luật Hình sự. Việc Hân Ly không chết là ngoài ý muốn chủ quan của bị can. Hành vi đánh Triệu Mẫn trong lễ cưới của bị can đã cấu thành tội “giết người trong trạng thái kích động mạnh” theo Điều 95 Bộ luật Hình sự. Việc bị can dùng thuốc độc đối với bốn người bị hại Vô Kỵ, Tạ Tốn, Triệu Mẫn và Hân Ly khiến bốn người mê man để y thị tiến hành việc trộm cắp bảo kiếm Ỷ Thiên và bảo đao Đồ Long đã cấu thành tội “trộm cắp tài sản” theo Điều 138 Bộ luật Hình sự. Hành vi làm gãy kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long để lấy 3 bộ kinh sách trong đó của bị can đã cấu thành tội “cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Điều 143 Bộ luật Hình sự. Cơ quan điều tra đề nghị Viện Kiểm sát truy tố bị can Chu Chỉ Nhược với 4 tội danh nêu trên. Vậy xin chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án để quý viện nghiên cứu.

Yếu tố bằng chứng trong truyện võ hiệp Kim Dung


Tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung không phải là sách pháp luật, cũng không phải là sách nghiên cứu về khoa học kỹ thuật hình sự. Tuy nhiên, những nhân vật của ông là giới hào sĩ giang hồ, có môn phái rõ ràng, sinh hoạt chủ yếu của họ đặt trên đường đao, mũi kiếm nên ít nhiều đã gây ra những trọng án. Để xây dựng thành một trọng án như thế, Kim Dung đã khéo léo tạo ra những bằng chứng, yếu tố không thể thiếu giúp bọn hào sĩ giang hồ điều tra, khám phá sự thật.

Có những bằng chứng tự nó nói lên sự thật, chỉ ra kẻ gây án. Trong Liên thành quyết (hay Tố tâm kiếm), nhân vật Thích Phương bị giết bởi một lưỡi truỷ thủ - một dạng dao găm ngắn. Nhìn lưỡi truỷ thủ còn cắm trên bụng người sư muội của mình, Địch Vân biết ngay kẻ gây án là Vạn Khuê, chồng của nạn nhân. Vạn Khuê cưới Thích Phương không phải vì tình yêu; hắn chỉ muốn moi bí mật của Liên thành quyết, gồm những chữ ráp lại từ Đường thi tuyển tập để đi tìm một kho báu giá trị liên thành. Những chữ đó là: “Giang Lăng thành Nam, Tây Thiên Ninh tự, hoàng kim Phật tượng, hướng chi mô bái kiến thành chúc cáo thông linh Như Lai tứ phướng vãng sinh cực lạc” (Phía Nam thành Giang Lăng, phí Tây chùa Thiên Ninhtượng Phật trong đại điện, hướng vào thành tâm vái lạy chúc cáo, Đức Như Lai sẽ ban phước được vãng sinh miền cực lạc).

Cũng trong tác phẩm này, khi bật nóc hòm của tiểu thư Lăng Sương Hoa để rải hài cốt của Đinh Điển, người tình của Lăng tiểu thư, vào hợp tán, Địch Vân đã nhìn thấy cẳng tay của bộ xương đưa lên và trên mặt gỗ nắp áo quan phía trong có những chữ viết bằng móng tay. Hai bằng chứng sống động đó cho phép Địch Vân hiểu ra là Lăng Sương Hoa đã bị cha mình, tri phủ Lăng Thoái Tư, chôn sống. Trước khi tắt thở, cô còn gắng gượng đưa tay lên viết những dòng chữ từ biệt người tình Đinh Điển.

Những nhân vật thực hiện công tác điều tra trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung thông minh một cách kỳ lạ. họ chỉ suy đoán nhưng suy đoán đó lại kinh qua những nhận định rất hợp lý và do vậy, họ suy đoán rất trúng. Trong Tiếu ngạo giang hồ, Lệnh Hồ Xung tìm thấy xác hai vị sư thái Định Nhàn và Định Tĩnh phái Hằng Sơn trên chùa Thiếu Lâm. Định Nhàn vẫn còn đủ sáng suốt để nhìn ra Lệnh Hồ Xung và trao lại cho chàng chiếc nhẫn sắt của chưởng môn phái Hằng Sơn. Nhà tu từ bi này tuyệt đối không cho Lệnh Hồ Xung biết ai đã giết mình; Lệnh Hồ Xung là nam nhân, không tiện cởi áo hai vị sư thái ra xem vết thương để biết thủ phạm. Thế nhưng, đại tiểu thư Nhậm Doanh Doanh, bạn gái Lệnh Hồ Xung, đã xem được vết thương đó, biết vết thương là do vật nhọn rất nhỏ đâm trúng trái tim. Cô suy đoán: kẻ giết người đã dùng vật nhọn như mũi kim thêu chẳng hạn; và thân pháp của hắn rất lẹ, công lực của hắn cực cao mới giết nổi Định Nhàn và Định Tĩnh. Để có công lực rất cao, thân pháp cực lẹ, nhân vật này hẳn đã luyện xong Tịch tà kiếm phổ. Kẻ ấy là ai? Chính là Nhạc Bất Quần, gã nguỵ quân tử, kẻ đã ăn cắp được Tịch tà kiếm phổ và nguyên là sư phụ của Lệnh Hồ Xung.

Có những loại bằng chứng rất đặc biệt, gắn liền với một nhân vật đến nỗi nó trở thành “thuộc tính” của nhân vật đó. Và do vậy, khi trưng ra bằng chứng đó, người ta biết ngay nó thuộc về ai. Đó là trường hợp những sợi tóc vàng của Tạ Tốn (Ỷ thiên Đồ long ký). Tạ Tốn có ngoại hiệu Kim mao sư vương (Sư tử lông vàng) vì tóc của nhân vật này vàng rực. Chu Chỉ Nhược, chưởng môn phái Nga Mi, đã phóng trục Triệu Mẫn, giết Hân Ly, mưu toan bắt giam Tạ Tốn, ăn cắp được cả Ỷ thiên kiếm lẫn Đồ long đao. Cô tổ chức lễ cưới với Trương Vô Kỵ, con nuôi (dưỡng tử) của Tạn Tốn. Khi hai người sắp bái thiên địa để thành lứa đôi thì Triệu Mẫn xuất hiện và đưa ra một sợi tóc vàng. Thấy sợi tóc đó, Trương Vô Kỵ đã bỏ đám cưới, chạy theo Triệu Mẫn để cứu nghĩa phụ của mình. Từ sợi tóc vàng đặc biệt này, kết hợp với một số bằng chứng khác nữa, Vô Kỵ dần dần hiểu ra toàn bộ những âm mưu và những thủ đoạn của Chu Chỉ Nhược.

Cũng bởi bằng chứng rất đặc biệt cho nên trong truyện võ hiệp của Kim Dung có trường hợp đưa ra bằng chứng giả, dựng hiện trường giả để vu oan giá họa cho một người hoặc để đánh lạc hướng điều tra. Yếu tố này rất độc đáo bởi xã hội mà Kim Dung muốn phản ánh là xã hội Trung Hoa cách tác giả trên 300 năm.

Thiên Long bát bộ thuật lại câu chuyện nàng Ôn Khang giết chồng là Mã Đại Nguyên, phó bang chủ Cái bang. Để vu oan giá họa cho Kiều Phong, bang chủ Cái bang, Ôn Khang đã phục rượu cho chồng mình say, rồinhờ Bạch Thế Kính, một tình nhân của mình, giết chồng bằng chiêu thức Tỏa hầu cầm nã thủ. Đây là một môn công phu độc đáo mà chỉ có Kiều Phong mới đủ công lực thực hiện. Để tăng độ xác tín, Ôn Khang còn ăn cắp cây quạt của Kiều Phong đặt tại hiện trường, bên xác Mã Đại Nguyên. “Vụ án” này tạo thêm điều kiện để người ta tin rằng Kiều Phong là quân Khất Đan gian ác, đã giết Mã Đại Nguyên để che dấu nguồn gốc Khất Đan của mình.

Trong một thời đại mà khoa học kỹ thuật hình sự còn thô sơ thì hơn bất kỳ yếu tố nào khác, chữ viết được coi là bằng chứng sống động nhất. Trong Lộc Đỉnh ký, để vu oan giá họa cho gã Hán gian tri phủ Dương Châu Ngô Chi Vinh, Vi Tiểu Bảo đã nhờ nhà nho Cố Viêm Võ nhái nét chữ của gia sư Ngô Tam Quế (một phiên vương đang khởi loạn chống vua Khang Hy) viết một bức thư gửi cho Ngô Chi Vinh. Từ phong cách hành văn đến loại giấy viết, Cố Viêm Võ đều mô phỏng đúng các văn thư của phủ Bình Tây vương Ngô Tam Quế. Riêng phần chữ ký giả của Ngô Tam Quế, Cố Viêm Võ phải nhở đến Tiền Lão Bản, một nhân vật võ biền. Tại sao phải nhở đến Tiền Lão Bản? Tiền Lão Bản là con nhà võ, Ngô Tam Quế cũng con nhà võ, học thức kém, chữ viết gân guốc. Phải nhở đến Tiền Lão Bản ký tên gân guốc mới ra nét chữ võ biền của Ngô Tam Quế. Bức thư giả này đương nhiên sẽ đệ trình lên bộ Hình, trở thành vật chứng của “vụ án” Ngô Chi Vinh thông đồng phiên tặc!

Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung không phải là tiểu thuyết hình sự hay trinh thám. Nhưng từ những bằng chứng do ông dựng lên, những cuộc điều tra mà các nhân vật của ông tiến hành, người đọc có cảm giác đang đọc một dạng tiểu thuyết hình sự hay trinh thám hấp dẫn và đầy tình khoa học. Kim Dung nói: “Tiểu thuyết viết để cho con người hiện đại đọc. Chính tôi cũng là con người hiện đại”. Và điều đó cho ta biết tại sao trong những câu chuyện về giới giang hồ hào sĩ này của Kim Dung vẫn mang tính hiện đại của khoa học kỹ thuật hình sự qua những bằng chứng dù thật hay giả đều rất sống động, rất đặc biệt.

Những phiên tòa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung


Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung tập trung phản ánh về sinh hoạt của giới võ lâm; mà nói đến giới võ lâm là nói đến những tôn giáo, môn phái, bang hội. Mỗi tôn giáo, môn phái bang hội có những luật lệ riêng và để thực thi luật lệ ấy, họ cũng tổ chức những phiên tòa xét xử những kẻ phạm môn quy, giới luật. Một cách khái quát, đó là những phiên toà lãng mạn; pháp đình có thể nhóm bất cứ đầu và bất kỳ lúc nào; chủ toạ phiên toàn đồng thời kiêm luôn quyền công tố; có khi có bồi thẩm đoàn tham gia hội thẩm, có khi không.

Đọc Tiếu ngạo giang hồ, ta gặp ngay phiên toà xử Lệnh Hồ Xung do chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần ngồi ghế chủ toạ. Lệnh Hồ Xung đã vi phạm nhiều điều trong "Hoa Sơn thất giới" (bảy điều giới luật của phái Hoa Sơn), trong đó có điều "nguông cuồng tự đại", giết La Nhân Kiệt của phái Thanh Thành; có thiện chí cứu Nghi Lâm - cô nữ ni nhỏ tuổi của phái Hằng Sơn - nhưng lại có những lời xúc phạm đến thanh danh phái Hằng Sơn như là "hễ gặp ni cô là xúi quẩy, đánh bạc tất thua", trốn vào kỹ viện với ni cô Nghi Lâm và Khúc Phi Yến. Nhạc Bất Quần phạt Lệnh Hồ Xung phải lên ngọn Ngọc Nữ Phong, quay mặt vào tường sám hối một năm. Chính thời gian thụ án này đã làm cho Lệnh Hồ Xung phải xa Nhạc Linh San, người tình nhỏ bé, con gái của Nhạc Bất Quần và khiến cho Nhạc Linh San bỏ Lệnh Hồ Xung, đi theo anh chàng Lâm Bình Chi. Tiếu ngạo giang hồ còn có một phiên toà thứ hai: Nhạc Bất Quần thông báo xử tử hình Lệnh Hồ Xung và gởi thông báo đi khắp các môn phái bạch đạo hễ gặp Lệnh Hồ Xung nơi đâu là có quyền tru diệt ngay. Đây là phiên toà vắng mặt bị cáo vì khi ấy Lệnh Hồ Xung đã mất hết công lực, đang ở một chỗ với Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, nhờ Nhậm Doanh Doanh nuôi dưỡng và che chở. Cũng tương tự, Nhậm Doanh Doanh cũng ra một thông báo tương tự: bất kỳ hào khách giang hồ hắc đạo nào gặp Lệnh Hồ Xung cũng phải giết ngay. Tại sao có bản án tử hình đó? Rất đơn giản: Nhậm Doanh Doanh đã thương yêu Lệnh Hồ Xung và cô biết chỉ có cô mới bảo vệ nổi chàng trai này. Cô phải ra lệnh như thế để Lệnh Hồ Xung vĩnh viễn ở lại bên cô, tiếp tục được cô che chở và chữa trị. "Phiên toà" và cái ản tử hình đó mênh mông một tình thương yêu đằm thắm, nghe ra có vẻ trẻ con những rất hợp logique. Đó là cách bày tỏ tình yêu của Thánh cô Nhậm Doanh Doanh!

Trong Thiên Long bát bộ, nhân vật Kiều Phong (tức Tiêu Phong), người Khất Đan, cũng từng là bị cáo của hai phiên toà, một phiên toà trên đất Khất Đan. Phiên toà thứ nhất mở ra tại Tụ Hiền trang của anh em nhà Du Ký - Du Câu, do phái Thiếu Lâm ngồi ghế chủ toạ; các môn phải khác ở Trung Hoa giữ quyền công tố. Bị cáo Kiều Phong vắng mặt, bị kết án là quân Khất Đan chó má (Liêu cẩu), đại ác, cần phải tiêu diệt. Thế nhưng, chàng Kiều Phong lại dẫn xác tới. Lý do: anh muốn đi tìm Thần y Tiết Mộ Hoa để chạy chữa cho A Châu, một cô gái mới quen biết, vừa được anh cứu ra khỏi chùa Thiếu Lâm. Phiên toà tiến hành rất lãng mạn: sau khi nghe mọi người kết án mình, Kiều Phong bình tĩnh gởi gắm A Châu lại cho thuộc hạ cũ là Bạch Thế Kính nhờ chăm sóc, xin anh em họ Du mấy chục hũ rượu rót đầy bát uống để chia tay với quần hùng Trung Hoa. Đó là lần đầu tiên người ta thấy bị cáo uống rượu với quan toà và các uỷ viên công tố! Uống xong, Kiều Phong địa khai sát giới, đánh nhau loạn xạ trong vòng vây của "quý toà" để tìm đường sống cho mình.

Phiên toà thứ hai xử Kiều Phong diễn ra tại Yên Kinh, nước Khất Đan. Khi ấy, Kiều Phong đã đổi lại họ tên Khất Đan - Tiêu Phong và giữ chức Nam Viện đại vương, tư lệnh tất cả các lực lượng bộ binh và kỵ binh Khất Đan. Ông lại còn là em kết nghĩa của hoàng đế Gia Luật Hồng Cơ. Hồng Cơ ra lệnh cho Kiều Phong đem hai chục vạn binh vượt qua Nhạn môn quan, tiến đánh và uy hiếp Lạc Dương. Thế những, bản tính nhân hậu, Kiều Phong không muốn cho hai bên Tống - Liêu phải đổ máu, trăm họ lầm than. Ông lại nhớ đến những ngày thơ ấu ở Trung Hoa, nhớ ơn người Trung Hoa đã dành cho ông miếng cơm, manh áo, sự dạy dỗ, giúp ông nên người. Ông rất phân biệt những người Trung Hoa giàu lòng từ ái sẵn sàng cưu mang, đùm bọc một tên "Liêu cẩu man rợ" như ông trong mấy mươi năm. Và ông quyết chống lại lệnh hành quân của Gia Luật Hồng Cơ. Để bắt được Kiều Phong, Gia Luật Hồng Cơ đã dùng kế: sai người vợ thứ ba của mình gọi A Tử - cô gái đang say mê Kiều Phong đến; giao cho cô một bình rượu pha thuốc mê với lời dặn "Uống rượu này vào là Tiêu đại vương sẽ thương yêu hiền muội ngay". Ngây thơ tin tưởng vào lời nói đó của thứ phi Gia Luật Hồng Cơ, A Tử đã rót rượu mời Kiều Phong uống. Và ông đã bị bọn võ sĩ của Gia Luật Hồng Cơ bắt giam vào cũi nhốt sư tử. Gia Luật Hồng Cơ kết tội Kiều Phong bất trung với vua, thông đồng với địch. Ông sẽ bị chém nếu bọn quần hùng Trung Nguyên không đến cứu thoát được và đưa về Nhạn Môn quan.

Biên giới giữa sự có tội và sự vô tội trong số phận những nhân vật tiểu thuyết Kim Dung thật mong manh. Những người chính nhân quân tử thường là nạn nhân những vụ án mà sự kết án vội vàng dẫn đến những oan khuất, những mất mát không thể bù đắp được. Đó là trường hợp Trương Thuý Sơn và Hân Tố Tố, đôi vợ chồng trẻ trong ngày trở về phái Võ Đang, đã trở thành bị cáo trong một phiên toà bất ngờ mở ngay trong đạo quán của phái Võ Đang. Năm đại môn phái Thiếu Lâm, Nga My, Côn Lôn, Không Động, Hoa Sơn lấy cớ lên thăm núi võ Đang để ép buộc hai vợ chồng chỉ ra chỗ ở của Tạ Tốn. Họ trở thành đồng chủ toạ và đồng công tố viên giữ quyền công tố trước phiên toà. Mục đích tối hậu của họ là nhằm chiếm đoạt bảo đao Đồ Long mà Tạ Tốn đang giữ để hy vọng trở thành võ lâm chí tôn. Trương Thuý Sơn và Hân Tố Tố bằng mọi cách phải giữ kín hành tung của người anh kết nghĩa Tạ Tốn. Cả hai vợ chồng đã tìm đến cái chết, tự tử trước phiên toà để giữ cho được phong thái của người nhân quân tử, mặc dù họ chẳng có tội tình gì.

Nhưng có lẽ trong phiên toà cảm động nhất là phiên toà của Minh giáo Ba Tư xét xử vụ án Thánh sứ nữ Đại Ỷ Ty mất trinh, phản giáo. Minh giáo tức Bái hoả giáo (Mazdeisme hay Zoroastrisme) do Zoroasstre, người Ba Tư sáng lập từ thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên. Do sự xâm lấn của Hồi giáo, Bái hoả giáo phân hoá thành nhiều nhánh, trong đó có một nhánh do Manes sáng lập, cũng lấy tên là Minh giáo (Manicheisme), du nhập vào vùng Tây - Bắc Trung Hoa vào năm 760, mà người Trung Hoa vẫn gọi là Mani giáo. Lâu ngày chầy tháng, người ta lượt mất âm nước ngoài, Minh giáo mới bị gọi là Ma giáo. Thực sự, đây là một tôn giáo rất nhân bản, thờ ngọn lửa và mặt trời, cho sự quang minh là thiện, sự hắc ám là ác. Minh giáo chỉ chọn gái đồng trinh làm giáo chủ và những cô gái đồng trinh ấy phải có một thời gian làm những việc tích phúc. Kim Dung kể chuyện Thánh sứ nữ Đại Ỷ Ty của Minh giáo Ba Tư đã được phái sang Minh giáo Trung Hoa làm những việc tích phúc. Nhưng cô gái Ba Tư ấy đã yêu một chàng trai Trung Hoa - Hàn Thiên Diệp và họ đã có một đứa con gái xinh đẹp: Tiểu Siêu. Để tránh giáo luật của Minh giáo Ba Tư, Đại Ỷ Ty phải hoá thân làm một bà già xấu xí. Tiểu Siêu lớn lên, 16 tuổi xinh đẹp như một bông hoa, trở thành con hầu và thầm yêu chủ giáo chủ Minh giáo Trung Hoa Trương Vô Kỵ. Thế nhưng, Minh giáo Ba Tư thi hành giới luật: 18 Bảo Thụ vương từ Ba Tư sang đảo Linh Xà trên biển Trung Hoa, bắt được kẻ phản giáo Đại Ỷ Ty, đưa lên giàn hoả thiêu. Đến phút ấy, Tiểu Siêu mới xuất hiện cứu mẹ. Cô hy sinh mối tình đầu của mình với Trương Vô Kỵ, tình nguyện về lại Ba Tư làm giáo chủ Minh giáo, chuộc tội cho mẹ đã không còn trinh nữ. Tiểu Siêu sang Trung Hoa bằng con đường tơ lụa và trở lại Ba Tư bằng con đường tơ lụa. Cuối phiên toà ấy là tiếng reo hò hạnh phúc của giáo chúng Minh giáo Ba Tư, 12 Bảo Thụ vương cúi lạy cô bé đồng trinh xinh đẹp lên ngôi giáo chủ trong khi những giọt lệ xa người tình của cô vẫn còn đầm đìa trên má. Đó là những phiên toà đẹp nhất mà những "quan toà" và người dự khán đều cúi lạy con của bị cáo.

Trí tưởng tượng và sức hiểu biết của nhà văn Kim Dung thật phong phú. Ông nắm vững những loại tập tục, những khoa học về phong tục (sciences des moeurs) của từng dân tộc, từng tôn giáo môn phái bang hội và phản ảnh khía cạnh luật pháp trong những tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp! Tác phẩm của ông tràn đầy những tình huống đấu tranh giữa thiện và ác, đúng sai. Hai mặt đối lập triệt để đó được dàn dựng một cách công phu, giàu kịch tính giúp ngời ta dễ nhận ra được cái công lý đích thực ở đời. Trong bốn phiên toà vừa nêu, ông đã dành sự thắng lợi cho cái thiện, cái đúng: Lệnh Hồ Xung được sống hạnh phúc, Đại Ỷ Ty được cứu sống, Kiều Phong thoát được hai lần án tử hình. Riêng vợ chồng Trơng Thúy Sơn và Hân Tố Tố chết trước phiên toà nhưng con trai của họ, chàng trai Trương Vô Kỵ vẫn sống. Anh trở thành giáo chủ Minh giáo Trung hoá, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên trên toàn Trung Hoa. Một thuộc hạ của anh, Chu Nguyên Chương, khởi nghĩa thắng lợi ở Hoài Tứ - An Huy, lên ngôi lấy đế hiệu là Minh Thái Tổ.

Hết Xem Phần I , Phần II , Phần III

Nguồn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét